Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Ba Mắng Thành Đức thu hàng hàng tướng giỏi
Đem hỏa Vân đốt cháy Cự Linh
Người vừa hô to lên gọi các tướng ngừng tay, chính là Mạc Sa Cảnh. Lê Thảo giục ngựa chạy tới thấy các tướng đang vây quanh Vạn Thắng Vương, thì tâu rằng:
- Bẩm vương, việc ở đây đã xong, chúng binh tướng đang đợi ngài ở Cự Linh. Tôi xin được dàn xếp việc nhỏ này!
Rồi không đợi Vạn Thắng Vương kịp nói, Quân sư quay sang tướng Tế Giang hỏi:
- Tướng Tế Giang, có phải ngươi là Bồi Thành Đức đấy không?
Bồi Thành Đức từng nghe danh Quân sư Hoa Lư. Bây giờ gặp mặt ở đây ông dù vẫn nghe thiên hạ nói cũng không thể nào tưởng tượng ra được nhân vật này lại chính là con người từng có những việc làm rung trời chuyển đất. Con người còn trẻ trung với những nét mặt thật đẹp này từng được văn sĩ Trang Tử Đồng mới đây trong hội chẳng hết lời ca tụng, đem so sánh với Vũ Hầu thời Tam quốc tranh hùng. Đến khi nghe Quân sư hỏi với giọng bề trên thì Bồi Thành Đức tự nhiên thấy trong lòng bừng lên niềm kiêu hãnh, ông ưỡn ngực đáp:
- Bồi Thành Đức chính là ta! Ta nghe danh Quân sư Hoa Lư là người đọc sách, biết lễ nghĩa của bậc thánh xưa. Vậy mà chẳng qua cũng chỉ là hạng nói năng thô lỗ!
Tướng Hà Bảo Ninh chực thúc ngựa xông tới. Lê Thảo giơ tay cản lại mà rằng:
- Phải, sách cũng có nói: “Lời lẽ dùng cho đúng việc đúng người”. Thế thì loại người như ngươi tăm tối thờ Lữ Đường làm chủ, cũng đủ để cho người đọc sách chẳng muốn uổng lấy nửa lời dạy dỗ. Huống hồ lại còn bao nhiêu lỗi lầm khác đến nỗi u tối rước cả yêu quái vào nhà toan hại cả nòi giống, bán cả đất nước. Con người như thế lại còn đòi ta đem lời thanh nhã ra để ban cho những lời dạy bảo, quả thật là phường bất trị. Có hơn gì mấy con trâu bụng dán bùa, mê man đợi nghe trống lệnh cờ hiệu để đâm đầu vào chỗ chết. Làm gì có tri thức để hiểu được lời lẽ thanh tao của người trí giả!
Lê Thảo tự nhiên mắng Bồi Thành Đức một hồi, làm cho Đức ngẩn người chẳng biết nói sao. Các tướng trụ ngựa nghe Quân sư nói cũng chẳng hiểu gì cả, riêng Vương thì ngài hiểu được ít việc, ngài thản nhiên. Lê Thảo tiếp:
- Bồi Thành Đức, cha mẹ không đặt cho người tên như thế. Nhưng người cũng có được đôi chút theo đòi người hiền để làm những việc được thiên hạ ban cho trọng hiệu là Cứu Tinh Thần Quân, ơn nghĩa thi thố ra ngoài thiên hạ khiến cho đất trấn nhậm được xem là chỗ “đất lành chim đậu, nơi có bóng cây cao rợp mát” người tụ về, bá tánh ơn mà yêu, quý mà tiếc, chia cơm áo cho người nghèo, chung lẽ phải với kẻ cô thế. Vậy mà lại kiêu ngạo tự gọi những việc làm của mình đã bồi lên thành đức lớn cho mình, quả là nực cười! Đến khi đại loạn mới thấy được đâu là đức, đâu là trí. Lòng nhân phải đặt vào nơi nào? Có thế mới là người đang để cho đời xưng tụng là cứu tinh được! Nay, Lữ Đường lừa mệnh triều đình, cả gan xưng hùng tự gọi là Sứ quân, ấy là kẻ cuồng đồ hung hãn, tự cho mình được quyền ngang vua. Dưới trướng thu dụng toàn những phường lạc thảo, dung túng cho thuộc hạ tha hồ vơ vét, bóc lột, tàn hại lương dân. Làm cho bại hoại cả luân thường, đến nỗi có kẻ tội ác chất cao như núi. Lữ Đường cũng phải rùng mình tránh tiếng sai nói gì đến kẻ làm tướng như ngươi. Vậy mà người vẫn không nhìn ra! Như thế có phải người đúng là phường đầu cướp ơn một mà đến trăm tội không! Lại có những kẻ vốn là đứa trôi sông lạc chợ làm tay sai cho ngoại tặc, nhân cái danh Cứu Tinh Thần Quân của ngươi bèn đến núp bóng ẩn thân chờ ngày hại nước. Thế mà ngươi lại mừng rỡ tin yêu, sai đi cùng giặc toan lấy yêu thuật để che bóng mặt trời, rỏ ra là đứa thất phu tăm tối!
Nghe đến đây, Bồi Thành Đức mặt tái mét, ông ta không thể nào ngờ được lại bị Lê Thảo mắng lớn kể tội đến như vậy! Đức vốn là kẻ nghĩa khí, nay nghe Quân sư Hoa Lư kể tội thì như tỉnh ra, lắp bắp nói:
- Ta không hại nước, ta không hại dân...
Lê Thảo chẳng để cho Bồi Thành Đức nói hết, liền chặn lời mà rằng:
- Phường giặc cướp nhỏ thì dùng dao cướp đoạt tài sản của người đem về làm của riêng. Ngươi che đậy tội cướp bóc bằng cách đi lại che chở cho bọn giàu có để nhận bạc vàng nhiều đến phải dựng nhà riêng để chất chứa, sao lại không phải là giặc cướp hại nước hại dân! Tớ đã đến thế, thì chủ đến thế nào? Lữ Đường bỏ chạy vào Cự Linh, bạc vàng gấm vóc không chở đi kịp còn để lại nhiều chất cao như núi. Ngươi thu thập những phường đâm chém ra canh giữ một nơi cửa ngõ cho Lữ Đường, có hơn gì một con chó canh cửa cho chủ, lại tự cho là hổ tướng. Sao không biết thẹn với bá tánh dân đen còn biết nhận ra đâu là mặt trời, bày hương án ra đường đón lạy Hoa Lư Động chúa, reo mừng thấy đứa gây họa đã phải chạy xa!
Đến đây thì Bồi Thành Đức cổ thấy nghẹn, cố kêu to lên:
- Quân sư! Quân sư...
Lê Thảo vẫn không thôi, lại tiếp:
- Sao ngươi chẳng tận mắt được thấy cảnh trăm dân ở phủ đường, tận mắt được thấy tội ác của Lữ Đường giam giữ hàng trăm dân lành chỉ vì chẳng đáp ứng được tính tham tàn của Lữ Đường với đám thuộc hạ! Giam giữ đã vậy, còn giết người trong mấy chục năm ròng thì đến đâu! Ngươi sống độc thân chẳng hiểu thế nào là tình nghĩa vợ chồng, cha con. Cho nên mới không thấy đau lòng trước những hành vi bạo ngược của đám thuộc hạ Lữ Đường cướp vợ người, bắt con gái người. Còn ở đâu lại chẳng oán than, thế mà người vẫn một mực xin được trung thành chết vì chủ. Rõ là phường ngu phu không thể hơn loài vô tri vô giác được! Lúc này, thế tàn, thuộc hạ đứa bị giết, đứa bị bắt, đứa làm đầu têu bày trò yêu ma cướp trâu của dân lập trận. Tưởng là có thể đem súc vật để hơn được loài người thì đã chết thảm, quân tan lực kiệt. Lẽ ra nên tỉnh ngộ xuống ngựa quỳ lạy trước Vạn Thắng Vương mà xin được đi trước quân lập công chuộc tội mới phải. Sao lại còn dám đặt mình ngang hàng với binh tướng nhân nghĩa của Hoa Lư để đòi được thế này thế nọ?
Các tướng Hoa Lư càng nghe Quân sư mắng Bồi Thành Đức thì ngạc nhiên lắm. Nhớ lại năm xưa Lê Thảo trước trận đã một lần đối đáp với Nam Tấn Vương, sao ở đây chỉ với một tướng tội lỗi của Tế Giang mà Quân sư lại phải phí nhiều lời như thế!
