Hồi Thứ Một Trăm Lẻ Chín Kế Điền Bạc, Phong Châu hùng mạnh
Cướp thời cơ phá Đỗ Động giang
Tin trình vào: “Binh tướng Hoa Lư phía Bắc trấn ở Cung Thương, phía Nam thúc quân đánh Đỗ Động Giang của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, trấn đường lên ải Đồng Lư của Hồi Hồ. Tình thế náo động lớn khiến Sứ quân Kiều Thuận phải cho thủy quân dàn trận phòng bất trắc!”.
Sứ quân Kiều Công Hãn nghe trình thì kinh hãi. Quả thật Hoa Lư đã quay sang phía Tây, lại cùng một lúc cho binh đánh nhiều nơi, trong đó có cả Phong Châu của ngài. Sứ quân lại vội vã triệu tập hội nghị, ngài bảo:
- Này các tướng, quả nhiên Hoa Lư đã quay sang phía Tây. Cùng một lúc đánh nhiều nơi, trong đó có Phong Châu ta. Các ông nghĩ thế nào?
Tức thì đại tướng Đặng Nhất Hùng đứng lên nói:
- Bẩm Chúa công, Chúa công giữ Phong Châu trong ngần ấy năm, binh hùng tướng mạnh, lại thêm có mưu sĩ họ Điền của ta tài quán thiên hạ. Cho nên Phong Châu ta tuy ở gần Cổ Loa mà Cổ Loa chẳng dám động tới. Phía Nam thì Nguyễn Khoan mấy phen lăm le cũng phải ngồi im chẳng dám dòm ngó giang sơn ta. Nay Hoa Lư cậy mạnh ỷ đông, muốn xâm phạm bờ cõi của ta. Lại ỷ thế dốc binh đổ vào nhiều chỗ. Như thế tất sức của nó phải yếu đi. Nay tôi tuy đã già nhưng sức còn đủ để tung hoành ba ngày liền không nghỉ tay. Xin được mang binh đi cự giặc!
Trung hỏa tướng Đặng Nhất Hùng nay đã nhiều tuổi, tuy chưa già nhưng nhiều năm ở rảnh chẳng phải vào ra binh trận. Cho nên sức để lâu cũng đã mòn nhiều. Các tướng khác cũng thế. Tuy vậy, Sứ quân Kiều Công Hãn cũng có thêm được một số các người khác theo về dưới trướng. Cho nên sức mạnh của Phong Châu cũng không phải là kém. Nay, nghe tướng Đặng Nhất Hùng nói. Sứ quân hài lòng lắm, ngài bảo:
- Hoa Lư tới, ta phải ra quân cự lại là đúng. Tuy vậy ta cũng nên nghe xem mưu sĩ đại tài của ta tính thế nào? Cái kế liên minh “ngũ hổ địch nhất long” của Điền quân bị tên Nguyễn Khoan ngu xuẩn làm hỏng mất rồi. Cho nên Hoa Lư mới lập tức xuất quân nhiều mặt. Lúc này ắt hẳn các nơi khác đã nhận ra lỗi lầm của Nguyễn Khoan rồi! Vậy, Điền quân có mưu tính thế nào?
Điền Bạc vẫn dáng điệu lúc nào cũng như người đang ngủ gật, hai mắt có lúc lại nhắm nghiền như ngủ thật. Khi nghe hội nghị bàn cãi chẳng thấy cục cựa, đến khi Sứ quân hỏi thì uể oải, tay sửa vành khăn vẫn ngay ngắn, mắt chẳng mở to, giọng chậm rãi của người đã có tuổi, đáp:
- Bẩm Chúa công, kế liên minh của ta không thành là điều đáng tiếc thật! Lại thêm uổng mạng Quan Mạch Hải! Bây giờ, ta dù có liên minh được với ba sứ phía Nam cũng vô ích, và chẳng có Tam Đái trấn ở giữa ta với các Sứ quân ấy. Thành ra thế liên minh chẳng khác nào như người ta chỉ có cái đầu với hai cẳng chân, làm sao gọi là người được! Bẩm Chúa công, người xưa nói: “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại”. Đằng này mình lại còn muốn làm bạn với thằng dại nữa thì cũng phải nên xét lại chính mình! Biết đâu ba số còn lại ở phía Nam đã chắc hơn gì Nguyễn Khoan! Bẩm Chúa công, thế nào ta cũng được thấy Hoa Lư vượt qua các nơi, đến trước cửa ngõ giang sơn ta! Tôi tin rằng: Hoa Lư chỉ đợi kế liên minh của ta bị hỏng, là thế nào cũng đánh các nơi khác trước. Chứ không phải là đánh ta trước!
