← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Hai Xuân Lâm xua trâu vào trận
Giết Áo Ly, bắt hết trâu thần

Lúc ấy, trên triền núi, Vạn Thắng Vương, Quân sư Lê Thảo, tướng quân Đinh Điền, Hà Bảo Ninh và Hồ Tường Thụy cùng đám lính hầu đứng chờ xem trận của Tế Giang. Quân bộ chiến Hoa Lư còn khoảng nghìn người ở lại. Quân sư quay sang Hồ Tường Thụy bảo:

- Tướng quân lại chuẩn bị cung tên, các tên lửa, lửa hiệu nhé!

Ngửng nhìn lên trời, trăng lệch quá trung tuần đã lên cao, trời trong đen mướt, sao li ti mờ mờ trong lớp sương mỏng. Đứng từ trên cao nhìn xuống, xa chỉ thấy một vùng bao la đen tối, tầm mắt không đi được xa.

Tế tác đến trình: Xuân Lâm cho một đạo quân kỵ nhỏ đi trước sắp lại gần! Vạn Thắng Vương quay sang hỏi Lê Thảo:

- Sao nó lại chỉ có một ít quân kỵ là thế nào?

Lê Thảo suy nghĩ một chút rồi đáp:

- Chắc là Tế Giang muốn đạo quân kỵ này đốt lửa mở hỏa trận trước, sau đấy mới là các trận khác!

Từ trên triền núi, người thính tai đã có thể nghe thấy tiếng vó ngựa thoảng bay lại khi rõ khi mất. Tế tác các ngả đều kéo cá lên núi, trình: Kỵ binh Tế Giang đã tới rồi!

Chẳng mấy chốc, dưới ánh trăng không tỏ nhìn kỹ thì thấy bóng ngựa quân Tế Giang gấp tiến lại. Vạn Thắng Vương hỏi Quân sư:

- Đám quân kỵ này không đông, sao ta không xuống bắt hết đi?

- Trình vương, dù chúng ít cũng có thể còn nhiều hơn ta lúc này ở đây. Vả lại ta cũng nên làm ra vẻ không biết nên sợ chẳng dám xuống, cứ để cho chúng hành động đốt núi thì hơn! Vả chăng, theo sau đạo quân kỵ này thế nào cũng có binh của nó đợi ta xuống núi thì vây đánh, ta cứ đợi!

Quân sư nói đúng một phần, vì theo sau đạo quân kỵ này không thấy có đạo quân nào khác, núi rừng cả một vùng xa xa phía trước mặt vẫn im lìm. Đạo quân này chỉ làm nhiệm vụ phóng hỏa đốt chân núi! Từ trên này nhìn xuống, bóng đêm khiến không trông thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng bóng ngựa chạy, nếu không chú ý thì không phát giác ra được. Đến khi lửa cháy thì mới biết là quân ấy đã nổi lửa.

Lửa cháy dài một dải bọc lấy chân núi không còn chỗ nào là không có lửa. Trong ánh lửa chẳng lớn ấy còn thấy bóng quân kỵ của Tế Giang gấp quay trở lại rồi rẽ ra sang phía Tây mất hút vào trong bóng tối.

Lê Thảo thưa với vương:

- Bẩm trình, thế là lửa đã cháy, cả chân núi bén hỏa liệu tuy ngùn ngụt bốc cao nhưng sẽ không cháy lâu. Vả lại cỏ rơm khô ta đã dọn ra xa, thành ra lửa này chẳng đáng quan tâm. Bọn đốt lửa xong thì vội vã không chạy về mà lại chạy cả sang phía Tây, ấy là nó đến nhập bọn với bọn quân kỵ của nó lén núp ở đấy!

Quay sang Hồ Tường Thụy, Quân sư hỏi:

- Theo như quân trình báo, thì có rơm khô binh ta dọn ra xa chân núi như thế. Liệu từ đây tướng quân có thể phát tên đốt cháy được ở đây không?

Hồ Tường Thụy dè dặt:

- Bẩm, theo như khoảng cách ta dọn cỏ rơm ra xa chân núi, đúng ra là hơn một tầm tên, tên bắn không tới được. Nhưng, từ trên cao này, lấy hết sức thì đường tên đi có thể trúng đích!

- Vậy tướng quân hãy hết sức nhé!

Quân sư nói với Hồ Tường Thụy xong thì bảo Mạc Sa Cảnh truyền quân khắp triền núi hãy hò reo rồi kéo nhau chạy xuống, nhưng đừng chạy nhanh, cứ vừa chạy vừa la hét. Nếu xuống đến chân núi thấy chỗ nào thưa lửa vượt qua được thì cứ vượt rồi tiếp tục chạy nữa. Khi nào có lệnh phải mau mau quay trở lại lên hết trên núi ngay!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, chỉ trong khoảnh khắc khắp triền núi tiếng quân reo rầm rầm hỗn loạn, rồi quân đua nhau kéo xuống. Cả một đạo quân nghìn người xô nhau, đá núi lăn theo rầm rầm, quang cảnh quả nhiên hỗn loạn!

Cũng lại không lâu, xa xa phía trước có tiếng quân reo ngựa hí, rồi một đạo quân ầm ầm kéo tới. Đấy là chính binh công trận do tướng Thiết Thủ Thiên Vương Võ Nguyên chỉ huy có tướng Lâm Hồ Điệp làm phó tướng đang kéo đến.

Phía Tây, cũng lại nghe quân reo ngựa hí ở gần rõ hơn nữa. Đấy là phục binh mã kỵ của tướng Phạm Đồng Văn thấy có lửa cháy thì gấp vào trận. Chiến trường cả một vùng rộng lớn bên ngoài thành lửa dưới chân núi hốt nhiên náo động.

Binh tướng Hoa Lư trên triền núi chợt cảm thấy trong lòng nao nao, chiến trận nhiều điều kỳ dị sắp xảy ra, vách núi dưới chân mọi người dường như run lên nhè nhẹ. Vạn Thắng Vương đứng thẳng thân hình cao lớn đẹp như tượng thần, ngài nhìn vào bóng tối phía dưới xa xa, vẫn chưa thấy gì. Vào lúc ấy, ở phía Đông lại nghe có tiếng quân reo như dòng suối đang réo lên cuốn đến. Mọi người quay đầu nhìn sang vẫn chẳng thấy gì chỉ thấy bóng đêm mờ mịt với cây cối rừng mỏng ở mãi xa xa, tiếng suối reo ầm ầm ấy lại gần, và đây là đạo quân bộ do tướng Phan Minh Hồ nhìn sang phía Tây thấy lửa đỏ trời thì liền nhớ lời dặn gấp kéo đến.

Thế là binh tướng Tế Giang ba phía kéo đến. Quân Hoa Lư chỉ còn có cách dựa lưng vào triền núi mà cự chiến!

Binh Hoa Lư đang chạy xuống núi, được lệnh quay trở lại. Lúc ấy nhiều người đã vượt được thành lửa chỗ thưa, tất cả ùn ùn kéo nhau chạy trở lại có vẻ hỗn độn. Nhiều chỗ quân vừa chạy vừa la hét cười đùa lấy làm thích thú với trận đánh như thế này!

Quân sư thưa với Vạn Thắng Vương:

- Thưa, ta đứng ở nơi này hơi cao, bên dưới nhìn không được rõ. Mời vương đi quá xuống dưới một chút!

Vương cùng Quân sư, Đinh Điền, Hà Bảo Ninh, Hồ Tường Thụy và Mạc Sa Cảnh chậm chậm xuống núi. Quân sư quay lại hỏi Thụy:

- Ông cũng xuống theo, nhưng khi nào thấy cần thì ông phải lên cao đến khoảng nào thấy tiện là được. Còn liệu ở dưới thấp phát tên đi có tới nơi đã định được không?

Hồ Tường Thụy đáp:

- Bẩm, dưới thấp thì tên đi không được xa bằng ở trên cao. Khi nào cần tôi xin lại lên cao!

Quân sư bằng lòng, nói thêm:

- Ngay lúc này, cũng chưa cần bắn tên gì cả, chỉ cần ông tinh mắt nên quan sát kỹ chung quanh!

Hồ Tường Thụy vâng lệnh, hiểu ý câu nói của Quân sư, cả bọn xuống dưới thấp.

Binh Hoa Lư trên triền núi vẫn cứ tiếp tục la hét chạy đi chạy lại, ra vẻ hỗn loạn khiếp sợ lửa đốt cháy. Chưa bao giờ lại có trận chiến kỳ quặc đến như thế này!

Phía trước, binh công trận của tướng Thiết Thủ Thiên Vương Võ Nguyên ầm ầm vào trận, quân kỵ đi đầu, quân bộ kéo theo sau. Lửa cháy ở phía chân núi giục lòng binh tướng Tế Giang cũng hừng hừng nổi theo cùng với những ngọn lửa bây giờ đã thấy ngọn ngoằn ngoèo bốc cao.