Các tướng không hiểu ý Lê Thảo, nhưng Bồi Thành Đức thì thấm thía về những lời xỉ vả của Quân sư Hoa Lư. Thanh đoản đao lừng danh thiên hạ đang gác trên đầu ngựa bỗng rơi xuống đất. Rồi Bồi Thành Đức run rẩy vấp váp từ lưng ngựa đổ xuống, mọi người kinh hãi tưởng rằng Bồi Thành Đức uất ức quá về những lời xỉ vả của Lê Thảo mà vỡ tim ngã xuống chết!
Bồi Thành Đức như không đứng lên được, cứ thế lết đến trước ngựa Vạn Thắng Vương, gục đầu sát đất như thể nằm xấp trên mặt đất. Giọng run rẩy hổn hển thưa:
- Bẩm lạy đại vương, quả thật tôi ngu tối có tội! Xin đợi lệnh ngài!
Thật là không ngờ, Vạn Thắng Vương cũng thoáng bối rối, ngài trụ ngựa nghe những lời Lê Thảo xỉ mắng Bồi Thành Đức thì đã thấy ngay là Lê Thảo muốn thu phục tướng này. Bây giờ tướng Tế Giang rơi xuống ngựa lết để chỉ nói như vậy, thì dũng khí của người làm tướng, đức độ của bậc trượng phu cứu đời hiển lộ. Ngài ôn tồn mà vô cùng quyền uy bảo:
- Đứng lên! Kẻ có tội nhìn ra được lỗi lầm của mình, khẩn thiết ăn năn biết tìm đến chỗ sáng ấy là kẻ đang được tha tội! Binh tướng của ta ra ngoài thiên hạ là để cứu nước cứu dân cho nên dùng mà không tìm chém giết. Cố soi tỏ cho thiên hạ thấy lỗi lầm của mình, cùng lắm mới phải xuống tay! Ta tha tội cho ngươi!
Bồi Thành Đức lúc này đã quỳ lên được, liền gập mình xuống lạy Vạn Thắng Vương ba lạy mà rằng:
- Con dân xin được tạ ơn lớn của đại vương, cầu trời cao phù hộ mãi cho ngài!
Rồi đứng lên đến trước ngựa Lê Thảo, Bồi Thành Đức đứng thẳng. Bây giờ phong độ một dũng tướng đã lại lộ ra, thái độ khoan nhu của người nhân đức lại hiện rõ. Đức giọng rắn rỏi:
- Bẩm Quân sư, quả nhiên tôi ngu tối, hai mắt mở lớn mà nhìn chẳng qua được bên kia một vũng bùn nhỏ. Hôm nay được Quân sư thương mà dạy bảo mới nhìn thấy hơn bốn mươi năm sống lại thật ra là chết mục trong mồ mà chẳng biết! Những lời dạy bảo của Quân sư, chính là những nhát búa phá cửa ngục để tôi nhìn ra thấy được sự sống thật. Cha mẹ tôi sinh tôi ra là ai tôi chẳng biết, nhưng tôi biết chắc Quân sư là người cho tôi có được cuộc sống đúng! Vương dành mạng sống cho tôi để cái xác không hồn ấy Quân sư có chỗ ký thác cho nó một linh hồn! Ơn Vương tái sinh tôi đã lạy, ơn Quân sư tái tạo tôi xin được lạy một lạy để nhớ đến trọn đời!
Rồi Bồi Thành Đức kính cẩn lạy Lê Thảo một lạy. Lê Thảo không nói gì, nhưng đến đây thì các tướng hiểu được việc vì sao Lê Thảo tìm cách thu phục Bồi Thành Đức! Giữ mạng cho con người được thiên hạ quý trọng ân đức, tránh cho Hoa Lư cái tiếng “giết người hiền!”.
Đợi cho Đức lạy xong mới quay sang các tướng bảo:
- Các ông, nhờ oai vũ của vương, các tướng của ta đã thu phục xong các nơi. Trận chiến cuối cùng ở Xuân Lâm không làm tổn hại một ai cả, ấy là nhờ ở ông Bồi Thành Đức đã nhìn thấy sự thật đến lạy hàng trước ngựa vương. Vương đã thi ân bố đức ở phủ đường Tế Giang, thì ở đây ngài cũng đã nhận ban ân cho binh tướng Xuân Lâm được vẹn toàn. Từ đây các ông nhìn binh tướng Xuân Lâm được nhẹ nhàng, trong cuộc chiến đấu hãy nỗ lực cho đến ngày đại công hoàn thành!
Các tướng liền nhất tề tung hô vạn tuế khiến chúng quân cũng reo hò theo vang dội cả một góc trời. Cũng lúc ấy, một đoàn người ngựa ào ào chạy tới, chưa tới gần hẳn đã có người kêu lên:
- Tôi chưa được thấy! Tôi xin được đi trước!
Mọi người ngạc nhiên, chẳng hiểu người nào lại kêu lên như thế!
Đám người chớp mắt lại gần, lửa đuốc sáng rực soi tỏ đám đông, mọi người đã nhìn thấy đấy là mấy tướng Hoa Lư cùng mấy người lạ. Một người tràn ngựa tới vừa nhìn quang cảnh thì ông ta đã nhào xuống ngựa, thoăn thoắt chạy đến trước ngựa Vạn Thắng Vương hộ to lên:
- Thuộc hạ loạn tướng theo Tế Giang, trên đầu vẫn thấy bóng râm đại thụ Hoa Lư Động chúa. Phải đợi đến tận lúc thân lâm vào cảnh bại tướng đợi chết mới được thấy mặt trời! Như thế cũng là thỏa dạ!
Rồi người ấy quỳ xuống lia lịa lạy vương ba lạy. Vương hỏi:
- Ngươi là ai? Sao lại nói thế?
Người này đứng lên, các tướng Hoa Lư không ai biết, nhưng Bồi Thành Đức thì biết thật rõ, ông ta kính cẩn trình:
- Bẩm đại vương, đây là văn tướng của tôi tên ông ta là Trang Tử Đồng!
Vương bảo:
- Ta ra ngoài thiên hạ là để mang cái sống đến cho trăm họ, vậy các người đây không ai phải tội chết cả! Tội chết để cho những kẻ thật đáng tội, các ngươi sẽ được thấy!
Như thế là vương đã đại xá cho tất cả binh tướng Xuân Lâm. Trang Tử Đồng lại rảo bước đến trước Lê Thảo. Ông ta vui mừng mà kính cẩn nói:
- Bẩm Quân sư, tôi có tội bất trung, ở với chủ Tế Giang mà lại thường vọng về Hoa Lư để tung hô Quân sư biết tìm minh chúa. Trong hội có lần thiệt luận với người ngoài để mong cảnh tỉnh mà không được. Một lạy này vui mừng được thấy Quân sư!
Rồi Trang Tử Đồng vái Quân sư một vài thật dài.
Quay sang Tổ Sinh Bá, Trang Tử Đồng vui vẻ!
- Này ông Tổ, hóa ra điềm trời cầu vồng mọc ở phương Đông, sương mù đùn phía Tây, lại là báo trước cơ may ta được thấy mặt trời Hoa Lư cơ đấy!
Cho đến lúc này hai ông văn sĩ của Bồi Thành Đức vẫn còn mỉa mai kèn cựa nhau!
Rồi lần lượt các tướng Xuân Lâm đến lạy trước ngựa vương và Quân sư, trình hết mọi việc, lúc ấy tất cả mới hiểu trọn vẹn trận chiến Xuân Lâm.
Vạn Thắng Vương bảo:
- Kẻ có tội đã chết, lẽ ra văn sĩ Tổ Sinh Bá cũng phải tội chết theo với Áo Ly mới đúng, nhưng ta vừa mới nói là các người ở đây không ai phải tội chết cả. Vậy ta giữ lời nói ấy!
Tổ Sinh Bá tay phải trúng tên của Hồ Tường Thụy còn đau nhức tận xương tủy, lại vội bước đến lạy tạ vương lần nữa. Kể từ khi Hoa Lư bước ra ngoài thiên hạ cho đến lúc này, chưa có trận chiến nào lại kết thúc kỳ quặc như thế này!
Lê Thảo quay sang vương thưa:
- Bẩm trình đại vương, việc ở đây đã xong. Tôi xin lại được đi xem ông Chu Kỷ Toàn vào Cự Linh thế nào?
Rồi Quân sư lại gọi Mạc Sa Cảnh cùng đi, chỉ một thoáng hai người đã khuất dạng ở phía Đông. Lê Hoàn lĩnh mệnh, thu xếp mọi việc, lúc ấy trời đã hé sáng. Ân đức của Vạn Thắng Vương tại phủ đường Tế Giang còn đang làm cho cả thiên hạ rung động, thì trận chiến Xuân Lâm lại làm cho cả thiên hạ xôn xao bàn tán. Khắp nơi trăm họ ngóng đợi binh tướng của vương, chẳng khác nào như nhà nông mong ngóng được trời ban mưa sau mấy mùa nắng hạn!