Sứ quân ngạc nhiên hỏi:
- Điền quân của ta có lầm không? Tế tác báo: Binh tướng Hoa Lư đã kéo đến trấn ở Cung Thương, lăm le tiến đánh Phong Châu ta. Thế mà ông lại bảo là Hoa Lư không đánh ta là thế nào?
Điền Bạc hai mắt lại lim dim, giọng càng chậm rãi đáp:
- Bẩm Chúa công, Hoa Lư có tay Quân sư tính toán như thần, làm gì mà y chẳng biết các Sứ quân khác là những người như thế nào? Lại thêm, trước khi sứ của ta xuống Tam Đái, ba người khác còn chờ để đợi lên đường. Trẻ con bỗng chơi trò mới, hát bài đồng dao nghe ra chẳng có nghĩa gì, nhưng kỳ thực là kể rõ công trạng của Hoa Lư và cái chết của các Sứ quân. Lại hiểu rõ tận tim gan nội bộ Nguyễn Khoan, làm như thể báo trước điềm trời việc Nguyễn Khoan giết sứ của ta. Như thế đủ hiểu Hoa Lư đã âm thầm ra sức phá kế của ta như thế nào. Xếp đặt để Nguyễn Khoan phải làm đúng như ý muốn. Nguyễn Khoan làm sao hiểu nổi, ta cũng không thể ngờ được sự thể lại như thế, đấy là điều ta phải kiêng nể Hoa Lư! Nay, Hoa Lư chẳng đánh ta, ấy là muốn phá kế liên minh của ta đến cùng. Đánh ta thì làm cho bốn sứ phía Nam tỉnh ngộ, lỡ ra liên minh được với nhau thì có phải là gây được khó dễ cho Hoa Lư không? Vì vậy, Hoa Lư không đánh ta trước, mà phải gấp đánh các Sứ quân khác trước là vì thế!
Lời nghị bàn của Điền Bạc quả thật tinh tế, cả hội im phăng phắc. Ai cũng thấy ghê sợ Hoa Lư lắm tài nhiều mưu, đã ra tay là trăm việc chưa sai một! Sứ quân nghe Điền Bạc nói thì ngồi thừ, rồi bảo:
- Như thế, Điền quân thấy cuối cùng sẽ thế nào? Ta còn đủ thì giờ để đối phó với Hoa Lư không? Ta sẽ đối phó như thế nào?
Cả hội chăm chú đợi nghe Điền Bạc trả lời, rồi ông đáp:
- Bẩm Chúa công, ta tiếc là không vượt được Tam Đảo bất thần tràn đến Cổ Loa. Sức ta không đủ để hành động như thế. Trước kia Tiên Du đã mấy lần toan tính như vậy mà không được. Lại thêm tôi nghe nói, có tay chân của Hoa Lư đến mua chuộc kết minh với nhiều quan tướng của triều đình. Vì thế ta mới thấy có việc binh Cổ Loa xuống trợ chiến cho Hoa Lư đánh Tế Giang. Uy hiếp không cho Đỗ Động cựa quậy, rồi khi Hoa Lư đánh Tiên Du cũng lại có binh Cổ Loa trợ trận ở phía Tây. Như vậy mặt phía Đông ta không hi vọng gì ở việc chuyển đổi tình thế bằng cách bất thần tiến đánh Cổ Loa. Bẩm Chúa công, việc của ta lúc này là gấp chiêu binh tuyển tướng, bồi lực cho mạnh. Đợi lúc Hoa Lư diệt xong các Sứ quân phía Nam ta rồi nhắm đến ta, lúc ấy ta mở trận tranh hùng với Hoa Lư. Thắng được Hoa Lư ấy là ta nhờ được tay Hoa Lư dọn đường cho ta tới Cổ Loa, cũng là điều hay!
Hội nghị có phần hào hứng, Sứ quân hỏi vội:
- Điền quận xét mọi mặt, thấy ta có thể thắng được Hoa Lư không?