Trời tối lại thêm ánh lửa làm lóa mắt không thể trông thấy ở gần, chỉ thấy phía xa, nhưng tiếng động thì lại nghe rõ lắm rồi. Ba phía binh Tế Giang đang vào trận như vũ bão.

Đạo trọng binh của tướng quân Võ Nguyên âm ầm kéo đi. Càng lại gần chân núi tướng quân càng thấy vững lòng! quả nhiên không thấy binh tướng Hoa Lư dám tràn xuống chống đỡ, lửa cháy lớn lại thêm hai bên Đông Tây đều có binh nhà kéo tới hợp chiến. Thế là Hoa Lư bị hãm trong nguy khốn. Rải rác trên đường từ xa chạy tới chân núi còn biết bao nhiêu xác binh Hoa Lư, xác ngựa và xác mấy con trâu chết trong trận thần hồi hôm qua. Mùi máu còn tanh, chiến trường như chỉ mới xong cách đây vài khắc!

Rồi từ tầm xa, tướng quân Võ Nguyên còn thấy cả bóng binh Hoa Lư từ dưới thấp chạy lên cao. Rõ ràng là bị lửa hun thì kinh hoàng chạy xuống, nay thấy có binh ba mặt tiến đánh thì lại hỗn loạn ùn ùn chen nhau chạy ngược cả lên. Tướng quân hào hứng quá, quả nhiên khách lạ phương Bắc tính trận như thần, binh tướng Hoa Lư vượt ngàn dặm chiếm trăm nơi đến đây là chết cả!

Tướng quân kéo quân đi, hào hứng chiến trường khiến ông quên mất một điều hệ trọng: Thành lửa đốt núi chỉ chảy ở dưới chân, không thấy mở rộng ra phía trước núi là nơi chính ông và quân của ông đã rải cỏ rơm khô trộn hỏa liệu!

Tướng quân nhìn sang bên cạnh, thấy phó tướng của ông là tướng Lâm Hồ Điệp cũng đang rạp mình trên lưng ngựa. Ông đã dặn Lâm Hồ Điệp: “Ông có tài khinh công, đi lại như gió cuốn, thì khi vào trận hãy giữ việc phóng hỏa đốt núi nhé!”. Bây giờ, lại gần chân núi, Lâm Hồ Điệp chợt nghĩ ra: “Ông giữ việc phóng hỏa, tại sao lửa đã cháy rồi! Vậy ông sẽ phóng hỏa ở nơi nào?”.

Vừa giục ngựa, Lâm Hồ Điệp vừa quay sang hỏi Võ Nguyên:

- Sao lửa đã cháy rồi, ta đốt nơi nào nữa?

Võ Nguyên như người đang ngủ quên, nói ngay:

- Chân núi! Tới sát nữa!

Ba đạo binh công chiến của Xuân Lâm tới trận thật đúng hẹn. Ba đạo quân bây giờ đã thấy rõ nhau, và ở trên triền núi vương cùng mọi người cũng đã thấy ba phía binh Tế Giang kéo vào.

Vạn Thắng Vương quay sang bảo Quân sư:

- Giả sử ta không rời rơm cỏ khô ra xa, lúc này nổi lửa thì có lẽ đốt hết được ba cánh quân này! Lỡ rồi chăng?

Các tướng ngay lúc ấy cũng nghĩ như thế. Hồ Tường Thụy bứt rứt ông mong được thấy lệnh phát tên lửa đi. Nhưng Quân sư đáp:

- Bẩm trình vương, ba cánh quân này ta đã có binh phá nó. Ta để dành rơm cỏ để đón trận trâu ma!

Ba cánh quân Xuân Lâm ầm ầm kéo tới, chỉ thấy trên triền núi bóng quân Hoa Lư đông lắm, chen nhau chạy ngược lên. Bốn tướng Tế Giang trong lòng mừng rỡ nhưng lại băn khoăn chưa biết làm sao để binh tướng Hoa Lư xuống núi nghênh chiến!

Vào lúc ấy, Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh:

- Binh ta dọn hỏa liệu chất thành mấy đống lớn. Ông xem đống nào ở gần ta nhất thì chỉ cho ông Thụy đốt nó lên!

Mạc Sa Cảnh vừa giơ tay chỉ khoảng ấy, thì cánh cung thần của Hồ Tường Thụy đã phóng mũi tên lửa đi như vệt sao băng từ trên triền núi lướt xuống. Trên cao, mọi người đều thấy vật lửa ấy, nhưng phía dưới ánh lửa làm lóa mắt, khiến binh tướng Tế Giang không trông thấy.

Chớp mắt, tên lửa đi trúng đống hỏa liệu, lửa phụt cháy dữ dội. Ngọn lửa bốc cao tít, đứng trên triền núi chỗ này mọi người thấy nóng hừng hực.

Quân sư bảo các tướng sai quân nhất loạt hô to lên:

- Vạn Thắng Vương đợi xem binh tướng Tế Giang đến lạy chào ở đây!

Quân vâng lệnh nhất loạt hô to, tiếng hô át hết tất cả mọi tiếng động, tiếng lửa rít. Về sau, hai tướng Lê Hoàn, Trịnh Tú phục quân ở xa thế mà bảo rằng cũng nghe thấy rõ ràng. Hai quân mã bộ ở hai nơi ấy nóng lòng quá, đợi mãi chẳng thấy hiệu tên lửa lệnh cho vào trận!

Phía dưới, bốn tướng Tế Giang ngơ ngác! Hoa Lư Động chúa hiện ở đây!? Rõ ràng là tế tác quả quyết Hoa Lư Động chúa đang ở trong quân phía Nam doanh trấn Xuân Lâm cơ mà! Binh tướng Tế Giang bất thần thấy lửa phụt cháy dữ dội thì giật mình, rồi tai nghe tiếng quân trên triền núi thấp hố lớn tưởng như tiếng hô ở ngay bên cạnh tai, thì cả ba cánh quân đầy kinh hoàng khiếp hãi. Nhìn lên triền núi ánh lửa soi tỏ như ban ngày rõ ràng thấy Động chúa Hoa Lư Đinh Bộ Lĩnh cao lớn đứng bên cạnh một người dáng nho nhã, rồi còn mấy người nữa rõ ràng là tướng mạnh!

Võ Nguyên ngẩn người, thế này là thế nào? Binh tướng Hoa Lư xem ra chẳng có vẻ gì là sợ lửa. Động chúa Hoa Lư ở đây ắt là Hoa Lư đã có mưu kế!

Võ Nguyên vừa chực quay sang hỏi Lâm Hồ Điệp, thì đã thấy trên triền núi một vật lửa đỏ rực rỡ vút lên cao, lên cao mãi. Mấy trăm ngàn cặp mắt ở khắp nơi đều thấy vật lửa rực rỡ đó, thì trên triền núi lại có tiếng quân hô:

- Tế Giang đầu hàng! Tế Giang đầu hàng!

Tiếng hô thật đều, nhịp nhịp không dứt, làm cho cả ba cánh quân của trấn doanh Xuân Lâm chợt thấy kinh hoàng, người ngựa xôn xao.

Tướng Lâm Hồ Điệp nối nhanh:

- Ta trúng kế Hoa Lư mất rồi! Mau trở lại nhường chỗ cho ngưu trận!

Võ Nguyên như vừa chợt tỉnh mê, bảo:

- Phải!

Nhưng Nguyên chưa kịp hô lệnh triệt thoái thì đã nghe thấy hai phía Đông Tây tiếng quân reo, ngựa hí như suối từ trên cao đổ mạnh xuống! Binh tướng doanh trấn Xuân Lâm chẳng ai đợi lệnh ai đều nhất loạt quay lại bỏ chạy.

Hai tướng Hoa Lư vào trận, Trịnh Tú dẫn đạo kỵ binh từ phía Tây tràn đến trước. Gươm thần triển ra như chớp nhoáng xông thẳng vào đạo quân Tế Giang. Từ trên triền núi mọi người còn nghe thấy tiếng ông thét:

- Tướng giặc Tế Giang đâu, mau nghênh chiến!

Chưa thấy tướng Tế Giang tới nghênh chiến, thì ở mé Đông quân bộ của Hoa Lư do tướng Lê hoàn dẫn đầu đã vào trận. Từ trên cao lại thấy thanh gươm báu Thụ Thiên của ông bay như những lằn chớp. Binh Hoa Lư vào trận dường như không bị quân Tế Giang cự lại, tha hồ chém giết.

Trên triền núi, Lê Thảo chợt nói:

- Hỏng! Ta quên không dặn, hai ông giết nhiều người quá!