Trăm dân mong đợi vương đến, thì ở trấn doanh đầm Cự Linh Sứ quân Lữ Đường cùng các tướng lại lo sợ khi nghĩ đến lúc Vạn Thắng Vương kéo binh đến!
Tin tức tế tác liên miên trình về, làm cho ruột gan Sứ quân rối bời. Bao nhiều việc ở phủ đường Sứ quân đều được trình cho biết hết, rồi đến Xuân Lâm. Năm lần bảy lượt Sứ quân phát lệnh đi gọi Bồi Thành Đức gấp đưa binh về cứu. Đến lúc mới đầu nghe việc có khách lạ đến giúp mở trận trâu thần, thì Sứ quân lại bừng hi vọng. Cho là chính A Khả Ly hành động. Sứ quân hồi hộp đợi chờ mừng vừa mới hé với trận trâu đầu tiên, thì đã lại liên tiếp tin bất lợi dồn dập đưa về, làm cho Sứ quân thấy hoang mang chán nản.
Minh Minh phu nhân thấy thế, bà bảo:
- Bây giờ chỉ còn hai trấn doanh cuối cùng, thì Cự Linh hệ trọng hơn là Hỏa Châu Bát Tràng, thế đã yếu hẳn. Xuân Lâm mất thì ta chẳng khác nào như con cua mất cả hai càng, con trâu bị gãy cả hai sừng! Lý Khuê ở xa, Nguyễn Thủ Tiệp ta không có sức vượt được Lạn Kha. Nhìn sang phía tây binh Hoa Lư chặn mất đường vượt sông để đi cầu cứu Cảnh Thạc! Tình thế lúc này của Tế Giang ta đến đây thì chẳng khác gì như con cua chạy vào trong hang, đợi chờ cánh tay thọc vào bắt đem ra! Sao chúa công không theo gương Phạm Phòng Át mà về với Hoa Lư. Trước vẫn giữ được tiếng là hiểu cuộc thế biết cùng thiên hạ gìn giữ non sông, chăm sóc cho trăm dân. Sau là bảo toàn được chính thân mình, có hơn không?
Thật ra, nhiều lần chính Sứ quân thấy tình thế không xong. Liên tiếp Hoa Lư thu phục đất đai giang sơn các nơi, binh nhà đại bại chỉ trong một sớm một chiều, thì ngài cũng đã nghĩ đến việc đánh tiếng xin về với Hoa Lư. Đến khi cấp quá lại thêm đám bộ hạ tham lam tàn ác không muốn từ bỏ những tài sản cướp lột được của con dân, ra sức khuyên can xúi giục nói là thế nào cũng đánh lui được Hoa Lư, thì Sứ quân nghe lời chạy về Cự Linh. Nay thì, tình thế tuyệt vọng, nghe lời phu nhân nói thì trong lòng Sứ quân mười phần đã muốn ra hàng Hoa Lư. Bọn thuộc hạ biết được ý ấy, thảy đều kinh sợ, cứ nhìn gương phủ đường mười mấy người phải tội bêu đầu trước chợ, thì nếu ra hàng có được sống chắc chỉ một mình Sứ quân. Còn thì cả bọn chắc khó sống! Cả bọn lại tự biết thân phận mình chẳng giống với những người ở Đằng Châu ngày trước, lại càng không phải như ở Bình Kiều phía Nam hay Tây Phù Liệt bên kia sông lớn! Sứ quân hàng tất đám thuộc hạ phải chết, nhất là Hồ Minh Duy thì bây giờ không lúc nào ngớt cằn nhằn trách móc vợ. Nhìn đống gia tài bạc vàng chất như núi thì thấy khiếp sợ như đã nhìn thấy mặt Diêm Vương! Lại thêm người tình của Duy, thừa cơ đe dọa đủ điều, lăm le chỉ chực kể tội để được thấy vợ của Duy bị hại, càng làm cho Duy thấy khó sống. Thế là Hồ Minh Duy là người cầm đầu bọn tham tàn ác độc xúm nhau lại có cách ly Sứ quân với phu nhân, ra sức rót vào tai những lời dối gạt cốt để Sứ quân yên lòng. Hoãn việc ra hàng để cho bọn chúng kịp thời giờ tẩu tán bạc vàng, lén thu xếp bộ chủ đem của chạy lấy thân tìm nơi xa xôi để tránh chết!
Ấy cũng chỉ vì Sứ quân dùng dằng không quyết, bọn thuộc hạ cố trì hoãn để toan tính kể thoát thân. Mọi việc trở thành chậm trễ cho nên khi binh tướng Hoa Lư tiến thì chẳng khác nào như lửa cháy lớn gấp cỏ rơm khô bén nhanh lắm, binh càng vào trận càng thắng nhanh. Lúc chiến trận Xuân Lâm kết thúc với những lần quỳ gối vái lạy của soái tướng Bồi Thành Đức, thì tin thượng khẩn trình vào làm cho Sứ quân phải bật đứng lên nghe: “Binh Hoa Lư đã rời Xuân Lâm, đang kéo tới, chính Vạn Thắng Vương cầm quân!”.
Tin tới, chẳng khác nào như trận động đất bất thần xảy ra, trời rung đất chuyển khiến cho mọi người đứng không vững. Sứ quân vừa đứng bật dậy để nghe tin bỗng ngồi phịch xuống đầu óc hoang mang rỗng không. Sứ quân chẳng còn biết phải làm sao nữa! Nhìn ra, đám thuộc hạ văn võ chẳng còn mấy người. Bao nhiêu người tài thì sai đi trấn các doanh, quanh Sứ quân chỉ còn lại những hạng ăn hại, nịnh bợ, đến lúc xảy sự mới thấy hết mặt đê hèn khiếp nhược lộ ra! Hồ Minh Duy mặt vốn phì nộn nung núc những thịt, nay thịt hai má như bỗng chảy xuống muốn tách lìa xương gò má. Trông Duy thảm hại chẳng thể nào nói cho hết được! Các người khác cũng chẳng ai hơn Duy, thế là cả đám chủ tớ gục đầu lặng thinh như đám cô hồn ngơ ngác.
Tin đến tai phu nhân, phu nhân đã biết thế nào cũng có ngày hôm nay. Cho nên phu nhân cho gọi tế tác đến bảo trình rõ mọi việc. Nghe xong, phu nhân đi gặp Sứ quân ngay.
Chưa bao giờ phu nhân Minh Minh lại thấy quang cảnh bi đát thế này! Sứ quân ngồi thừ, chung quanh chẳng còn mấy người. Bà không ngạc nhiên, nhưng bình tĩnh lắm, bà bảo:
- Tướng công, tình thế đã hết, sao kẻ trượng phu ngang dọc ở đời lúc thịnh thời uy dũng như thế, lúc bĩ vận lại chẳng nhớ được ngày xưa, để đến nỗi tinh thần sa lạc như vậy! Bây giờ mọi sự xếp đặt để về với Hoa Lư đều chậm mất rồi, đầm Cự Linh phía trước không còn rào giậu che chắn. Tướng công đã quyết chẳng hàng thì sao không tức thì lui ngay về Hỏa Châu Bát Tràng, chấn chỉnh lại binh tướng, hai doanh giằng co mà chiến với Hoa Lư. Rồi sau cùng dù có thế nào cũng không đến nỗi nhòa danh trong mai sau, chứ sao lại ngồi im nhìn cái chết thương tâm như thế!
Sứ quân tinh thần đã chẳng còn, bây giờ nghe phu nhân nói thì lại càng tan nát thêm. Đám thuộc hạ lại càng thêm len lén tìm đường thoát thân một mình!