Điền Bạc đáp:
- Bẩm Chúa công, nếu cứ xem các Sứ quân đã bị Hoa Lư tiêu diệt, đem so sánh ta với họ, có nhiều điều khác nhau. Có nơi ta hơn họ về mặt này thì lại kém họ ở mặt khác. Tựu trung thì chẳng thể nói chắc được là hơn tất cả. Nhưng cứ xem việc nếu như Hoa Lư không tiến đánh ta trước thì phải nghĩ rằng: Một là Hoa Lư không sợ một mình ta, hai là Hoa Lư muốn vững sau lưng trước khi tranh hùng với ta. Nghĩa là Hoa Lư có phần nào sợ ta phải tự biết mình có lợi gì, có chỗ nào để Hoa Lư phải nể nang. Bẩm Chúa công, cho dù thế nào chăng nữa thì tôi cũng vẫn nghĩ rằng: Ta một mình tranh hùng với Hoa Lư, chưa chắc ngày một ngày hai mà Hoa Lư đã có thể thắng ta được. Có được như thế chính là ta biết cách lập trận, biết cách dụng được những lợi hại của địa hình núi non sông ngòi. Bẩm, ta một mặt cứ sửa soạn phòng bị, đợi xem Hoa Lư hành động thế nào là biết ngay!
Sứ quân Kiều Công Hãn rất hài lòng, nghe lời mưu sĩ Điền Bạc. Lệnh cho các tướng gấp rút chấn chỉnh quân bị, tích trữ lương thực, lại bắt văn võ các tướng phải đem một phần tài sản đóng góp vào đại cuộc. Sứ quân bảo: “Thắng được Hoa Lư, là tới được Cổ Loa. Bao nhiêu thiệt thòi hôm nay đều sẽ được đền bù gấp mười gấp trăm mai sau. Nếu chẳng cùng nhau góp sức, bại trước Hoa Lư, thì cho dù tài sản có nhiều đến muôn ức vận tải, cũng cầm bằng như gió thoảng mà thôi!”. Sứ quân nghe lời Điền Bạc, cố tránh không làm trăm họ bị thiệt hại về việc sửa sang quân bị của Sứ quân. Ai tình nguyện vào quân ngũ thì được thưởng, người biết phép cầm khí giới lên ngựa thì cứ theo tài năng mà cất nhắc. Nhờ có lệnh ban như vậy của Sứ quân, các đảng cướp lớn nhỏ đang bị binh mã triều đình hay các nơi khác như binh tướng Hoa Lư đánh dẹp liền theo về với Sứ quân. Thế là binh của Sứ quân Phong Châu lên đến hơn ba mươi ngàn, sức mạnh có thể vượt các Sứ quân khác.
Điền Bạc bây giờ mắt dường như mở lớn hơn, ông năng đi lại các nơi, chỉ dẫn cho các tướng phép bài binh bố trận. Khiến cho trên là Sứ quân Kiều Công Hãn xuống đến hàng các tướng thảy đều ngạc nhiên. Không ai ngờ được rằng Điền Bạc lại là người hiểu binh thư, biết xếp đặt trận pháp, thông thạo phép dụng tướng đến như vậy! Hỏi, thì Điền Bạc khiêm nhường bảo: “... Sách vở, tiên hiền chỉ dạy tất cả những thứ ấy trong sách...”
Thế là, nhờ có mưu sĩ Điền Bạc, chỉ một thời gian ngắn mà Phong Châu bừng lên hùng mạnh. Bao nhiêu hiểm địa núi non sông ngòi, binh tướng Phong Châu đều lập trận trấn giữ, thế vững như núi cao, sức mạnh tựa sóng biển lớn. Sứ quân tin mà kính trọng Điền Bạc, vì thế các tướng bây giờ chẳng ai lại còn dám có đôi chút xem thường Điền Bạc nữa. Điền Bạc đã trở thành văn sĩ mưu thần trụ cột của Phong Châu!
Tình hình ấy ở Phong Châu, tế tác của tướng quân Mạc Sa Cảnh thấy được hết. Đích thân tướng Mạc Sa Cảnh cũng mấy lần bí mật đến tận Phong Châu xem xét. Việc trình chẳng còn thiếu một điều gì lên Vạn Thắng Vương và Quân sư Lê Thảo.
Vương cho mở hội trước khi cho các đạo quân tiến sang phía Tây, Vương bảo:
- Đại kế chinh Tây của Quân sư, quả nhiên làm cho Điền Bạc ở Phong Châu nghĩ đến thế liên minh các Sứ quân để chống lại ta. Nhưng cũng lại đúng như Quân sư xét định: Điền Bạc không thể thực hiện được đại kế liên minh, và các Sứ quân khác không thể hiểu được suy nghĩ cao xa của Điền Bạc. Lại thêm Hoa Lư ta cẩn thận tiếp tay với các Sứ quân tăm tối ấy làm cho mưu của Điền Bạc bị hỏng ngay từ ở Tam Đái. Thế là chẳng bao giờ có việc “góp cây thành rừng, góp gió thành bão” được! Bây giờ, tế tác của ta cho hay: Phong Châu sau khi thất bại không tạo được thế liên minh, thì đành một mình tạo thế dựng lực, chờ chống lại binh ta. Tất cả những tình thế ấy, Quân sư hãy nói cho các tướng nghe.