Phải, ở phía dưới, hai cánh quân Hoa Lư nhập trận quá dữ dội. Lại thêm hình ảnh Hoa Lư Động chúa với Quân sư ở trên triền núi, với tất cả những gì binh tướng Tế Giang từng được nghe về Hoa Lư với hai nhân vật này. Làm cho binh tướng Tế Giang chẳng còn lòng dạ nào dám đương cự, thế là binh đi tấn công lại hóa ra binh bị tiến đánh. Cả ba cánh quân không cần biết chủ tướng là ai, mệnh lệnh chẳng thấy, thì tất cả mạnh ai người nấy chạy!

Binh Hoa Lư còn đang theo đuổi ráo riết bại binh Tế Giang, thì phía trước mặt đã nghe thấy tiếng động ầm ầm. Rồi chỉ trong một thoáng, cả hai quân đối thù đã nghe rõ những tiếng rầm rập của chân ngựa chạy gấp tới. Xa xa còn nghe rõ mồn một tiếng trống lạ.

Tức thì tướng Võ Nguyên chợt hô lớn:

- Sang ngang Thần Ngưu trận!

Cả ba cánh quân của doanh Xuân Lâm nhất tề tụt hết sang phía Đông, ào ào binh bộ chiến cố đuổi theo quân kỵ. Mặc cho phía sau binh tướng Hoa Lư ráo riết đuổi theo.

Tướng quân Lê Hoàn cũng như Trịnh Tú vừa nghe tiếng ầm ầm thì tâm cơ chợt chuyển động, những âm thanh của ngàn vó trâu trận còn như ầm ầm trong đầu hai ông. Bây giờ lại những tiếng động ấy chẳng khác nào như tiếng búa đập trong đầu. Tướng quân Trịnh Tú thét lên:

- Trận trâu ma! Mau theo ta!

Con thần mã Ô Truy như cánh đại bàng lớn giạt sang ngang ngược hướng với binh tướng Tế Giang. Cả hai đạo quân mã bộ của Hoa Lư ào ào chuyển gấp sang phía Tây bỏ chạy!

Quả nhiên, cả hai phía quân đội địch trong trận kịp thoát khỏi chiến trường, thì đã thấy bầy trâu trận của Áo Ly như một mảng sông lớn trong bóng trắng không tỏ hạ tuần trôi đi dũng mãnh! Quân cả hai bên chỉ chậm một chút là mang họa lớn!

Trên sườn núi còn lửa cháy không lớn. Vạn Thắng Vương, Quân sư cùng các tướng và đạo quân đều đã thấy rõ trận chiến. Rồi binh hai bên mất hút vào bóng tối ở xa. Chưa lâu chợt có tiếng quân kêu lên:

- Lại có trận trâu! Lại có trận trâu!

Lúc này ở đây, không ai hiểu gì cả. Mạc Sa Cảnh hấp tấp gọi quay lại hỏi quân:

- Sao biết có trận trâu?

- Bẩm, có tiếng vó trâu đang ầm ầm chạy đến!

Đúng, mọi người không biết tiếng động ầm ầm ấy là tiếng gì, bây giờ nghe quân nói thì Quân sư giọng lo lắng kêu lên:

- Nguy rồi! Hai tướng của ta!

Quân sư lo cho cả hai đạo quân mã bộ cùng hai tướng Lê Hoàn, Trịnh Tú. Không ai biết là hai ông đã kịp đưa quân thoát được trận trâu, nhờ có binh tướng Xuân Lâm biết chạy trước!

Quân sư quay sang Vạn Thắng Vương nói nhanh:

- Vương đừng xuống, để tôi đi xem thế nào?

Thật là bất ngờ, Quân sư sao dám hành động như vậy? Vừa nói Quân sư chân bước đi còn nói với lại:

- Ông Cảnh tìm đường đi gặp hai tướng của ta! Chắc là sang phía Tây!

Quân sư chỉ kịp nói thế thì đã lẫn vào bóng tối nhập nhoạng ánh lửa không còn cháy to. Tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh không kịp đáp cũng tức thì băng vào bóng tối. Vạn Thắng Vương cùng các tướng đứng lặng trên triền núi. Tướng Đinh Điền bảo quân mau mau kể lại cách thức của trận trâu. Nghe xong Vạn Thắng Vương bỗng nói:

- Lạ thật! Không có người điều khiển sao trâu lại biết ra vào trận?

Phía dưới xa xa, bây giờ đã thấy những cây nào còn đứng được đang lay động trong âm thanh dồn dập ầm ầm của chân trâu, thoang thoáng đã thấy mảng đen tràn đến. Quân kêu lên:

- Trận này không lớn! Tiếng chân trâu không dữ dội!

Chỉ một thoáng nữa là cả bầy trâu tràn đến, trong ánh lửa chỉ còn thấp thoáng. Mọi người trên núi theo tiếng quân kể cố nhìn, quả nhiên còn thấy loáng loáng ánh gươm giáo ở đầu trâu!

Bầy trâu tràn đến, lửa và triền dốc cản chúng lại. Rồi cả bầy trầu lại ào ào đổ về Nam, không thấy có chuyển động gì khác. Quân lại bảo: Chắc là không thấy có người, lại thêm lửa làm chúng sợ cho nên chúng quay cả lại nơi xuất phát.

Đúng thế, bầy trâu trận quay trở lại, cũng là lúc tế tác của trấn doanh Xuân Lâm theo quân của hai tướng Võ Nguyên và Làm Hồ Điệp đã kịp báo về cho Áo Ly hay: “Tường lửa không đốt được núi, Đinh Bộ Lĩnh cùng Quân sư Hoa Lư đang đứng trên triền núi. Hai đạo phục binh mã bộ đã bị binh Hoa Lư hai mặt Đông Tây đánh dội trở lại, may kịp tránh trận trâu thần!”.

Áo Ly nghe tế tác trình, chẳng khác nào có người vừa bốc một nắm tuyết ở tận phương Bắc xa xôi ấn vào trong cổ áo ông ta! Áo Ly ngẩn người, thế là thế nào? Áo Ly nghĩ: Đinh Bộ Lĩnh đang cầm quân ở phía Nam toan đánh úp doanh trấn Xuân Lâm, sao bây giờ lại đứng trên sườn núi phía Bắc với tên Quân sư của y?! Áo Ly hỏi đi hỏi lại, tế tác nào cũng đều nói như nhau cả!

Áo Ly hoang mang chẳng hiểu ra sao, thì tế tác đã lại tới trình: Bốn tướng sắp mang quan về đến nơi!

Bốn tướng theo tế tác chạy về giữa lúc tiếng trống trận lệnh cho trâu thần vào trận vẫn còn đang đập! Áo Ly ngơ ngác bên những lá cờ hiệu, rồi như chợt tỉnh vội thay đổi cờ hiệu, và văn sĩ Trang Tử Đồng trông nom dàn trống lập tức cho quân thay đổi nhịp đập. Đấy là lệnh cho trâu đoạn chiến quay trở về! Kể cũng diệu kỳ, đường xa có thể tiếng trống không nghe thấy được. Thế mà trâu trận vẫn thấy rõ hiệu lệnh!

Tàn trận, bốn tướng Xuân Lâm tranh nhau thuật lại cho Áo Ly nghe hết mọi việc. Ông nào cũng quả quyết là đã thấy Hoa Lư Động chúa và Quân sư Lê Thảo trên vách núi, lại còn nghe tiếng quân Hoa Lư hô lớn thế nào!

Áo Ly buồn bã bảo:

- Như thế, đạo quân xuống Nam của ta hỏng rồi!

Tướng Lâm Hồ Điệp hỏi:

- Thưa ngài, sao ngài lại bảo là đạo quân xuống Nam của ta hỏng rồi là thế nào?

Áo Ly bảo:

- Ông cho tế tác gấp đường xuống Nam, cố đuổi cho kịp ông Bồi Thành Đức bảo ông ấy mau mau mang binh trở về! Ta sợ không kịp nữa rồi!

Ở đây lúc này không có ai là soái tướng, chỉ có Áo Ly đi lại giữa hai trận Bắc Nam để giám sát và ban phát hiệu lệnh cho trận trâu. Nay cấp thời thì ai cũng phải nhận công việc, vì thế Lâm Hồ Điệp nghe Áo Ly nói thì chẳng cần hỏi lại. Lập tức lệnh cho tế tác hết sức gấp đường chia nhau xuống Nam gặp cho được tướng Bồi Thành Đức.