Tướng Phạm Hoàng Linh trấn giữ đầm Cự Linh từ khi thấy Sứ quân bỏ phủ đường chạy tới, thì biết là tình thế khó khăn. Mong ngóng thắng lợi ở Phục Tượng thì Phục Tượng tan nát, tướng quân trong lòng vừa buồn vừa giận đám thuộc hạ tham tàn xúm xít chung quanh Sứ quân. Lúc thịnh thời thì đua nhau bày đủ mọi mưu chước tàn độc để cướp đoạt tài sản của con dân. Đến khi hữu sự thì thuần nói ra những lời lẽ ngang ngược sai quấy, rồi chỉ lo thân mình với những của cải vợ con, chẳng dám nói ra một tiếng “chiến”, chẳng dám nghĩ đến việc bảo vệ chủ! Khi được tin Xuân Lâm có dị nhân giúp trận trâu thần, thì Phạm Hoàng Linh bảo với các thuộc tướng:
- Người làm tướng cầm quân phải tự hiểu binh mình, phải biết rõ chiến trường nơi mình ra vào, thấu được binh tướng địch. Chứ không phải hồ đồ mong đợi ở những vu vơ mơ hồ nơi người lạ được! Trận trâu thần, không phải là trong binh sử chưa nói đến những kỳ trận, ngay như ở núi Đồng Lư trong giang sơn của Sứ quân Ngô Nhật Khánh, đã chẳng có danh tướng Mạc Cương Hồng lập kỳ trận đả bại đại tướng Địch Hồng Hà rồi là gì. Chỉ có điều thần trận tất phải hiển hiện những hiện tượng huyền hoặc người bình thường không ai biết cũng chẳng ai tin. Thế thì một đàn trâu cho dù là có phép thuật sai khiến tất cũng chỉ là huyền hoặc, làm sao bảo được là có thật do ở tài sức con người mà làm ra như thế! Vả lại, đối trận, là binh tướng đối địch phải hiểu! Hoa Lư có Quân sư giỏi, thiên hạ nói là ông ta biết sai khiến cả cỏ cây, đi lại được với thánh thần. Ta không tin ông ta lại vượt ra ngoài thân phận con người để đi vào cõi thánh thần được, chẳng qua ông ta là tay tài trí hơn đời, biết dàn xếp để gỗ đá cũng có thể thành ngựa trận, sông nước vô tri cũng có thể sai khiến được! Một người như thế, đối trận lại còn có Đinh Bộ Lĩnh là tay hùng liệt ở đời, là tướng ngồi ở chỗ cao nhất để sai bảo trăm tướng vào trận. Thế mà ông Bồi Thành Đức lại tin theo trận trâu thần, hỏi làm sao chẳng bại cho được! Nay, chúa công đã vào đây, nơi này rào giậu chẳng dày, binh tướng chẳng nhiều, lúc bình thì chỉ là một đồn canh chẳng mấy quan trọng. Chúa công chẳng nhìn xa nghe lời ta nhiều lần xin bồi đắp Cự Linh, nay làm sao đủ sức chống lại với binh thần tướng thánh của Hoa Lư được! Ta nói như thế, chẳng phải là để xưng tụng địch nhằm làm mất tinh thần tướng của ta, mà là để các ông thấy rõ tình thế! Bọn ta đã theo phò Sứ quân Lữ Đường, thì chỉ còn một con đường là đem tính mạng ra trả ơn chủ mà thôi!
Những lời nói của tướng Phạm Hoàng Linh vừa làm cho các thuộc tướng của ông lo lắng vừa dậy lên hào khí đấu tranh, nhưng Linh lại bảo:
- Người làm tướng không thể chỉ hăm hở bài binh bố trận xua quân nhập chiến, mà còn phải biết trận chiến ấy sẽ đi về đâu. Chiến mà cầm chắc là chết tướng chết quân, thì người làm tướng chân chính không thể nhận cái chiến như vậy được! Nay, tình thế ở Cự Linh này là chỉ có khó khăn thất bại, chứ không còn hi vọng thắng được ai! Vậy, ta đã biết như thế, tiếc là chẳng được sửa soạn từ lâu, cho nên nay vào trận biết không thể nào bảo vệ được cho chủ. Ta không thể nào không theo gương các người xưa mà chịu chết để đền ơn chủ! Còn các ông ta cho được tự do lựa chọn. Các ông có ra đi cũng là điều người làm tướng phải chấp nhận cho đi. Các ông có ở lại cùng chung chịu chết với chủ ta ca ngợi nhưng vẫn khuyên: Các ông đừng nghĩa khí không phải đường để thiệt thân, hãy bảo toàn mạng sống để mong có ngày góp được chút sức lực cho đất nước trăm dân!
Thật chưa từng ở đâu lại có tướng cầm quân khảng khái hào hùng đến thế này! Tiếc thay, Sứ quân Lữ Đường được những người như Phạm Hoàng Linh chẳng khác nào như được con phượng, con công lại đem nhốt vào chuồng ở nơi heo hút đối xử lạnh nhạt. Rồi nuôi bầy gà hoang ăn hại còn đối xử tưng tiu quý chuộng thì lấy làm phải! Sứ quân có ngày tàn cũng là điều dễ thấy!
Các thuộc tướng của Phạm Hoàng Linh nghe chủ tướng nói, thì ông nào cũng ngậm ngùi. Rồi Hoàng Cầm Long nói:
- Thưa soái tướng, chúng tôi ở cùng với ông nơi heo hút này, ấy cũng chỉ vì cái tính khảng khái nghĩa khí của ông, cùng chung thờ một chủ, có người nào lại mong tìm nơi này an nhàn hưởng lạc đâu! Những điều ông nói, chúng tôi thường được nghe, nhưng đám tướng nhỏ chúng ta trấn nơi xa xôi tất bị khinh rẻ. Nay chúng ta chẳng lấy thế làm điều oán hận, chỉ tiếc cho chủ chẳng thấy trước đường xa. Nay tình thế khó khăn, chúng tôi một là vâng theo mệnh lệnh của ông sai khiến, hai là xin được cùng đi chung đường với ông!
Lại thêm một thuộc tướng nghĩa khí! Hoàng Cầm Long người gốc Lạc Yên (Ninh Bình), dòng dõi quan triều các đời trước. Đến đời Long thì vì loạn nước nên gia cảnh sa sút, lần lần cha mẹ qua đời. Long bỏ quê lang thang khắp nơi, buồn cuộc đời tìm đến nơi heo hút để ẩn thân rồi gặp Phạm Hoàng Linh, mến phục tính tình khảng khái nghĩa khí của Linh mà theo về. Hoàng Cầm Long là người đọc sách, hiểu việc đời, lang thang khắp nơi thì học được cả nghề võ, có tài đánh gươm. Hoàng Cầm Long đến với Phạm Hoàng Linh chẳng cần biết Sứ quân Lữ Đường thế nào, nên thường bảo: “Tôi đến là đến với ông Linh, tôi theo chủ chứ không biết Sứ quân!”. Cũng chỉ vì câu nói này mà có kẻ tâng công nói vào tai Sứ quân. Ngài lại càng lạnh nhạt với Phạm Hoàng Linh, không ưa đám thuộc hạ của Linh.
Hoàng Cầm Long nói xong. Phạm Hoàng Linh chưa kịp nói, thì lại có người nói liền:
- Thế là phải! Ta chẳng nên nói nhiều, chỉ nên luận về tình hình thời thế để mà biết. Còn thì chẳng có gì phải nói thêm về lẽ cùng sống cùng chết nữa!
Người vừa nói là Trương Tòng Xuân, người ở Thần Khê (Hưng Yên). Tên tuổi suốt tám Bến ở Thần Khê ai cũng biết. Nguyên một năm trời làm lụt lội khắp nơi, sông Nam Lỗ ở Thần Khê chẳng lớn thế mà nước cũng dâng cao ngập lụt, làm cho trăm họ điêu đứng. Ở bến Cổ Quán có ông đồng có đền thờ tiên thánh lập ở nơi cao nên nước chỉ lên mấp mé chẳng tràn vào đền, thì liền nhân đây lừa dối thiên hạ, bảo là Thủy Thần dùng nước không cho xâm phạm đến đền. Lại báo cho biết là: Thủy Thần vốn xưa là tướng của Đức An Dương Vương đi tuần rồi thăng ở nơi đây. Nhận lệnh Thiên Đình giữ ngôi Thủy Thần trấn giữ sông nước nơi đây. Thần lúc thăng hoa tuy trọng tuổi nhưng vẫn chưa vợ, nay Thần bảo dân mau đem nạp bảy gái đồng trinh để thần lấy làm vợ, lui về Thủy cung, nước sẽ rút hết!