Quân sư vâng lệnh Vương, nói:
- Bẩm Vương, này các ông. Chiến kế của ta đã quyết định ngay từ khi binh ta quay sang phía Tây. Nay Điền Bạc không lập được thế liên minh, ta hãy để cho Phong Châu được yên. Có thể ta mới tách rời được từng Sứ quân một ở phía Nam ta mà tiêu diệt trước. Phong Châu là trận đánh cuối cùng của ta, trước khi lại quay sang phía Đông tiến đến Cổ Loa!
Quân sư mới nói đến đây, cả trăm tướng đều bỗng bật hô vang “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!”. Các tướng tung hô như thế mấy lần rồi mới tạm yên, râm ran bàn tán với nhau. Khí thế thật vô cùng sôi nổi! Quân sư đợi cho các tướng bàn với nhau rồi tạm yên lại, thì nói:
- Ông Lê Hoàn mang quân mã bộ đánh Đỗ Động Giang, ông Nghi Bá Tường mang thủy quân khai chiến, như vậy là đã có tướng nhận trách nhiệm. Bây giờ, ta nói đến chiến sách của ta để lấy Đỗ Động. Đánh Đỗ Động ta không sợ có thể có các nơi khác liên minh trợ chiến cứu Đỗ Động. Một là Đỗ Cảnh Thạc từ ngày xưng hùng trấn giữ một nơi chỉ có khép cửa, khinh bỉ thiên hạ chẳng cần giao hảo với chung quanh. Gần Đỗ Động nhất lúc này chỉ còn Hồi Hồ, thì Đỗ Cảnh Thạc cũng lại nhiều lần lăm le tranh giành để mở mang bờ cõi. Cho nên Hồi Hồ chỉ có thù với Đỗ Động chứ không có thân. Thứ hai, Tế Giang đã mất, Đỗ Động không phải lo thủy trại Tế Giang ngày đêm như mũi dao nhọn dí vào cạnh sườn. Nhưng Tế Giang mất vào tay ta trước, nhất là thủy trại. Tất Đỗ Động sợ thủy trại của ta hơn sợ thủy trại Tế Giang ngày trước. Vì vậy Cảnh Thạc sửa sang lại thủy trại, vây ba lớp gần chắn hết chiều rộng mặt sông. Trại giữa là chính trại lập theo phép “Trong thủy, ngoài hỏa, giữa là thổ”, như thế là thế nào?
Lê Thảo nói về thủy trại của Đỗ Động ba lớp trong ngoài, mỗi lớp mang tên riêng ắt là phép dàn trận ứng với những tên ấy. Trận như thế nào chẳng ai biết, cho nên nghị sảnh im phăng phắc đợi nghe Quân sư giảng tiếp. Lê Thảo tiếp:
- Vòng ngoài cùng của thủy trại Đỗ Động Giang, hai đầu cách nhau dài đến ba dặm. Cảnh Thạc không thể mở dài trại thêm được nữa vì phía trên không thể lấn sang giang sơn của thủy trại Hồi Hồ. Phía dưới không thể chạm tới ranh giới thủy trại của Tế Giang. Bởi vậy Cảnh Thạc mới quyết lập trại cho thật ác liệt để bù lại phạm vi chật chội. Trại ngoài, tên là “hỏa trại”, thủy trại mà lại là hỏa trận thì rõ ràng là Cảnh Thạc viện đến lửa để giữ vòng ngoài. Vành đai lửa này lúc tôi từ Phong Châu xuống thì vừa xong một thịnh sự! Ấy là, hồi ấy Hồi Hồ muốn cướp phá thủy trại của Cảnh Thạc, cho binh thuyền bất thần tràn tới. Cảnh Thạc để cho binh thuyền Hồi Hồ vào hẳn bên trong mới cự lại, lúc ấy ta mới được hiểu thế nào là “hỏa trại”. Hóa ra vòng đai lửa dữ dội của thủy trại đã hoạt động, thiêu đạo chiến thuyền của Hồi Hồ chẳng còn một mảnh ván. Hỏa trận hoạt động ra sao chẳng ai biết, sau Cảnh Thạc nhiều lần sửa đổi khiến cho người ta đồn rằng: Không một đạo chiến thuyền nào có thể vượt qua được vành đai lửa ngoài cùng, và Cảnh Thạc có lần nói: “Trừ phi có quạt Ba Tiêu của Thiết Phiến Công Chúa, mới mong dập tắt được vành đai lửa của trại!”. Trại ngoài cùng cho đến lúc này chưa ai biết đích xác sức lợi hại ghê gớm của nó đến thế nào, thì làm sao biết được hai trại trong nữa! Đấy là chỗ khó cho binh ngoài khi muốn nhòm ngó Đỗ Động, là chỗ yên lòng gác tay ngủ kỹ của Cảnh Thạc!