Áo Ly nói với bốn tướng:

- Ta tin ở tế tác bảo là Đinh Bộ Lĩnh cầm quân đánh vào phía Nam doanh trấn của ta, mà rõ ràng đúng như thế. Y vừa mới vào phủ đường thì việc y lên phía Nam doanh ta là đúng, thế mà y lại ở trên sườn núi phía Bắc ta! Vậy, một là tế tác của ta sai lạc, hai là Đinh Bộ Lĩnh không vào phủ đường mà kẻ vào phủ đường chỉ là Đinh Bộ Lĩnh giả cốt để làm cho binh tướng Tế Giang hoang mang, làm cho ta bị lừa dốc hết binh xuống Nam. Nếu đúng thế thì các ông phải sửa soạn ngay, thế nào nó cũng mang binh đến đánh ta bây giờ đấy!

Bốn tướng Xuân Lâm vội vàng chỉnh đốn binh mã, trận giao chiến với binh tướng Hoa Lư vừa rồi khiến cho bốn ông bị thiệt hại chẳng ít. Bây giờ nghe nói Đinh Bộ Lĩnh sắp mang binh đến đánh, thì cả bốn tướng chẳng còn lòng dạ nào muốn ra trận nữa!

Cùng lúc ấy, tiếng vó trâu rầm rập ngoài xa, dàn trâu trận sắp về đến nơi. Áo Ly tức thì cho trương các hiệu cờ, và văn sĩ Trang Tử Đồng cứ theo đấy mà sai quân giục trống. Văn sĩ đã nghe biết tất cả mọi việc, ông có tâm trạng vừa lo lắng lại vừa sung sướng dễ chịu, hoang mang không biết chính mình lúc này là thế nào nữa! Lo lắng, là vì mình là tướng ở bên đang bại trận, sung sướng ấy là vì những gì mình nói ra bây giờ đều đúng cả!

Trâu trận trở về, tướng Võ Nguyên nói với Áo Ly:

- Thưa ngài, ta trông mong tất cả vào thần trận của ngài, vừa rồi thần trận không phát động được ở chiến trường là vì giặc không ứng chiến, lại thêm có thành lửa cản bước. Nay, nếu như giặc sắp đến, tôi nghĩ là ngài nên lại cho trâu thần vào trận ngay. Như thế thì chắc chắn ta chuyển được nguy thành an, thắng giặc là điều nhất định rồi! Vả lại, đạo quân phía Nam của ta, lúc trở về cũng còn thêm sức trận thần, Đinh Bộ Lĩnh hay tên Quân sư của y không làm gì được ta đâu?

Những lời nói của tướng Võ Nguyên quả thật không sai, chỉ cần trận trâu thần phát động được thì Đinh Bộ Lĩnh nhất định sẽ đại bại. Trận thần không có sức mạnh nào đương cự nổi!

Áo Ly vẫn tự tin, ông chẳng nói ra nhưng Võ Nguyên đã nói, nên ông bảo:

- Phải, ta chưa thua, nhưng có thể bị thiệt đôi chút ở cả hai mặt Bắc Nam. Khi ta hợp nhất được thần trận thì lúc ấy chiến trường là của ta!

Áo Ly đón đàn trâu, lại cho về chỗ cũ đợi tin phía Nam.

Lúc ấy, tướng Bồi Thành Đức cùng với hai tướng Cung Trường Nhâm và Văn Văn Chủng cả ba trong lòng vui sướng như đi hội. Tướng cầm quân ra trận mà tinh thần như thế thật là tài giỏi, khiến cho quân sĩ cũng thấy vững lòng tin chắc vào trận là cả thắng. Làm cho ai cũng muốn nhanh chân để đoạt được công đầu!

Binh kỵ đi đầu, tướng Cung Trường Nhâm cai quản đoàn quân kỵ này. Tướng Văn Văn Chủng dẫn quân bộ theo sau. Cuối cùng mới là đoàn trâu trận thì do chính Bồi Thành Đức trông nom, có văn sĩ Tổ Sinh Bá đi cùng coi cờ hiệu trống lệnh.

Đạo quân xuống Nam đường chẳng xa. Tế tác đi lại như thoi đưa tiếp nối liên lạc giữa Bồi Thành Đức với Áo Ly. Đức có ý cho quân đi chậm chậm, đợi nghe tin thắng trận ở mặt Bắc rồi sẽ cho quân tiến đánh binh Hoa Lư lúc ấy chưa thấy đâu cả. Trên đường đi, Bồi Thành Đức mấy lần nữa được lệnh của Sứ quân Lữ Đường ở Cự Linh khẩn cấp gọi đến, lần nào Đức cũng cho tế tác trình là: “... thế nào cũng thu phục lại được phủ đường ngay...” Đức không tuân lệnh Sứ quân, nhưng không dám nói trước về trận trâu thần của khách lạ từ phương Bắc đến trợ giúp.

Tế tác dò đường rồi về trình Bồi Thành Đức: Phủ đường quả thật binh tướng Hoa Lư đã chiếm giữ, hiện giờ Đinh Bộ Lĩnh đang ở đấy. Lĩnh đã cho lệnh chém đầu một số người cũ! Bồi Thành Đức nghe trình trong lòng thấy lo lắng, phủ đường có Đinh Bộ Lĩnh thì nhất định ở đây phải có nhiều binh tướng, thế nào mà lại chẳng có cả tên Quân sư đáng sợ!

Nhưng, tế tác lại cho hay: Không thấy có đạo quân Hoa Lư toan kéo lên đánh trộm vào phía Nam trấn doanh Xuân Lâm. Bồi Thành Đức nghe trình lấy làm lạ lắm, như thế thì những tin lúc ban đầu nói rằng binh Hoa Lư đã đến gần doanh trại Xuân Lâm là thế nào? Bồi Thành Đức nghi hoặc, bàn với hai thuộc tướng, và văn sĩ Tổ Sinh Bá:

- Hoa Lư lắm quỷ kế, chúa công ta phải bỏ phủ đường về Cự Linh là điều rõ ràng. Hoa Lư đem quân định đánh úp hai mặt Bắc Nam trấn doanh của ta, cũng là sự thật. Thế mà bây giờ lại không có đạo quân phía Nam đánh trộm của nó, tất là lại có điều bất thường? Các ông nghĩ thế nào?

Tổ Sinh Bá nói trước:

- Tôi thấy tên chăn trâu còn ở phủ đường của ta, thì thế nào nó cũng tin chắc bọn đánh trộm cản được ta để nó đuổi theo chúa công ta ở Cự Linh. Bây giờ, ta đem quân xuống Nam, tuy rằng chẳng đúng như lời chúa công bảo ta về Cự Linh, nhưng binh ta cũng có thể chẹn được đường của Bộ Lĩnh. Như vậy binh ta là binh cản giặc từ ngoài xa, để cho Cự Linh ở phía sau có thể chống đỡ. Vậy tướng soái cứ nên tiến quân, ta cho tế tác báo ngay cho ông Áo Ly để có thể phát động được trận trâu thần!

Bồi Thành Đức nghe văn sĩ mưu sĩ của mình bàn như vậy thì dùng dằng, liệu một đạo quân không lớn như thế này đứng ở giữa đường có cản nổi binh tướng Hoa Lư tụ tập đông đúc ở phủ đường không? Vì thế Đức bảo:

- Ông nói cũng phải, nhưng liệu quân ta đứng giữa chỗ trống trải chỉ trông mong vào trận trâu thần, có đủ để cự với Đinh Bộ Lĩnh không?

Tổ Sinh Bá được giao giữ cờ hiệu trong lệnh cho trận trâu, nhưng thật ra ông chưa hề biết phải mở trận, biến trận ra sao để ứng phó với mọi tình thế ở chiến trường. Cho nên nghe Bồi Thành Đức hỏi thì không dám quả quyết gì cả, lại chỉ khuyên là nên báo ngay cho Áo Ly biết.

Đến lượt tướng Cung Trường Nhâm bàn:

- Binh ta xuống Nam tuy chẳng phải là đông, quân kỵ cũng được gần hai nghìn, quân bộ cũng hai nghìn, sức như thế là không yếu. Lại thêm có trận trâu thần sức có thể mạnh gấp mười, gấp trăm. Tôi thấy ta không có gì phải sợ cả. Nếu không thấy có đạo quân đánh trộm phía Nam của nó, chưa chắc nó đã có mưu kế gì. Biết đâu nó lại chẳng tin là đạo quân phía Bắc của nó thắng được trấn doanh ta, cho nên nó kéo nhau đi Cự Linh cả rồi thì sao? Nếu đúng thế, thì ta đến có lợi là bất thần đánh được vào hậu quân của nó, cứu được Cự Linh. Trận trâu thần lúc ấy tha hồ tung hoành thì có thể phá xong được Bộ Lĩnh!