Ông đồng nói điều quái gở như vậy, mà chức dịch cũng nghe theo. Chẳng tuân phép nước, lập đàn trống phách ầm ĩ suốt ngày, rồi đi tìm bắt gái đồng trinh mỗi ngày quăng xuống dòng Nam Lỗ một người. Tình cảnh những nhà bị bắt mất con mới thật là thê thảm, kêu lạy chẳng thấu tai, đất này vua chẳng tới. Sứ quân nào cũng chẳng quyết là của mình, thành ra con dân tha hồ bị chức dịch tùy ý tung hoành gây họa. Tám bến sông Nam Lỗ suốt từ Cổ Quán lần lượt qua Duyên Tục, Phú Điền, Hoàng Nông, Phú Vinh, lần mãi xuống tận Đô Kỳ, Tạ Xá rồi Tiên Trật. Nhà nào có con gái thì vội nửa đêm cho xuống thuyền bỏ trốn, thế mà cũng có đến ba gái đồng trinh bị bọn đồng cốt làm càn nói bậy quăng xuống sông rồi. Thảm việc đến tai Trương Tòng Xuân, Xuân vốn là tay giỏi sông nước, có thể lặn dưới đáy sông đi xa cả nửa dặm mới phải trồi lên. Khi nghe biết chuyện thì Xuân bảo: “Ta vốn là bạn của Thủy Thần, năm ngày một lần xuống Thủy Cung cùng uống rượu với Thủy Thần, mười ngày lại cùng một chuyến đi Đông Hải thăm Thủy Tinh Cung của Thủy Tề. Chẳng lần nào thấy Thủy Thần nói là muốn lấy vợ! Bọn đồng cốt nói láo gây tiếng ác cho Thủy Thần bạn ta! Ta phải trừng trị mới được!”. Rồi Trương Tòng Xuân giữa ban ngày vác búa đến phá sập đền, lại bắt trói ông đồng cùng ba người chức dịch bảo là: “Thủy Thần đòi những kẻ điêu ngoa làm hại danh ngài xuống để hỏi tội!”. Xuân đem bốn kẻ ấy thả xuống dòng sông. Tình cờ thế nào đến hôm sau thì nước rút dần, dân chúng suốt cả một vùng Thần Khê ầm ầm ca ngợi Trương Tòng Xuân. Lại muốn tôn Xuân lên ngôi thủ lĩnh tám bến nước Nam Lỗ. Xuân chẳng muốn phiền phức, liền bỏ đi, sau đến kết thân với Phạm Hoàng Linh cùng ở với nhau tại Cự Linh, nhưng vẫn đối xử kính trọng Linh là bề trên.
Trương Tùng Xuân nói xong, thì lại đến lượt Cao Sĩ Khoa lên tiếng:
- Thế mới là phải, bọn ta vừa là anh em tuy chẳng cùng một địa phương, không cùng sinh ở một nhà, nhưng đã sống với nhau chỉ vì nghĩa vì tình. Thì đến nay việc của ông Linh cũng là việc chung của cả năm người, ông Linh muốn giữ trọn nghĩa của kẻ trượng phu. Sao lại muốn anh em mình mang tiếng chẳng phải là trượng phu ở đời như thế!
Cao Sĩ Khoa vốn là tay văn học, tự nhận là dòng dõi Cao Biền ngày xưa. Văn đã tinh thông trên trời dưới đất, võ lại có sức vật cả trâu rừng. Ngày nọ theo tính tổ tiên đi chu du thiên hạ, lúc qua rừng núi Đại Lại (còn gọi là núi Ông Lâu, đời nhà Hồ thì Hồ Hán Thương đổi tên gọi là núi Kim Âu), huyện Vĩnh Ninh (Thanh Hóa). Nhìn xem thấy phía Đông sông núi quanh co, cao ngất từng mây, dưới núi có suối trong bốn mùa không cạn, phong cảnh đẹp mà hùng vĩ như trong tranh. Cao Sĩ Khoa bảo đây là thế đất thuật phong thủy gọi là “nhìn ra phía trước gặp người hiền, ngoảnh lại sau lưng thấy thoát tục”. Liền dựng một túp lều có dựa vách núi, nhìn vào dòng suối, toan tính ở lại ít lâu để thỏa lòng ngao du nơi cảnh đẹp. Khoa không biết chốn này người qua lại gọi là “Hổ đạo”, ý nói nơi đây chính là con đường khách bộ hành hàng ngày phải đợi nhau thật đông mới dám đi qua, chỉ khoảng cuối sáng đến quá trưa là phải thôi. Vì nơi đây nói là có cặp hổ trắng hung dữ lắm đã sát hại nhiều người. Bao nhiêu thợ săn quy về chốn này cố săn tìm cặp bạch hổ nhưng chỉ uổng công, cọp trắng biến hóa không biết đường nào mà tìm ra dấu vết, nhiều thợ săn đã bỏ mạng. Quan quân cũng đã có hồi kéo đến tiễu trừ cọp mà lâu ngày vẫn không được nên bỏ về. Từ đấy con đường này qua núi Đại Lại mới có cái tên là Hổ đạo, càng ngày càng thưa thớt người qua lại. Người ta đi vòng tránh xa vùng chết chóc này.
Cao Sĩ Khoa dựng lều cỏ trước suối, ấy là nơi Hổ đạo chạy qua. Ung dung nằm trên giường cỏ mà ngâm vịnh, vùng vẫy trong suối mát thấy cuộc đời chẳng chút vướng bận. Mới hoan hỉ với nhà cỏ được hơn ngày trời, một sớm sương mù làm cho cảnh vật mơ mơ hồ hồ, đẹp còn hơn cả cảnh trong tranh cổ. Cao thích quá lững thững trong sương đi ra ven suối, ngược dòng mà đi, nghe tiếng suối reo chỗ vướng đá réo sôi, có nơi thoáng đãng thì rỉ rả êm đềm. Vui chân đi mãi chợt giật mình lùi lại thủ thế: ngay trước mặt, lau sậy ngả nghiêng, cỏ cây tan nát, một con cọp trắng khổng lồ phục ở đấy. Cao kinh hãi đứng im, thấy hồi lâu cọp chẳng động đậy thì nhìn quanh. Lúc ấy mới thấy một người nằm cách chỗ cọp chẳng xa, có khi người lạ chết rồi cũng nên. Cao rón rén lại gần, người này còn sống, trên mình đầy vết thương răng cắn móng cào của cọp. Chắc là người này đi đường gặp cọp, hai bên đánh nhau cả hai đều bị trọng thương.
Cao vốn đọc sách, đi lại nơi núi rừng nhiều cũng biết khá về lá thuốc, liền xem rồi vội đi tìm lá thuốc dấu cứu người lạ. Lại xem cả cọp trắng lúc ấy mới biết: Cọp bị trọng thương, gãy cả xương sườn, trẹo cả hai chân sau nên không đứng lên được. Cao thương con cọp trắng lớn đẹp quá cũng ra tay trị thương cho nó. Thế là cả cọp thoát chết, người ấy bảo rằng mình chẳng có tên không cha không mẹ, sống trong rừng với thú hoang. Vẫn thường tranh chấp với cặp bạch hổ, sau hổ đực giao chiến với người rừng gần hai ngày liền. Cả hai đều bị trọng thương là vì thế.
Người này cảm tính cách họ Cao, lại nói là chịu ơn Cao cứu mạng, xin được lấy theo họ của Cao, tên là Sĩ Hoạch. Hai người kết bạn với nhau, rồi cùng đến với Phạm Hoàng Linh.
Phạm Hoàng Linh nghe Cao Sĩ Hoạch nói, trong lòng quên cả buồn về tình thế, vui vẻ hỏi:
- Bốn ông thì như vậy rồi, thế còn ông Việt thì sao? Nói nốt ta nghe nào.
Đấy là Phạm Hoàng Linh muốn hỏi Lại Quách Kiệt, thuộc tướng thứ năm của Linh. Lại Quách Kiệt gốc người miền núi ở sát biên giới với nước Tàu, xuống sâu vùng đồng bằng bảo là “thử đem núi rừng về kinh xem núi mọc thế nào, rừng sống ra sao”. Sống ở tận biên cương heo hút, đời sống tối tăm. Nay về miền kinh thì quả nhiên mới dầu Kiệt còn lạ lùng tò mò, sau thì thấy: Núi vẫn phải ở núi, rừng vẫn chỉ sống được ở rừng. Thế là lại ra đi, lần mò đến Cự Linh gặp được Phạm Hoàng Linh là người nghĩa khí thì tự thấy là gần gũi với mình, bèn tự xem Linh vừa là chủ vừa là bạn.
Bây giờ Lại Quách Kiệt ở lâu miền xuôi, hiểu đôi chút tình hình, trong lòng bao giờ cũng chỉ cho là chủ mình đúng. Cho nên khi nghe Linh hỏi thì chẳng cần suy nghĩ, đáp:
- Núi phải ở núi, rừng phải ở rừng, thuộc hạ bao giờ cũng phải theo chủ. Tôi vừa là thuộc hạ vừa là bạn thì chủ soái đi tôi đi, chủ soái đứng tôi đứng. Có bao giờ rừng cháy con rùa ở trong hang, con sốc ở trên cành lại không bị đốt.