Quân sư lại ngừng giảng giải, tướng quân Nghi Bá Tường lắng nghe những lời Quân sư nói. Ông chưa từng được nghe nói như vậy về thủy trại ở Đỗ Động Giang. Ông thấy ngượng với những lời nói lúc đầu của mình!
Quân sư tiếp:
- Đến trại ở giữa, Cảnh Thạc gọi nó là “thổ trại”. Cả Giao Châu chưa ai được biết trại ấy thế nào, cũng chưa có tướng hay người quân nào của Cảnh Thạc lại tiết lộ được những bí mật ở bên trong thủy trại của Thạc. Thủy trại mà lại mang tên là “trại đất” là điều ta phải suy nghĩ. Cho đến lúc này, tế tác của ta tuy đông người, tài giỏi ở tất cả các nơi khác, thế mà cũng đành bó tay chẳng làm sao dò xét được chút gì! Đến trại trong cùng, mang tên là “trại nước”, thì ta có thể hiểu được đôi chút về ý nghĩa của nó trong trận thế. Như vậy, nếu phá được thủy trại “thủy hỏa thổ” của Đỗ Cảnh Thạc, thì ta đã có thể nghĩ được là đã phá xong Đỗ Động Giang chưa?
Đến đây, thì không còn tướng nào lại còn dám nghĩ là phá Đỗ Động Giang của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là điều không khó!
Lê Thảo tiếp:
- Thủy trại của Đỗ Cảnh Thạc lợi hại như vậy, nghe nói Thạc khoe: “Có thể tung hoành trên sông nước như tung hoành trên bộ. Có thể tung hoành trên bộ như trên sông nước”. Ý muốn nói là hai quân thủy bộ chỉ một thủy trại cũng đủ chiến được ở các mặt rồi. Như vậy ta suy ra có thể hiểu được đôi chút là: Thủy trại của Thạc có cả khả năng xuất phát quân bộ chiến. Chắc đây là “thổ trại” tức trại giữa của ông ta! Lại nữa, vì để vừa ngăn chặn Tây Phù Liệt của Nguyễn Siêu, vừa đề phòng phía ải Đồng Lư của Hồi Hồ. Cho nên Đỗ Cảnh Thạc lập một trại quân mã bộ lớn ở phía Đông rặng Đồng Lư. Trấn ở vị trí: Trước mặt trông giữ con đường từ Nam lên Bắc, sau lưng đề phòng Đồng Lư bất thần thúc quân đánh ngược lên. Trại quân này của Thạc, ngày đêm có quân tuần canh, người qua lại đều bị xét hỏi thật nghiêm ngặt. Chắc chắn lúc này quân tuần canh ở đấy lại càng khắt khe hơn nữa. Thế nào Thạc cũng đã dàn quân đề phòng ta kỹ lưỡng lắm rồi! Hai đại trại thủy bộ ấy của Đỗ Động Giang nếu phá xong, thì xong được Đỗ Động!
Vương hỏi:
- Nếu phá xong hai đại trại ấy của Đỗ Động, Cảnh Thạc có thể thoát đi đường nào được?
- Bẩm Vương, vượt sông lên phía Bắc, đã có binh ta trấn, sang Đông là đất Tế Giang của ta. Phía Nam binh tướng ta từ Tây Phù Liệt trấn giữ sát đến Đồng Lư. Phía Tây là trấn thành quan trọng nhất của Hồi Hồ. Mà Hồi Hồ thì Cảnh Thạc còn có khoản nợ lớn năm xưa. Vị trí của Thạc ngày hôm nay dồn Thạc đến tình thế nguy hiểm như vậy, nếu không thắng được ta thì như thế là cả bốn phía đều không có chỗ cho Thạc chạy. Một là Thạc phải đầu hàng, hai là phải tử chiến. Vì thế đánh Đỗ Động Giang có thể bị mất nhiều xương máu!
Hóa ra mặt bộ đánh Đỗ Động Giang cũng lại chẳng phải là dễ dàng! Chỉ một vùng sông nước núi non không lớn, thế mà tàng chứa được ở đấy một sức mạnh kinh hồn. Quả thật Đỗ Cảnh Thạc là tướng biết binh pháp.