Cung Trường Nhâm vốn xưa là tay lái trâu, sau đổi nghề làm lái ngựa. Quen việc đi lại khắp nơi để kiếm ngựa cho nên nghe được nhiều chuyện trong xã hội, lại vì nghề nghiệp cho nên rất giỏi cưỡi ngựa, biết tính ngựa. Có thể sai khiến được ngựa như có phép thuật phù thủy khiến ngựa làm được nhiều thứ. Nghề bôn tẩu gặp lắm gian nguy nên Nhâm học nghề cầm vũ khí, thường bảo: “Người làm tướng gọi là biết cưỡi ngựa, thì chỉ có gươm dài là thuận lợi hơn cả”. Thế là Nhâm chuyên chú học nghề múa gươm của nhiều thầy, nhờ thế mà học thầy nào đến lúc thành thạo cũng thử đem nghề của thầy khác ra thử thầy. Làm cho những người học nghệ chân chính chẳng biết đường nào mà đối phó với phép đánh gươm hỗn tạp đủ thứ của Nhâm. Nhâm lấy những việc lừa phản thầy như thế làm điều hay, tự khoe là có thể địch được với tất cả những ai cưỡi ngựa cầm gươm. Nhâm có tính hung hăng, ưa việc đánh người. Có lần có quá tay giết cả người rồi bỏ trốn, sau về hầu hạ Sứ quân Lữ Đường. Sứ quân thấy Nhâm giỏi ngựa có tài múa gươm thì thu nhận làm tướng. Nhâm chưa ra trận lần nào nhưng cùng với các thuộc hạ khác của Sứ quân thì chẳng mấy ngày lại chịu ngồi không chẳng tìm cách hiếp đáp dân lành, gây ra không biết bao nhiêu là tội ác. Sứ quân thấy thế, một phần còn thương tài của Nhâm, một phần quen thói che chở cho thuộc hạ làm càn. Nhưng tai tiếng của Nhâm thì nhiều quá rồi nên liền sai Nhâm đến dưới trướng của Bồi Thành Đức để Đức kiềm chế, xa nơi phủ đường cho dân bớt kêu ca.

Cung Trường Nhân là người như thế. Bây giờ khuyên Bồi Thành Đức như vậy thì Đức chẳng thấy yên lòng nên tần ngần chẳng nói gì. Đến lượt Văn Văn Chủng bàn:

- Hành tung của Đinh Bộ Lĩnh xem ra có vẻ mờ mịt, nhưng lúc này y đang ở phủ đường là đúng. Vì ta đã chẳng nghe biết bao nhiêu việc làm của y ở đấy rồi là gì? Bây giờ, vì phía Bắc binh ta đang ở vào thế lợi nên vào trận trước. Chẳng mấy nữa thế nào cũng có tin, lúc ấy hai binh hợp một thì trận trâu thần mới thật là mạnh mẽ. Vả lại, ông Áo Ly chưa tới, thì ta chưa biết phải khai thần trận thế nào. Cho nên ta tạm dừng quân là điều rất phải!

Văn Văn Chủng người ở Bắc Cổ Loa, không biết gia phả ra sao nhưng vì cái tên như thế cho nên thường tự bảo mình là có tài chẳng kém gì Văn Chủng thời xưa ở Bắc phương. Văn Chủng vì gần kinh đô nên cũng được theo việc đèn sách, đọc được trang nào thì luận ra cả mấy ngày không hết. Tự cho là tay “thần thư đế tự” ý khoe mình là hạng thần thánh về sách đọc, vua về chữ nghĩa. Người đời nghe thế thì bảo Chủng là “kẻ đọc sách lóm, chuyên ăn cắp chữ sách chẳng đáng bưng tráp mài mực cho học trò mà lại tự xưng là thần với đế!” Văn Văn Chung xấu hổ bỏ đi, rồi xuống Tế Giang khoác lác được Sứ quân thu dụng. Văn Chủng hay hùa theo văn sĩ Tổ Sinh Bá nên được Bá bênh vực. Nay Văn Văn Chủng đọc sách tự cho là mình biết phép chiến trận, thường hay kể những danh tướng thời xưa, rồi lại phê bình từng người. Làm cho Tế Giang tưởng là Chủng giỏi điều binh khiển tướng như các danh sĩ thời xưa ở Bắc phương thật! Văn Văn Chủng hôm nay cai quản bộ quân theo Bồi Thành Đức xuống Nam đánh với binh tướng Hoa Lư là thế!

Bồi Thành Đức nghe ba thuộc tướng của mình bàn việc, lại càng hoang mang, lo lắng nhiều hơn là tin tưởng ở những tướng của mình. Nhưng ông mong chờ nhiều lắm ở trận trâu của Áo Ly! Thế là Bồi Thành Đức lệnh cho quân tạm dừng, chọn chỗ trấn quân, kỵ binh dàn ra phía trước, quân bộ chia làm hai cánh tả hữu nhường trung bộ cho bầy trâu. Lại dặn Cung Trường Nhâm: “Cho đến khi Áo Ly tới, nếu Hoa Lư mở trận thì phải cho quân rẽ ra hai ngả vừa trợ chiến vừa che chở cho bộ quân ở phía sau, nhường chỗ cho trâu trận tiến lên trước”.

Bồi Thành Đức cho tế tác chia nhau hai ngả Bắc Nam gấp đi xem tình hình thế nào, rồi ông cùng với Tổ Sinh Bá đưa bầy trâu đến trấn ở cuối trận nhìn thẳng ra phía trước. Nhìn bầy trâu trận gươm đao giáo nhọn tua tủa ở sừng ở đầu. Bồi Thành Đức thấy hi vọng lắm. Ông bảo với Tổ Sinh Bá:

- Lạ thật! Trâu cày trông hiền lành thế này. Vậy mà chỉ hai đạo bùa lại làm cho nó dữ dội đến thế được?

Tổ Sinh Bá bảo:

- Thế mới là phép lạ! Tuy nhiên, quan trọng là bài kệ thần, có biết bài kệ ấy thì cờ hiệu trống trận mới linh!

Tổ Sinh Bá săn sóc bầy trâu ra chiều quý trọng lắm. Bồi Thành Đức tuy tận mắt đã thấy thế nào là trận trâu, lợi hại của nó ra sao, nhưng lúc này không có Áo Ly thì bầy trâu nào được việc gì?

Hai tướng Cung Trường Nhân và Văn Văn Chủng trấn quân xong, ông nào cũng cho là binh Hoa Lư sẽ không tới, chủ soái quá lo lắng. Nếu có thì sẽ là binh Hoa Lư đã theo Sứ quân vào Cự Linh đầm rồi. Cả đoàn quân này sẽ là đạo quân đánh tập hậu binh Hoa Lư, lúc ấy tha hồ thu nhặt chiến công!

Ở phía Bắc, Vạn Thắng Vương cùng các tướng đợi Quân sư chẳng lâu, đã thấy Quân sư trở về. Vương chưa kịp hỏi, Quân sư dã thưa:

- Thưa trình vương, lát nữa đây, ta sẽ được chứng kiến lại trận trâu ma của Tế Giang!

Vương bảo ngay:

- Như vậy, lần này để ta vào trận chế ngự chúng xem có được không?

Quân sư hỏi:

- Thưa, vương định chế ngự bầy trâu ấy như thế nào?

- Trâu bò vốn không phải là thứ để đem vào chiến trường được, như vậy thì ta nghĩ: Bầy trâu này tất bị bùa phép yêu thuật mê hoặc cho nên nó mới nổi điên như thế! Nó dùng yêu thuật sai bảo bầy trâu, tức là biết cách làm cho bầy trâu nhất thời nổi điên chứ không phải là biến cho trâu trở thành điên thật được! Trâu cày thì dùng hiệu lệnh để sai khiến đi đứng, sang phải sang trái, thấy nước thì muốn dầm mình, thấy lửa thì lo tránh. Vậy ta dùng lửa mà đốt thì thế nào cũng chặn được chúng!

Lê Thảo cùng các tướng đều cho lời nói của vương là phải, nhưng Lê Thảo lại bảo:

- Trình vương, quả là như thế, đốt lửa thì trâu không dám đi qua, ta có thể ngăn được chúng nhưng như thế thì chưa phá được chúng! Vừa rồi tôi gấp xuống trận, là để xem lại một điều đứng trên triền núi này ầm quá không thấy rõ, tôi đã hiểu trận trâu này và tìm ra cách phá nó rồi!