Phạm Hoàng Linh cùng với năm thuộc tướng ở nơi khó khăn giữ lòng chung thủy, thương yêu nhau lắm. Cho nên một ngày giữa hạ, trời nắng gay gắt, Phạm Hoàng Linh liền mở tiệc trong rừng mận bên ven đầm Cự Linh rồi cùng uống rượu nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Lại dắt nhau ra đứng giữa trời nắng cùng thề rằng: “Trời cao có mắt, đem lửa trời soi lòng anh em chúng tôi cùng nhau chung thủy, tuy chẳng sinh ra cùng một lúc, không cùng một mẹ cha. Cũng xin được mai sau lại cùng được lửa trời đưa cả về trời.” Rồi Linh vẫn giữ trách nhiệm tướng cầm quân cai quản Cự Linh của Sứ quân. Năm thuộc tướng vừa hết lòng với soái tướng vừa chung thủy với nhau trong tình anh em kết nghĩa thủy chung.
Cả bọn sáu người trông coi trấn doanh đầm Cự Linh được dân ở đấy yêu mà gọi là “Cự Linh Lục Kiệt”. Sáu người chỉ cười.
Bây giờ, được tin hết trấn nọ doanh kia lần lượt mất vào tay Hoa Lư, Sứ quân phải lận đận bôn tẩu, thì bọn Linh tuy sức yếu tài chẳng là bao song cũng thật thản nhiên bài binh bố trận để bảo vệ Sứ quân.
Phạm Hoàng Linh vào thưa với Sứ quân:
- Bẩm trình chúa công, cứ doanh đầm Cự Linh thiếu thốn đủ thứ, binh chẳng nhiều, tướng chẳng tài nhưng cũng xin được tử chiến ở nơi này. Làm thế cản địch rồi chết để tạ ơn chúa công nuôi đãi. Tuy thế, thuộc hạ cũng phải bẩm trình chúa công được rõ: Địa thế cứ doanh Cự Linh không có lợi lúc đối diện đối địch với bên ngoài, nhưng làm thế yểm trợ cho Phục Tượng hay Hỏa Châu Bát Tràng thì lại tốt. Nay cái thế yểm trợ ấy không còn nữa, mà Cự Linh phải trực diện đối trận, đây là một điều thất thế. Bởi vậy thuộc hạ khẩn trình chúa công nên lui hẳn về Hỏa Châu Bát Tràng, ở đây có thể đi sang phía Đông, dễ tìm sức lực, làm thế lâu dài được!
Sứ quân nghe Phạm Hoàng Linh trình thì lại ngồi thừ chẳng nói, lúc này Sứ quân thấy chán nản vô cùng rồi! Chạy thêm nữa về Hỏa Châu Bát Tràng để rồi nhìn sang phía Đông làm thế lâu dài. Việc lớn này hôm nay Sứ quân thấy mình không còn đủ sức nữa!
Minh Minh phu nhân bảo:
- Ta hiểu lòng Phạm tướng quân, ở vào những lúc như thế này mới thấy được cách biệt giữa cây với cỏ, hào kiệt với kẻ tham tục. Tướng quân khuyên chúa công lui về Hỏa Châu Bát Tràng, liệu ở đây tướng quân có thể cản địch được như thế nào?
- Bẩm trình phu nhân sáng suốt, với binh tướng ở đây thì chiến với Hoa Lư như ở trận Phục Tượng hay Xuân Lâm, chắc không thể quá nửa ngày trời được! Nhưng, việc binh nửa ngày tuy có là ngắn ngủi lắm, nhưng lại có khi làm chuyển đổi được cả trời đất! Thuộc hạ thấy chúa công cùng phu nhân phải mau mau hành động ngay mới kịp!
Phu nhân Minh Minh nghe Phạm Hoàng Linh nói chưa thấy Sứ quân quyết định thế nào. Đã thấy tế tác như bị ma đuổi ào tới kinh hoàng trình:
- Bẩm trình soái tướng, binh Hoa Lư đã xong trận Xuân Lâm, phá tan binh trâu thần, đang dốc lực tiến đến cứ doanh Cự Linh ta! Chỉ khoảng sẩm tối hôm nay thì có thể Cự Linh phải nghênh chiến!
Tế tác vừa ra, lại tế tác đến trình:
- Bẩm trình chúa công, nhiều người đã bỏ ra đi, trong số đó có cả quân lương tướng Hồ Minh Duy!
Phu nhân nghe trình cảm thấy đau lòng quá, bà thẫn thờ chẳng nói. Phạm Hoàng Linh lại giục:
- Bẩm trình chúa công, ngài nên rời nơi này ngay. Thuộc hạ xin đem xương máu của mình để làm chậm bước của địch! Chúa công đừng chậm trễ nữa!
Sứ quân vẫn chẳng nói gì?
Lúc ấy đã sắp vào Ngọ, nắng xuân dìu dịu. Tiết trời êm ả như bí mật chứa đựng nhiều điều lạ!
Lê Thảo có Mạc Sa Cảnh đi cùng, đi đến đâu cũng dễ dàng tìm tế tác. Quân sư bảo tế tác dẫn đường đến gặp tướng trách nhiệm lấy Cự Linh là Chu Kỷ Toàn.
Chu Kỷ Toàn từ lúc lĩnh mệnh đem quân đánh cứ doanh dầm Cự Linh của Tế Giang, thì mang quân len lỏi đường núi, tránh thật xa những nơi có dân ở. Dù là nơi vắng vẻ chỉ có một túp lều, một người dân, cốt để cuộc quân hành giữ được bí mật hoàn toàn. Vì Toàn cẩn thận như vậy, lại thêm đường đi chẳng gần đây vất vả cho nên Toàn đi không được nhanh. Chu Kỷ Toàn đi đến đâu, vẫn có tế tác dẫn đường, tế tác báo tin ở các nơi phía sau cho biết. Thành ra Hoa Lư xuất chiến như thế nào, ở đâu, Chu Kỷ Toàn đều đã được biết cả. Nhưng Toàn đi đường rừng núi vòng vèo nên không chặn được Sứ quân vào đầm Cự Linh.
Đến khi được tin về trận trâu thần làm cho Lê Hoàn, Trịnh Tú đại bại, thì Chu Kỷ Toàn lo lắng vô cùng. Vì thế Toàn thận trọng ẩn quân đợi tin, không dám đường đột tiến đánh Cự Linh. E rằng có thể bị hai mặt Đông Tây binh Tế Giang đánh ép mình vào giữa.
Chu Kỷ Toàn lo lắng, trong lòng nóng như có lửa đốt, ngong ngóng tin Xuân Lâm, rồi lần lượt được tế tác liên miên báo tin. Dần dần Chu Kỷ Toàn yên lòng, mừng vui vô hạn. Đến khi tế tác trình việc Xuân Lâm đã xong, thì Chu Kỷ Toàn mừng lắm hỏi tế tác:
- Quân sư lúc này ở đâu?
- Trình tướng quân, ngay khi trận Xuân Lâm tàn. Quân sư có nói là đến gặp tướng quân! Chúng tôi chưa được thêm tinh lệnh nào!
Chu Kỷ Toàn nghe tế tác trình, ông nghĩ: Vừa tàn trận, Quân sư đã lên đường đi gặp mình ngay, tất là có việc hệ trọng. Không nên khinh xuất vội vàng tiến đánh Cự Linh!
Vì vậy, Chu Kỷ Toàn vẫn án binh chờ đợi!
Khoảng sắp hết giờ Thân, thì Quân sư với Mạc Sa Cảnh đã tới. Chu Kỷ Toàn đón vào doanh rồi thưa:
- Thưa Quân sư, lẽ ra theo lệnh thì tôi phải đánh vào Cự Linh. Chỉ vì có bất ngờ ở trận Xuân Lâm cho nên tôi án binh đợi xem tình hình, đến khi xong Xuân Lâm thì lại được tin Quân sư sắp tới cho nên tôi không dám đường đột mở trận. Còn đợi lời dạy bảo của Quân sư!
Lê Thảo vui vẻ bảo:
- Tướng quân thận trọng như thế cũng là điều hay, nhưng nếu như đã biết rõ tình hình, hiểu tình thế mà hành binh chậm thì gặp nhiều thiệt hại! Không rõ tình hình, không hiểu tình thế mà mở trận ấy là tự sát. Vậy hành động của tướng quân tuy có chậm đôi chút nhưng cũng là điều phải! Nếu như tướng quân mở trận ngay, thì tướng quân xét đoán Cự Linh này thế nào?
Chu Kỷ Toàn thận trọng, tướng quân có phần ngập ngừng đáp:
- Trình Quân sư, theo tế tác cho biết, thì cứ doanh Cự Linh không lớn, binh không nhiều, tướng có sáu người. Soái tướng là Phạm Hoàng Linh là tướng giỏi lắm, nghĩa khí lại cao. Cứ doanh lập ở chỗ trũng, chung quanh có núi vây ở xa. Tôi chỉ biết có thế, nhưng không hiểu tại sao tướng giỏi lại lập doanh ở một vị trí không thuận lợi như thế?