Vương lại hỏi:
- Doanh trại quân mã bộ của Cảnh Thạc tuy có lớn, mạnh thật, nhưng ta không có gì phải e ngại cả. Còn thủy trại của Thạc thì Quân sư đã nhìn thấy cách gì để phá được chưa?
Lê Thảo chậm rãi đáp:
- Bẩm Vương, nếu nói là đã có cách chắc chắn thì không đúng, nhưng cứ theo như những gì tế tác của ta quan sát thấy, tin tức dò la được, cộng thêm vào với tên gọi của từng thủy trại, thì ta có thể hiểu được rằng vòng ngoài cùng Thạc dụng đến sức lửa để chặn quân ngoài. Hãy cho là đúng như thế! Nếu vậy, thì vòng ngoài Thạc phải dàn xếp một vành đai lửa ghê gớm, đai lửa này ngăn được binh ngoài mà vẫn không làm cho các phía bên trong bị ảnh hưởng. Nó có thể vừa chặn được binh ngoài, vừa hỗ trợ cho binh trong mở thế phản công. Trước hết, ta có thể nghĩ về hỏa trại ấy như thế nào? Tế tác của ta, có đích thân tướng quân Mạc Sa Cảnh nhiều lần đi quan sát, cho biết là thủy trại bên ngoài là một lớp tre già rào kín như một bức thành cao. Cả thủy trại mở ra mười sáu cửa, liên lạc với nhau bằng thuyền nhẹ, không thể nào biết được bên trong thủy trại xếp đặt thế nào? Cảnh Thạc không ở một nơi nào nhất định, khi thì ở thủy trại, khi thì ở tại phủ đường. Tôi nghĩ: Trước hết, ta phải phá cho được thành lửa bên ngoài của thủy trại. Thành lửa, tất phải có nhiều vật liệu dẫn hỏa tốt, dàn xếp phải làm sao vừa cản phá được bên ngoài vừa bảo vệ được bên trong. Thủy trại đã một lần phát huy đốt tiêu một trận giặc như ta đã biết. Thế thì nếu bây giờ ta thúc thuyền chiến vào tất cũng lại đón nhận thảm bại như giặc ngoài ngày trước, ta phải nghĩ cách khác!
Cách nào để phá được thành lửa của thủy trại Đỗ Động? Thành lửa ấy thế nào còn chưa biết, làm sao phá được! Cách phá thành lửa chưa ai nghĩ là phải làm thế nào, thì tướng Nghi Bá Tường bàn:
- Thưa Quân sư, ta có thể hi sinh một số thuyền chiến, cho mở trận phá thành lửa để xem thành ấy phát huy thế nào. Từ đây ta sẽ biết được cách phá nó!
Hội nghị nhiều người cũng cho như thế là ta có thể được. Vương bảo:
- Làm như thế, ta phải mất một số binh tướng oan uổng. Người làm tướng cầm quân xem rẻ tính mạng binh của mình như thế, sao có thể gọi là tướng có dũng, có lược được. Đấy là hành động của một số tướng thời trước ở bên Tàu lấy sức mạnh thí quân để giành thế lợi, làm cho người đời mai mỉa là “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Hoa Lư ta xuất quân nhân nghĩa đi cứu non sông, tất không thể nào làm như thế được! Tướng quân muốn hi sinh một số thuyền chiến có binh công phá, sao không thay những thuyền chiến với binh quyết tử ấy bằng những phương cách khác vẫn có thể công kích được thành ngoài hỏa trận của thủy trại Đỗ Động!?
Ý của Vạn Thắng Vương thật tuyệt vời, hội nghị nghe Vương nói thì bật xôn xao bàn tán. Quân sư ra hiệu các tướng hãy im lặng, rồi vui vẻ bảo:
- Thưa trình vương, đấy chính là minh trí để phá thủy trại của Cảnh Thạc, ta phá lần lần từ ngoài vào trong bằng cách dùng thuyền chiến không có người để thay binh ta đi phá địch. Tuy thế, ta còn phải đối phó với nhiều thủy trại của các Sứ quân khác. Nếu mỗi lần lại phải mất một số thuyền thì làm sao trong một thời gian ngắn ta có thể thu xếp cho đủ thuyền được. Vậy, tại sao ta lại không thay thế thuyền bằng các thứ khác, như cây lớn, cỏ rơm khô chẳng hạn. Nhưng, ta cũng lại phải xét đến một bất lợi của ta là: Ta tiến binh từ phía dưới, không thể lợi dụng được dòng nước chảy xuôi mà phá trại địch, cũng lại không thể chờ đợi lúc nước rút thì theo nước mà tiến quân. Như thế ta chỉ có thể giảm được vất vả khó khăn bằng cách đúng lúc nước đứng không lên xuống thì hành động!