Vạn Thắng Vương cùng các tướng bấy giờ mới biết lúc nãy Quân sư đi đâu vội thế. Lê Thảo tiếp:

- Thưa, tôi phải đi gấp vì e rằng chậm thì bầy trâu trở về hết, không còn cơ hội để chứng nghiệm điều nghi ngờ! Lúc đứng trên triền núi, bầy trâu từ xa chạy tới tuy ở đây ta chưa trông thấy, nhưng nghe được tiếng vó đập trên mặt đất. Nghe kỹ thì thấy không phải bầy trâu ấy chạy loạn xạ lung tung, nhưng tiếng ầm ầm ấy lúc khoan lúc gấp, nhịp nhàng nhưng không cứ mãi một âm. Chẳng phải là sóng cứ đều đều đập mãi vào ghềnh theo một nhịp. Khi bầy trâu lại gần, thì nghi ngờ của tôi là đúng, tôi vội xuống hẳn chiến trường để nghe cho thật rõ thì mới thấy tất cả bí mật của trận trâu!

Những lời Quân sư nói ra, ai cũng ngạc nhiên! Lúc bầy trâu chạy tới, chỉ nghe thấy vó nện ầm ầm, bụi bốc mù, chứ chẳng thấy có nhịp điệu gì cả! Đúng lúc ấy, Mạc Sa Cảnh cũng đã trở về, ông trình:

- Bẩm trình vương, thưa Quân sư, mọi mệnh lệnh đều đã đến nơi. Tướng Trương Đức Xuân đã thi hành lệnh. Tướng Lê Hoàn giữ nguyên bộ binh không vào trận, tướng Trịnh Tú chắc lúc này đã vào trận!

Không ai hiểu những lời Mạc Sa Cảnh nói, Quân sư quay sang vương thưa:

- Trình vương, thế nào binh Xuân Lâm cũng sẽ lại quay trở lại đây. Lúc ấy ông Trịnh Tú đem quân kỵ khiêu chiến lợi cho bầy trâu vào trận thi đem quân bỏ chạy, lại lên triền núi này tránh nạn. Lúc ấy là lúc ta phá trận trâu này của tên yêu ma nào đấy đến giúp Tế Giang!

Nghe Quân sư nói, mọi người yên lòng, nhưng vẫn không biết là Quân sư sẽ phá trận trâu như thế nào, vương hỏi:

- Có phải Quân sư sẽ dụng hỏa công đốt cỏ rơm khô để phá trận trâu không?

- Thưa, mới đầu quả thật tôi cũng định như thế. Đến khi bầy trâu tới rồi sau khi đi xem lại thì tôi lại thấy ta không cần dùng hỏa công nữa, lửa sẽ có thể giết được trâu, như thế thì làm cho mất trâu của dân. Xong trận ta lấy trâu đâu ra trả lại cho dân? Thưa vương, xuống hẳn dưới trận, nghe tận tai, rồi theo trâu về tận trận, lúc ấy tôi đã hiểu hết. Quả thật trong quân Tế Giang có yêu ma đùng bùa yểm cho trâu bị mê hoặc, rồi dùng đến âm thanh của hiệu trống để sai khiến tiến thoái, tung hoành trong trận. Trống lệnh ở xa, trận ầm ầm không thể nghe được hiệu trống nữa. Lúc ấy chính nhịp chạy của trâu lại làm cho nó biết mà tiến thoái, bùa linh làm cho nó nghe được hiệu trống mà ở xa tai ta không nghe thấy được!

Thì ra thế, vương tươi tỉnh nét mặt, các tướng chợt nhớ: Quân sư là người rất giỏi về âm luật nhạc pháp, chắc là Quân sư đã nghe được những âm thanh khác lạ?

Vương hỏi:

- Quân sư đã nghe thấy tiếng trống trận như thế nào, tiếng vó trâu đạp đất thay đổi ra sao?

- Thưa trình vương, quả thật tôi đã nghe thấy rồi! Trống trận ma lúc tôi tới nơi tuy rằng ở xa nhưng nghe rõ lúc ấy trống nhịp theo cung bậc của mơ màng, thuần bình, âm nhịp không gấp rút. Nhưng nghe trong những âm ấy lại thấy không có âm trầm của nung đốt thôi thúc chất chứa để tìm cơ hội thoát ra mãnh liệt. Hoa Lư có âm cao để làm cho rung cảm phải trở nên sôi nổi. Âm luật ấy của nhạc thì ở đâu cũng thế, nhưng trong trống trận trâu ma thì nó lại còn có một âm nữa luôn luôn được tấu lên. Âm ấy là âm trung lã thuần ấm dùng trong nhạc tế lễ của một dân tộc ở mãi phía Tây. Người phương Bắc nước ta gọi dân tộc ấy là Ba Tư. Âm này có hiệu lực làm cho người nghe có thể tán lạc tinh thần, tâm hồn không còn tự chủ được nữa, rồi đi vào thế giới của huyền hoặc quái dị. Người ta nghe được âm thanh đã đành, sao bầy trâu là loài không hiểu gì về nhạc lại hiểu được những âm ấy, thì chắc là nhờ ở hai đạo bùa dán dưới bụng nó! Trâu vào trận, nhịp chân tay tự nó phát ra thay cho trống trận. Cho nên dù ở xa chỗ phát ra tiếng trống, trâu vẫn hoạt động được theo tiếng chân nó đạp đất thành hiệu lệnh, lợi hại thật! Giả sử ta có cách làm cho chân trâu chạy không tồn khả năng gì nữa. Ở đây, ta không thể tháo nước vào làm cho chiến địa thành vũng bùn lớn được, đốt lửa cũng không được. Chỉ còn có cách ta hủy dàn trống trận của nó đi thì thế nào cũng phá được trận!

Ghê gớm thay! Nhạc trong trời đất là thế nào trong cuộc sống của con người. Vậy mà bây giờ nhạc lại là mệnh lệnh huyền bí sai bảo được cả loài vật!

Vương thở phào, các tướng nghe Quân sư nói về tiếng trống và nhịp đập chân của trâu trận thì vừa thấy ghê ghê vừa mừng rỡ. Lê Thảo tiếp:

- Tế tác của ông Mạc Sa Cảnh cho ta hay: Xuân Lâm chia quân hai mặt cự lại ta. Chắc là nó có trận trâu ở cả hai mặt cho nên mới dám làm như vậy! Nhưng, ở mặt Bắc này, nó đã thất bại, trâu trận tới rồi lại phải lui. Hệ trọng hơn cả là nó đã thấy vương đứng trên này, thì thế nào nó cũng dốc hết lực thu binh nhập một dốc hết lên đây. Nó sẽ hiểu là hỏa trận cỏ rơm khô của nó đã bị sai lạc, chờ ta xuống nghênh chiến là nó cho trâu vào trận. Nếu không phá được trận trâu của nó, ta lại phải chạy lên trên cao. Lúc ấy nó chỉ cần tìm cách vây hãm, sửa sang lại cỏ rơm khô, lại dùng lửa đốt núi, tuyệt đường lương thực của ta. Thế là nó làm cho ta bị lỡ hết mọi việc!

Tể tác gấp đến trình:

- Ở mặt Nam, tướng Trương Đức Xuân vâng lệnh đã cho quân lui lại, lên hết trên cao chờ đợi, nhưng đạo quân xuống Nam của Xuân Lâm đã dừng rồi gấp đường quay ngược lên Bắc. Tiền quân của Xuân Lâm ở mặt Nam lúc này là bầy trâu, hậu quân là kỵ binh, bộ binh đi ở giữa!

Quân sư nghe trình, thì thưa với vương:

- Quả nhiên nó đã quay trở lại hội hai quân làm một, thế nào nó cũng lại kéo lên đây! Vương xuất hiện ở nơi này thế là đủ làm cho ta dễ dàng phá nốt được đạo quân lớn trấn giữ phía Bắc phủ đường Tế Giang. Lữ Đường chạy vào đầm Cự Linh thì không còn lối ra nữa rồi!

Quay sang Hồ Tường Thụy, Lê Thảo bảo:

- Bây giờ ta không cần phải đốt lửa nữa, vậy tướng quân hãy cùng đi với ta!

Lê Thảo bảo hai tướng Đinh Điền, Hà Bảo Ninh:

- Hai ông giám trận, khi nào thấy ông Trịnh Tú mang quân kỵ ra khiêu chiến dụ nó lại gần. Nếu tiền quân của Xuân Lâm không phải là quân trâu thì cứ để cho ông ấy chiến với giặc. Hai ông phải hết sức chú ý nếu nhìn thấy trâu trận thì phải ra hiệu để ông ấy lui binh lên cao ngay. Binh Tế Giang lại gần thì các ông cho quân không cần phải làm gì cả, chỉ cứ đều đều hộ cho to: “Vạn tuế, Vạn Thắng Vương!” để cho binh tướng Xuân Lâm nghe thấy, nhìn thấy ở trên này là đủ!

Nếu thấy trận trâu không hoạt động nữa, thì tất cả các ông hộ tống để vương xuống trận!

Quân sư lại hỏi Mạc Sa Cảnh:

- Tướng coi giữ trấn doanh Xuân Lâm này là ai?