Quân sư gật gù đáp:
- Đúng, tướng quân nói đúng. Cự Linh có soái tướng Phạm Hoàng Linh rất giỏi, vào trận không dùng vũ khí nào cả, thường lập trận dựa vào địa thế hơn là lấy binh nhiều tướng giỏi làm thế mạnh. Sở dĩ Linh làm như thế, ta cho là vì Sứ quân Lữ Đường không xem cứ doanh Cự Linh là quan trọng!
Chu Kỷ Toàn ngắt lời Quân sư, hỏi:
- Thưa, tại sao Lữ Đường lại không coi trọng cứ doanh Cự Linh?
- Ta có thể nghĩ được rằng: Tế Giang phía Tây có sông lớn chắn giữ, vì vậy Lữ Đường mới có thủy quân lớn. Rồi đến các trận doanh quan trọng đều có ý đề phòng phía Tây, Bắc và Nam. Còn phía Đông thì là khoảng trống rộng không sợ bị binh ngoài đánh tới. Vì thế, Lữ Đường cho lập doanh Cự Linh chỉ là doanh yểm trợ cho hậu doanh Hỏa Châu Bát Tràng, tiếp liệu cho tiền doanh Xuân Lâm, Phục Tượng bảo vệ phủ đường. Một cứ doanh như thế tất không thể là chiến doanh lợi hại được, mà chỉ có thể là “chuyển doanh trợ lực” tốt mà thôi. Nay, thế cùng Lữ Đường phải lui về Cự Linh, ta chắc là y chẳng lưu lại ở đấy. Thế nào cũng gấp lui về Hỏa Châu Bát Tràng là nơi có nhiều thuận lợi hơn!
Chu Kỷ Toàn lại hỏi:
- Thưa Quân sư, như thế thì tôi nên gấp tiến đánh Cự Linh. Lữ Đường chạy về đây tinh thần chúng binh tướng tất phải hoang mang tan nát, ta lấy Cự Linh không khó!
Quân sư cười mà rằng:
- Phái, lúc này Lữ Đường nhất định suy sụp tinh thần, ta tiến binh là thắng. Nhưng, làm thế nào ở đoạn chót này ta xong được việc mà ít thiệt hại nhất mới là quan trọng! Cứ doanh đầm Cự Linh lập ở nơi dân không đông, nhưng cũng không thể vì thế mà không nghĩ đến tính mạng của dân chúng. Doanh có nhiều hay ít tướng, giỏi hay kém, ta cũng không thể vì việc tiến binh mà chèn ép đến giết tất cả. Dù thế nào chăng nữa gỗ tồi nhất cũng dùng làm củi được, vả chăng còn có thứ gỗ tốt, gỗ quý nữa! Ở đời này, ai cũng quý mạng mình. Sứ quân Lữ Đường bao nhiêu năm hưởng lạc tất càng quý mạng của mình hơn nữa. Thế thì ta có thể vì cái cớ quý mạng ấy mà chiêu hàng như ở Phạm Phòng Át được. Nếu xong thì tránh được bao nhiêu là sinh mạng như ở trận Xuân Lâm. Việc Bồi Thành Đức chịu lạy hàng là giữ được bao nhiêu mạng người.
Chu Kỷ Toàn chăm chú nghe ra vẻ kính cẩn, rồi hỏi:
- Thưa, như vậy Quân sư định chiêu hàng Lữ Đường như thế nào?
- Ta không mong chiêu hàng được Lữ Đường! Đây là một điều thật đáng tiếc! Ta phải hiểu con người Lữ Đường thì sẽ biết được việc ta làm kết quả thế nào! Xem quá khứ của ông ta, thì ta hiểu là: Dù thế nào chăng nữa, Lữ Đường cũng không thể hết được máu giang hồ ngang dọc, không dễ chịu đầu hàng. Vả lại nhìn từ đầu khi ta khởi binh vào Tế Giang thì đủ biết Lữ Đường không phải là tay kiệt hiệt. Nhờ ở thời thế được thuộc hạ phò tá, mà nên danh được ngần ấy năm, nay lâm nguy thì bước đường cùng của kẻ giang hồ chẳng có chí lớn, một là khiếp nhược đầu hàng mong giữ mạng, hai là hung hăng để tỏ ra mình là hào kiệt tự nhận cái chết! Lữ Đường là người dễ làm điều thứ hai. Vả lại, ở bên cạnh Lữ Đường còn có người vợ là Minh Minh. Người đàn bà này hiểu rõ Sứ quân chồng mình, hiểu rõ đám thuộc hạ, hiểu được tình thế lớn bên ngoài, hiểu được lúc sẽ tàn cuộc của một Sứ quân như thế. Bà ấy sẽ thà chịu chết hơn chịu nhục. Lại thêm bên trong Sứ quân tan nát chỉ vì nạn bè phái tham tàn, cầm đầu là quân lương tướng Hồ Minh Duy cùng với vợ quá đỗi tàn tệ. Tinh thần ích kỷ của đám thuộc hạ thân cận làm cho tướng biên trấn đành chịu khoanh tay mà thôi. Vậy, Lữ Đường sẽ chịu chết, hay là cố chạy về Hỏa Châu Bát Tràng để hi vọng kéo dài được tình thế, gây dựng lại được cơ đồ ở mai sau!
- Thưa Quân sư, như vậy ta cứ mở trận đúng nghĩa?
- Phải, ta mở trận!
Quân sư vừa nói đến đây, tế tác xin vào trình:
- Bẩm trình Quân sư, các thuộc hạ của Sứ quân Lữ Đường lén bỏ chạy thoát thân, dân chúng thấy thế cũng vội vàng bồng bế nhau đi lánh nạn, tình cảnh Cự Linh thật bi đát!
Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh:
- Ông gấp đích thân đi xem việc, cần thì phao tin để dân lánh đi hết càng tốt. Nhớ chú ý xem cứ doanh hành động thế nào, Sứ quân Lữ Đường ở lại hay đi Hỏa Châu Bát Tràng?
Mạc Sa Cảnh vâng lệnh đứng lên đi ngay. Quân sư bảo Chu Kỷ Toàn:
- Ta không nghe tế tác nói gì về quân doanh có vẻ là di chuyển. Như thế là Phạm Hoàng Linh muốn chống lại ta! Con người Phạm Hoàng Linh hành động như thế là rất đúng, tiếc thật!
Chu Kỷ Toàn hỏi:
- Thưa, tại sao Phạm Hoàng Linh hành động chống lại ta lại là rất đúng, rất đáng tiếc?
- Phạm Hoàng Linh là người nghĩa khí ở đời, giỏi, cùng với năm thuộc tướng được người đời gọi là Cự Linh Lục Kiệt thì đủ biết tinh thần ông ta. Sứ quân chủ ông ta thất thế, ta tin là ông ta sẽ lấy mạng mình ra để đáp ơn Sứ quân, như thế là ông ta sẽ chọn cái chết. Ta tiếc ông ta là vì thế!
Rồi Quân sư cùng với Chu Kỷ Toàn lên sườn núi cao quan sát cả khu đầm Cự Linh. Đứng trên cao, ngắt ngọn cỏ khô thả ra ngọn cỏ theo gió bay đi, gió lộng đều đều thổi từ hướng Nam hơi chếch về Đông Bắc.
Đầm Cự Linh mênh mông, nằm lọt giữa những triền núi không cao lắm. Lác đác những mái nhà tranh của dân chúng lẫn vào với rừng cây không cao. Doanh trại hơi quá về phía Đông, nằm gần sát rìa chân núi Bát Vạn, tiếp giáp với núi Lạn Kha. Những mái tranh xám nằm liền lạc nhau nhìn thấy rõ trong nắng chiều. Hai rặng núi như hai cánh cửa lớn đóng kín, che chở cho đầm Cự Linh ở bên trong.
Quan sát quang cảnh, Quân sư nói với Chu Kỷ Toàn:
- Nếu tiến binh vào trong đầm, phải hết sức cẩn thận, cả vùng mênh mông này nhiều nơi lầy lội không thể qua được. Tế tác dẫn đường không tinh thường dễ đưa quân vào chỗ chết lắm. Những con đường chính dẫn từ ngoài phía Tây vào dầm, chắc chắn thế nào cũng đã bị chặn hết. Binh ta tiến vào chưa chắc đã thành công được!
Chu Kỷ Toàn nghe Lê Thảo nói thế, thì bàn:
- Thưa Quân sư, với địa thế này, ta có thể dùng được thủy kế, tháo nước và ngâm cả đầm được không?