Thế là Quân sư đi lấy cây rừng, chọn những cây không lớn quá. Tốt nhất là lấy những cây chỉ ba bốn chét tay, càng dài càng tốt. Đem những thân cây ấy vạt nhọn một đầu, chiều dài cắt bằng nhau, đem mười cây kết lại thành một bè. Mười cây ấy chèn cho cây nọ cách cây kia cũng bằng chiều rộng của thân cây, như vậy thành một chiếc bè thưa mà rộng. Trên bè sai chất hỏa liệu, mỗi bè có ba thuyền chiến. Mỗi thuyền có sáu mươi tay chèo cũng là quân thủy chèo đẩy đi.
Việc sửa soạn để đánh thủy trại vẫn do tướng Nghi Bá Tường lĩnh cờ tổng quản. Quân đông tướng nhiều nên việc sửa soạn chiến cụ được nhanh chóng. Chỉ chưa quá bốn ngày trời mà thủy trại Tế Giang đã kết được gần ba trăm bè thủy chiến. Bao nhiêu thuyền chiến thu thập từ Đằng Châu, Bình Kiều, Phù Liệt và Tế Giang đã tụ tập được gần hai nghìn cái lớn nhỏ.
Nghi Bá Tường cho hai dạo bồi chiến dự phòng mỗi đạo đông một trăm bè. Chia nhau trấn sát dọc hai bờ Bắc Nam của dòng Bạch Hạc. Còn đạo chính binh thủy chiến nhập gần hai trăm bè chia làm sáu đoàn gọi là tiểu trận, mỗi tiểu trận được ba mươi bè, chia thành ba lớp trước sau. Như thế tổng cộng là một trăm tám mươi bè gỗ nhọn.
Bao nhiêu sửa soạn của binh thủy Hoa Lư tế tác của Đỗ Động Giang đều không thể nào hay biết được. Thủy trại Đỗ Động nghiêm ngặt quá thành ra lại khó cho tế tác không thể đi xa dò tìm tin của binh địch được.
Quân thủy sửa soạn thì quân mã bộ do tướng Lê Hoàn đảm nhận cũng gấp rút sửa soạn.
Vâng theo chỉ dẫn của Lê Thảo. Tướng Lê Hoàn đem binh mã đến trấn ở chân núi đất Bình Đẩu. Núi đất này tròn, lớn, giống như hình cái đấu để đong thóc gạo. Người địa phương bắt chước tục lệ của người phương Bắc, hàng năm vào ngày Trùng Cửu thì mở hội gọi là hội đăng cao [→18] và đến tránh nước lụt ở núi đất này. Vì vậy vùng này dân cư đông đúc, binh mã của tướng Lê Hoàn lẽ ra kéo đến dây thì làm náo động cả Đỗ Động và Hồi Hồ. Nhưng vì quân tuần canh chặt chẽ quá, tế tác dày đặc chặn hết các ngả thông tin, thành ra cả hai Sứ quân đều không hay biết để chuẩn bị chống đỡ.
Gần trưa hôm ấy, Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc hội chúng tướng bảo:
- Quả nhiên Hoa Lư sắp sang sông. Ta ở nơi địa đầu chống nhau với nó. Tiếc một điều là Điền Bạc ở Phong Châu mắt tuy sắp ngủ vẫn trông thấy hậu họa, lập kế liên minh lại bị Nguyễn Khoan mắt mở trừng trừng thế mà còn mù hơn cả đứa mù, đem giết sứ. Làm cho thế liên minh chẳng thành. Ta ở đây không thể được nhờ gì chung quanh cùng chống đỡ, thế nào Hoa Lư cũng dòm ngó ta trước. Ta một mình chống nhau với Hoa Lư cũng chưa chắc Hoa Lư đã thắng được ta ngay. Thủy trại của ta có một không hai, chẳng binh nào có thể vượt qua được. Chỉ một thủy trại, nhưng sức lại gồm được cả hai quân mã bộ, như thế là ta có ba quân liên thủ hành động. Lại thêm trên bộ ta có trại Bình Đẩu là lớn nhất. Vừa là cứ doanh của giang sơn ta, vừa là trấn doanh chặn đường ra vào Đồng Lư. Thế của ta là thế có thể yên được nhiều đời, xưa nay chưa có binh nào dám dòm ngó thủy trại của ta. Ngay như Mộc Đường ở Hồi Hồ sau khi nhờ “phá kế” của Hoa Lư may mà thắng được thủy quân viễn chiến của ta ngày trước, cũng không dám nghĩ đến việc mạo hiểm vào xem thủy trại của ta. Thế thì nay Hoa Lư do tên chăn trâu cắt cỏ quen cầm cờ lau ngày xưa tưởng là mình tài giỏi dám cất quân toan xâm phạm giang sơn ta, thế nào đến Đỗ Động Giang này cũng là tuyệt địa của nó. Có thế mới ứng với mấy câu con trẻ hát ở Phong Châu cuối cùng là “Cờ Lau rũ bụi” cho mà xem!