Mạc Sa Cảnh đáp:

- Bẩm, tôi nghe hai ông Lê Hoàn, Trịnh Tú nói là Bồi Thành Đức!

Quân sư giật mình, bảo:

- Bồi Thành Đức à?! Tiếc thật!

Trước khi cùng với Hồ Tường Thụy ra đi. Quân sư còn dặn các tướng: “Binh Tế Giang cũng là người Giao Châu ta cả, hàng phục được chúng mà càng bớt đổ máu càng hay. Để dành máu xương ấy mai sau chiến cản quân ngoài. Bầy trâu không biết gì thì đừng sát hại, giữ lấy để trả lại cho dân. Ta ra đi rồi sẽ trở lại gặp các ông lần nữa!”.

Rồi Quân sư bái biệt Vạn Thắng Vương, cùng với Hồ Tường Thụy theo tế tác dẫn đường xuống núi. Lại dặn tế tác nói với Mạc Sa Cảnh là xong việc tìm gặp Quân sư ngay. Chẳng mấy chốc bóng Lê Thảo đã lẫn vào cây cỏ núi rừng.

Lê Thảo đi được một thời gian cũng lâu, trên triền núi cao mọi người đã thấy bụi vẩn, rõ ràng là có quân đang tới. Tế tác đến trình trước vương:

- Bẩm trình đại vương, tướng quân Trịnh Tú mang quân kỵ dàn trận đợi chờ binh Tế Giang!

Vương hỏi:

- Binh Tế Giang có đến không?

- Bẩm trình vương, tướng quân Lê Hoàn đã mang quân bộ xuống Nam khiêu chiến để kéo quân Xuân Lâm ngược lên, chắc thế nào cũng có chiến!

Tế tác vừa trình xong, tế tác khác lại đến trình:

- Bẩm trình vương, hai quân Nam Bắc của Xuân Lâm đã hợp một. Quân kỵ đi trước chắc là sắp giao chiến với quân của ông Lê Hoàn!

Lê Hoàn giữ quân bộ, làm sao chiến lại với quân kỵ của Tế Giang được! Lo lắng ấy của vương và các tướng không trả lời được, nhưng ở trận địa thì việc lại khác!

Áo Ly buồn phiền cho lệnh tế tác gấp xuống Nam gọi Bồi Thành Đức mau mau đem binh trở lại. Lại bảo tế tác nói với Đức: “Phải cẩn thận phía sau, tuy rằng Đinh Bộ Lĩnh hiện đang ở trên triền núi phía Bắc doanh, nhưng có thể có binh tướng của Hoa Lư đánh lén!” Lẽ ra thì lời dặn này của Áo Ly là đúng, nhưng may nhờ có Lê Thảo sợ tướng Trương Đức Xuân gặp phải trận trâu thì nguy hiểm lắm. Cho nên lệnh cho Xuân lui lại, đem quân trấn giữ nơi cao, lại chất sẵn cỏ rơm khô đề phòng trận trâu kéo đến thì đốt lửa mà ngăn cản. Nhờ thế Bồi Thành Đức kéo quân trở về không bị đạo quân nào của Hoa Lư đánh tập hậu!

Còn Bồi Thành Đức đang hoang mang thì được tin của Áo Ly, ông ngần người rồi kinh hãi vội lệnh cho tướng Cung Trường Nhâm thu quân kỵ lại đi ở phía sau đề phòng bị đánh tập hậu. Tướng Văn Văn Chủng mang quân bộ đi giữa, đích thân Bồi Thành Đức cùng với Tổ Sinh Bá thì đưa bầy trâu trận đi trước. Quân đi không được nhanh vì đàn trâu bình thường không thể nào di chuyển nhanh bằng người hay ngựa được. Vì thế Áo Ly dài cổ ngóng đợi, Hoa Lư có thì giờ để sửa soạn đón trận trâu.

Áo Ly lo lắng bồn chồn rồi cuối cùng hai cánh quân cùng hợp lại được với nhau, lúc ấy trời đã vào đến giữa giờ Mùi. Bồi Thành Đức bảo Áo Ly:

- Tôi không hiểu như vậy là thế nào? Đinh Bộ Lĩnh rõ ràng là ở phủ đường rồi bỗng nhiên lại xuất hiện ở đây! Bây giờ, tôi nghĩ chỉ còn có thần trận của ngài là hơn cả, ta nên sửa soạn để mở trận ngay là hơn!

Áo Ly cho là phải, lại hợp nhất các dàn trống cờ hiệu, lại lập trận từ vùng gò Thất Tinh, rồi bảo Bồi Thành Đức cho quân ky vào trận trước. Đến khi nào trận trâu phát động thì quân kỵ rẽ sang phía Đông phục sẵn, đợi khi binh Hoa Lư bại trận rút lên núi thì kỵ binh đuổi theo. Quân bộ lúc ấy cũng kéo theo bắt cho kỳ được Đinh Bộ Lĩnh.

Bồi Thành Đức bây giờ cùng đường nhiều lúc đã cảm thấy hối hận. Muốn lui binh về đầm Cự Linh theo lệnh của Sứ quân, nhưng Áo Ly một mặt quả quyết là thế nào cũng đả bại được Hoa Lư là cứu được tất cả, thu hồi lại được phủ đường. Một đằng lại dọa là: Nếu bây giờ lui binh, thế nào Hoa Lư cũng đuổi theo, lúc ấy khó có thể thi thố được Ngưu Trận. Hai ông đem lý lẽ ra để bàn cãi trong khi quân đang chuẩn bị.

Nhìn tình cảnh ấy, văn sĩ Trang Tử Đồng nảy ý, liền lên tiếng:

- Thưa soái tướng, bây giờ thế này là hay hơn cả: Ta cứ lui binh trở lại đầm Cự Linh, cho bộ quân đi trước, kỵ binh đi ở hai bên tả hữu làm thế phòng trợ. Trâu thần thì đi ở phía sau. Nếu quả thật Hoa Lư thấy ta lui binh mà đuổi theo, thì lúc ấy Ngưu Trận ở phía sau có cơ hội phát huy, tha hồ đánh giết binh tướng Hoa Lư. Trong khi ấy hai quân mã bộ của ta lại giữ cho Hoa Lư ở Phục Tượng, phủ đường không thể đánh lén ta được! Như thế, là lệnh của chúa công vẫn thi hành, mà lại đánh thắng được Đinh Bộ Lĩnh, bảo vệ được đầm Cự Linh!

Lời bàn của văn sĩ Trang Tử Đồng quả thật khôn ngoan! Nhưng, trong lúc Bồi Thành Đức còn đang lưỡng lự, thì Tổ Sinh Bá thấy không thể để cho Trang Tử Đồng thành công được, phải mau mau giành lấy công lao về cho mình. Mà muốn như thế thì không gì bằng phải làm sao để đem được Hoa Lư ở phía Bắc Xuân Lâm vào trận, để cho Áo Ly có cơ hội thi thố trận trâu. Sinh Bá tin tưởng vô cùng vào trận trâu vô địch của người đồng hương mình, cho nên bảo:

- Ông Trang nói như thế cũng có lý đôi chút, nhưng như vậy là ông chỉ mới biết một chứ chưa biết được ba!

Bồi Thành Đức hỏi vội:

- Ông thấy thế nào?

- Thưa soái tướng, những lời nói của ông Trang: Thứ nhất, binh thất thế mà phải lui thì làm sao lấy lại được tinh thần nữa! Vả chăng, chúa công ta thất thế phải lui về Cự Linh, ta vội vàng đem binh vào theo. Thế là Hoa Lư chiếm giữ được cả bên ngoài, ta chen chúc cả vào một nơi lâm vào thế thủ khó khăn, sao lại bảo là diệu kế được! Thứ hai, không phải là ta suốt cả đời cứ hưng binh để cầm cự với một Hoa Lư, mà bây giờ phải là để trước phá Hoa Lư gỡ thế bí, sau đi rộng ra ngoài thiên hạ mưu đồ đại nghiệp. Thế mà không mở thế công lại lui về thế thủ bị bao vây, sao gọi là diệu kế được! Thứ ba, Hoa Lư khiếp hãi lo sợ trận trâu thần của ta. Hoa Lư chết tướng thiệt quân phải kéo nhau chạy cả lên núi lánh nạn, sao ta lại không biết dùng ngay cái lợi lớn lao ấy để đánh Hoa Lư? Lại để cho Hoa Lư có cơ hội quay lại chèn ép ta nguy hiểm như vậy, diệu kế ở đâu?