- Được, nhưng phải khởi sự từ mé Đông, mở đường dẫn nước từ sông lớn vào. Như vậy lúc này ta không làm được, chỉ có Lý Khuê ở Siêu Loại làm được. Đầm ở nơi trũng thì một là nước đọng, hai là có những dòng sông suối nhỏ luôn luôn đổ nước vào cho nên mới thành đầm. Doanh Cự Linh không lớn, nhưng đánh được lại không phải là dễ!
Chu Kỷ Toàn cúi đầu ngẫm nghĩ, chưa tìm ra được chiến kế nào để thu phục cứ doanh đầm Cự Linh của Tế Giang. Ông lo lắng trong lòng, các nơi khác các tướng đều đã xong phận sự. Vậy còn trận chiến ở đây phải tính thế nào?
Bỗng Quân sư bảo:
- Lúc này thời tiết còn trong xuân, nhưng khí hậu khô, tìm cỏ khô cũng không khó. Ta lại phải dùng hỏa công vậy!
Nghe Quân sư nói, Chu Kỷ Toàn lạ lùng, làm thế nào để đến sát doanh trại Cự Linh để đốt lửa được. Quân sư vừa rồi có nói là đường vào Cự Linh thế nào cũng bị chặn hết rồi, thế thì đi thế nào được. Nếu đi được thì chẳng cần phải dùng đến hỏa công nữa, dùng quân bộ chiến cũng phá được doanh?!
Quân sư bảo:
- Đằng nào cũng bị chậm mất một hai ngày rồi. Vậy tướng quân hãy cho quân đi thu thập cho nhiều cỏ. Bắt đầu nửa đêm hôm nay ta phá doanh Cự Linh!
Chu Kỷ Toàn chưa biết Quân sư định kế hỏa công như thế nào? Thấy bảo lấy nhiều cỏ khô thì băn khoăn trong lòng lắm. Hai người trở về, dọc đường Mạc Sa Cảnh đã tìm đến trình là tin lệnh đã xong. Tin đồn làm náo động lòng người, nhưng không thấy Sứ quân Lữ Đường bỏ đi. Chỉ có bọn thuộc hạ lén chở tài sản chạy trốn!
Quân sư bảo:
- Tốt lắm, ông gấp về Xuân Lâm, trình với vương là: Sớm ngày mai xin mời vương trở lại trung quân ra Siêu Loại. Trên đường đi ngài nên ghé qua Hỏa Châu Bát Tràng phủ dụ chúng binh tướng cùng dân chúng Tế Giang ở đấy. Trình vương xong, ông nói với ông Lê Hoàn hãy hết sức gấp thu thập cho được nhiều hỏa liệu nhẹ, càng nhiều càng tốt, rồi cho người đưa tới đây ngay. Làm thế nào để trước nửa đêm hôm nay ta có đủ thứ cần thiết! Ông cố gắng nhé!
Mạc Sa Cảnh không cần biết Quân sư định kế thế nào, lệnh ban ra là lập tức lên đường thi hành ngay.
Chẳng mấy chốc, quân theo tế tác từ Xuân Lâm, Phục Tượng, phủ đường Tế Giang ùn ùn chuyển vận các chất hỏa liệu tới. Trong số những chất dễ cháy ấy lại còn rất nhiều xe bông không biết lấy ở đâu ra. Cho đến lúc trời tối mịt thì số hỏa liệu đã nhiều lắm rồi.
Lúc ấy Quân sư mới bảo Chu Kỷ Toàn:
- Ông đem hết quân lên sườn núi phía Nam, dàn quân cho đi hơi chếch về Đông Bắc. Bao nhiêu hỏa liệu, cỏ khô, xơ bông khuân đi hết. Ra nghiêm lệnh: Quân đi không đuốc lửa, nói cười là phạm tội chém đầu tại chỗ. Chậm chạp để lỡ việc cũng tội chém đầu!
Chu Kỷ Toàn vâng lệnh đem quân ra đi, gần nửa đêm thì Quân sư cùng với tướng Mạc Sa Cảnh tới. Trong bóng đêm doanh trấn Cự Linh đen mờ trong ánh trăng hạ tuần chưa lên cao. Quân sư bảo Toàn chia quân chọn những người khỏe mạnh đem hỏa liệu trộn cỏ khô lặng lẽ men theo triền núi thấy đi sang phía Đông, rắc hỏa liệu ấy mặt phía Đông doanh trại, hỏa liệu rắc từ phía Nam lên Bắc nhiều lắm. Phần quân còn lại thì men theo vách núi xuống sát doanh địch phía Tây rồi cũng rắc hỏa liệu chung quanh trại. Đến cuối giờ Tý thì hỏa liệu đã rắc xong, quân hai mặt lại về chẳng thiếu một người. Hỏa liệu rắc đi hết chỉ còn giữ lại xơ bông. Quân sư bảo đem xơ ấy gỡ tơi ra trộn với hỏa liệu mịn.
Quân sư nhìn trời, lúc ấy đêm tối không thấy gì cả. Quân sư nói với hai tướng:
- Việc của ta là phải giải quyết xong Tế Giang cho thật nhanh, trước ta tính khoảng chiều hôm nay ngày Canh Tý tức hai mươi mốt tháng Giêng này thì xong. Vậy mà lúc này ta còn đứng ở đây, chẳng qua là vì gặp phải cái nạn trận trâu của yêu nghiệt, thành ra như thế vương ra Siêu Loại bị chậm mất một ngày! Trong đêm hôm nay, ta phá xong Cự Linh thì tràn ngay tới chặng cuối cùng là Hỏa Châu Bát Tràng. Việc quân không trì hoãn nhưng cũng vẫn cố tránh chết chóc cho dân, thiệt hại càng ít càng tốt. Còn Lữ Đường thì tới lúc này tế tác vẫn cho hay là ông ta còn ở lại Cự Linh, ta không hiểu tại sao ông ta lại quyết định như thế? Tuy vậy, khi phá xong Cự Linh là ta biết sự việc!
Trên sườn núi cao, Quân sư cùng với hai tướng Chu Kỷ Toàn và Mạc Sa Cảnh không biết rõ nội tình trong doanh Cự Linh. Nhưng có một người biết rõ nội tình trong doanh Cự Linh, đấy là phu nhân Minh Minh của Sứ quân.
Từ lúc nghe tướng Phạm Hoàng Linh giục Sứ quân mau mau lui lại Hỏa Châu Bát Tràng mà Sứ quân vẫn lặng lẽ, thì phu nhân đã hiểu tất cả. Bao nhiêu những gì bà nhận xét về chồng bà, Sứ quân Lữ Đường, đều đã là đúng, đến lúc tối chung tối hậu này thì những gì bà suy nghĩ lại càng đúng hơn nữa! Lại nữa, bà đã là vợ của Sứ quân, ở ngôi cao nhất trên trăm tướng, là bậc cha mẹ của bá tánh. Thêm phận làm vợ không thể không theo chồng cho dù chồng mình là thế nào chẳng nữa. Cho nên bà thấy tất cả mà vẫn phải lặng lẽ. Bây giờ là lúc bà đi nốt những bước cuối cùng của cuộc đời thủy chung với chồng. Bà bảo tướng Phạm Hoàng Linh:
- Ông thấy phải dàn xếp thế nào để cự chiến với Hoa Lư, thì ông cứ hành động, tôi sẽ lo cho chúa công!
Tướng Phạm Hoàng Linh kính cẩn trình:
- Bẩm trình phu nhân, cứ doanh Cự Linh này không có sức đánh lui Hoa Lư, lại đây nguy hiểm lắm. Thuộc hạ xin phu nhân gấp xin chúa công lên đường đi ngay đến Hỏa Châu Bát Tràng, sau Xuân Lâm thì thế nào Hoa Lư cũng đánh doanh này ngay, không để chúa công kịp tránh đi nơi khác đâu! Xin phu nhân quyết định ngay!
Phu nhân rất hiểu tình hình, bà bảo:
- Giả sử, tướng quân đem hết binh tướng theo cùng chúa công đi Hỏa Châu Bát Tràng thì thế nào?
Chưa bao giờ Phạm Hoàng Linh lại nghĩ đến việc này, vì thế ông khựng lại. Rồi giọng quả quyết:
- Bẩm phu nhân, thật chưa bao giờ tôi lại nghĩ như thế! Vả chăng, thế nào tế tác của Hoa Lư cũng lảng vảng khắp nơi, mọi cử động của ta họ đều biết cả. Doanh trại tôi đến tận lúc này vẫn im lặng thì họ phải nghĩ cách tiến đánh. Tôi ở lại cầm cự chặn bước binh Hoa Lư, chúa công mới lui được thong thả. Nếu tôi động quân, không thể không ồn ào, thì thế nào Hoa Lư cũng hành động ngay. Lúc ấy chúa công khó v?