Bồi Thành Đức nghe Tổ Sinh Bà nói thì lại thấy có lý quá! Đức lại băn khoăn thì đến lượt Áo Ly bảo:

- Kế của Trang tiên sinh là kế lâu dài cầm cự khi ta còn có sức để nuôi quân mười năm, còn mười thành để đi lại mở trận. Nay, chúa công ta đã phải vào Cự Linh, giang sơn chẳng còn mấy, doanh trấn Xuân Lâm này là hi vọng cuối cùng thì mới phải. Nếu ta bỏ đi nốt, thì liệu diệu kế cầm cự lâu dài có trở thành được gì không? Chỉ mới một trận, ta đã thắng lớn, Đinh Bộ Lĩnh phải vội vàng đến cứu. Ta đánh mười trận thắng cả mười trận, liệu có cần phải vào đầm Cự Linh nữa không? Bọn Bộ Lĩnh trốn lên núi, chẳng lẽ nó trốn được mãi. Nó sợ trâu trận của ta thì ta đưa bộ binh, kỵ binh vào trận như nó xuống, sau đấy thì ta xua trâu vào trận thì phá được nó!

Áo Ly nói về thế chiến cũng lại có lý, nhưng đến chỗ như Hoa Lư xuống thì một lần Hoa Lư đã xuống rồi rút cục binh trâu phải trở về chẳng mở được trận. Phải làm sao để dụ được Hoa Lư xuống đây?!

Bồi Thành Đức hỏi, Áo Ly đáp:

- Đinh Bộ Lĩnh tự thị là anh hùng trong thiên hạ, nay khiếp nhược chạy trốn lên núi lại còn gian giảo xưng vương xưng bá cốt để giữ cho tinh thần chúng binh khỏi tan nát. Nay, ta công khai đến trước núi, mở trận trâu, réo chửi thách Đinh Bộ Lĩnh xuống phá trận, thì thế nào thằng chăn trâu cắt cỏ ấy cũng xuống cho mà xem!

Bồi Thành Đức nghe thế thật lòng chẳng lấy làm tin tưởng lắm, nhưng không còn cách gì hơn, đành bỏ lời khuyên của Trang Tử Đồng. Nghe theo lời của Tổ Sinh Bá và Áo Ly, đem quân đến trước núi khiêu chiến.

Bồi Thành Đức để cho Áo Ly lập trận Ngưu Ma Vương ở phía sau, phía trước đem quân kỵ dàn ra sai tướng Võ Nguyên giữ trận, Lâm Hồ Điệp trợ trận. Lại sai Cung Trường Nhâm đem một nửa quân bộ chiến đi sang mé Đông, Văn Văn Chủng đem một nửa quân bộ nữa sang mé Tây, tìm chỗ kín đáo ngay hai bên sườn trận trâu làm thế trợ chiến. Bồi Thành Đức cùng với Trang Tử Đồng đi lại giám trận.

Áo Ly đem hết trâu trận ra, sai Tổ Sinh Bá giữ cờ hiệu phát trống lệnh. Còn Áo Ly thì lên đài cao lập để cầu bùa linh ở đấy mà xem trận.

Thế trận của tướng Bồi Thành Đức giăng rộng hơn sáu dặm đường. Từ chân núi đến cuối trận trâu đường dài gần mười dặm, ba quân vào trận thật mau lẹ, khiến cho tướng Lê Hoàn coi quân bộ và Trịnh Tú giữ quân kỵ của Hoa Lư vội vàng tin cho nhau biết. Và tế tác của Hoa Lư đã thấy hết mọi việc, mang lệnh của hai tướng lên trình Vạn Thắng Vương trên sườn núi.

Vương bảo:

- Quả nhiên Xuân Lâm lại lập trận quyết chiến với ta, nó tin ở trận trâu ma nên mới dám như vậy. Bây giờ nó để quân kỵ đi trước, thế nào cũng lại tìm đường rẽ tránh nhường lối cho trâu. Quân bộ chiến đi hai bên tả hữu trận trâu cốt để vừa trợ trận vừa theo trâu vào trận, nó lại không biết quân mã của ta chỉ để khiêu chiến, quân bộ trợ chiến, cốt yếu là ta phá binh trâu của nó, lần này thì ta xong trận!

Lúc ấy, trời đã về chiều, Vạn Thắng Vương thấy ngày sắp hết chợt nhớ lời Quân sư nói: “Chỉ khoảng chiều ngày Canh Tý hai mươi mốt tháng Giêng này là Vương sẽ trở lại với quân ra Siêu Loại rồi”. Vậy mà hôm nay đã là chiều ngày hai mươi, làm sao kịp ra Siêu Loại?

Trời tối dần, tin từ dưới trận trình lên liên miên. Binh tướng Xuân Lâm muốn mở trận ngay trong đêm, quyết lấy bóng tối xua trâu thần vào trận không để cho binh tướng Hoa Lư thấy đường thoát thân. Trên triền núi, Vạn Thắng Vương bảo các tướng:

- Thế nào giặc cũng đến khiêu chiến, có ý khích ta xuống để nó xua trâu vào trận đây! Nó sẽ đưa quân kỵ vào trận trước để dễ lui lại nhường chỗ cho trâu. Khi nó lui thế nào cũng đặt phục binh để đánh úp đạo quân ta đang đuổi theo quân nó. Đấy là lối hành quân cũ rích của người xưa “công thành, đả viện”. Ta muốn vào trận chiến với trâu trận của nó một phen xem sao!

Tướng Đinh Điền nhớ lời Quân sư dặn, liền nói:

- Bẩm, trong trận ta đã có tướng trông nom, lại thêm ở đây còn mấy người nữa. Vương chẳng nên vất vả vào trận làm gì! Vả chăng, Quân sư nói là đã có kế để triệt hạ trận trâu của nó, trâu thì phải cố giữ để trả lại cho dân, Vương vào trận không có lợi. Chỉ cần đứng ở đây để cho thiên hạ thấy là đủ rồi!

Vừa lúc ấy, kỵ binh của Xuân Lâm ào tới, không biết là có quân Hoa Lư phục sẵn. Tướng Võ Nguyên giục chiến mã tới trước trận. Theo sau tướng này là quân kỵ hung hăng, vừa tới nơi là Võ Nguyên đã sai chúng quân lên tiếng réo gọi đích danh Vạn Thắng Vương thách thức giao chiến.

Vương bảo các tướng:

- Rõ ràng là nó khích ta! Không biết tên này là thế nào?

Đinh Điền gọi tế tác đến hỏi, tế tác đáp: “Đây là tướng tên gọi Võ Nguyên, người đời tặng cho danh hiệu là Thiết Thủ Thiên Vương, gốc gác là thợ đá”. Vương nghe nói lại muốn xuống trận, các tướng nhất quyết can gián không để vương đi. Tướng Hà Bảo Ninh nói:

- Bẩm trình Vương, tôi nghĩ chỉ lát nữa đây là thế nào ta cũng được thấy ông Trịnh Tú vào trận, tên thợ đá này chẳng thọ được lâu đâu! Quân sư muốn ông Trịnh Tú dụ nó đến trước trận, thì bây giờ tự nó dẫn thân đến, sao ta còn phải vất vả làm gì?

Hà Bảo Ninh vừa dứt lời, thì quả nhiên hậu quân kỵ binh của Tế Giang thấy có xáo trộn, bụi vẩn mù trời. Tướng quân Tịnh Tú đã bất thần mang quân vào trận.

Tướng Lâm Hồ Điệp của Tế Giang đi ở hậu quân vội vàng ứng chiến, thì Trịnh Tú đã như làn gió ào đến. Con thần mã Ô Truy đi đã nhanh mà gươm của Trịnh Tú đi có lẽ nhanh hơn nữa. Tướng Lâm Hồ Điệp vừa giục ngựa tới cản đường thì tay gươm của Trịnh Tú đã đánh ra nhằm giữa đầu Lâm Hồ Điệp xả xuống. Lâm Hồ Điệp nghiêng mình tránh đòn, hoành tay gươm chém với một đường vào sườn Trịnh Tú. Đường gươm của Hồ Điệp mau lắm nhưng vó ngựa thần Ô Truy đã đưa Trịnh Tú băng ra xa.

Tú quay ngay ngựa lại, tướng Võ Nguyên ở tiền quân kỵ của Tế Giang đã được biết có kỵ binh Hoa Lư bất thần đánh vào hậu quân, và tướng Lâm Hồ Điệp đang giao chiến với tướng Hoa Lư, liền hô quân giãn ra hai phía tựa hồ cánh diều lớn giang rộng. Võ Nguyên cho quân đội hậu quân làm tiền quân quay trở lại toan hợp sức với Lâm Hồ Điệp chiến với binh tướng Hoa Lư.

Vào trận hai ngựa qua lại với vài ba đường đâm chém, Lâm Hồ Điệp bỗng thấy tướng Hoa Lư chuyển hẳn phép múa gươm. Tay gươm