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc nói xong, đưa cặp mắt tròn tinh anh lạ thường có thể nhìn được cả trong bóng tối, ngủ mi mắt không khép, nhìn chúng thuộc tướng một lượt, rồi tiếp:
- Hôm nay ta hội các ngươi về cả đây. Trước là để xem xét lại mọi việc, sau là để nhắc cho các ngươi biết: Ta từ khi dựng nghiệp, trấn giữ Tế Giang, đất tuy không rộng, nhưng giang sơn ta chính là nơi linh địa cẩm tú. Chung quanh ta chẳng nơi nào dám dòm ngó. Tuy thế ta vẫn cẩn thận đề phòng việc hôm nay bằng hai đại trại, một là thủy trại Thủy Hỏa Thổ, một là đại trại quân bộ chiến. Hai trại trấn giữ đủ để Đỗ Động ta yên ổn ngần ấy năm trời. Binh ta là binh được ăn no, nhiều năm thao luyện thật tinh thục. Tướng của ta vừa nhiều lại vừa quán thông binh pháp chiến trận. Cho nên ta yên lòng không lo Hoa Lư lấn át. Tình thế lúc này, còn nhiều thì giờ để ta quan sát binh tướng Hoa Lư hành động. Tin tế tác của ta ở phía Bắc trình về: Hoa Lư mở cuộc quân hành đi sát Cổ Loa, vượt Cung Thương, Bình Xuyên. Uy hiếp Phong Châu của Sứ quân Kiều Công Hãn. Như thế là Hoa Lư sợ nếu đánh ở phía Nam, thì phía Bắc Kiều Công Hãn thừa cơ cướp Cổ Loa. Hoa Lư sẽ tiến binh từ Bắc xuống Nam, lần lượt phải qua Phong Châu, Tam Đái, vượt Bạch Hạc xuống Hồi Hồ. Cuối cùng nếu Hoa Lư thắng được tất cả thì lúc ấy nó sẽ quay sang Đỗ Động ta. Thời gian chinh chiến ấy tất phải là lâu dài, ta có thì giờ để xem cuộc thế, bồi dưỡng thêm thế lực của ta. Ta nhắc các ngươi, đừng thấy Hoa Lư thắng các nơi mà nản lòng khiếp sợ. Chẳng qua là vì các nơi ấy người chủ súy là những Sứ quân chẳng biết gì về phép chiến trận. Cứ tưởng việc lớn đất nước cũng chỉ giản đơn như hùng cứ loanh quanh ở một xó rừng góc núi. Cho nên chỉ một hai lần vào trận là đã bại vong. Ta ở đây, vốn là tướng của triều đình, hiểu các phép tắc, xây dựng quân doanh, phòng giữ những nơi hiểm yếu. Thế của ta khác hẳn các Sứ quân, cho nên dù Điền Bạc thất bại trong kế liên minh, ta vẫn yên lòng tin chắc là không thể bị Hoa Lư làm cho khốn đốn được!
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vóc người nhỏ bé, giọng nói êm đềm thanh tao. Không có vẻ gì là một tướng cầm quân quen trận mạc hùng dũng. Ngài luận thời, định thế một hơi dài khiến cho các tướng thuộc hạ thấy vững lòng lắm.
Sứ quân tiếp:
- Thủy trại của ta, ngay như tướng không phải là người trách nhiệm thì cũng chẳng thể biết đường vào ra, nói gì đến binh ngoài. Tướng quân Quốc Hồi Uy giữ trận trung ương thủy trận, Bán Phụng Đào giữ thổ trận ở vòng thứ nhì, tướng Lữ Bối Diệp giữ hỏa trận ở vòng ngoài cùng. Ta vẫn giữ nguyên thế trận như vậy, ba tướng cứ nhiệm vụ của mình mà hành động. Ta tin chắc là binh Hoa Lư mai kia chỉ đến được hỏa trận là phải tan rồi. Hai trận bên trong chẳng cần phải mệt sức!
Sứ quân lại ngừng nói, ngài dường như không cần phải hỏi ý của các thuộc hạ. Chỉ có mệnh lệnh ban xuống và các tướng cứ chiếu theo đấy mà hành động. Xem ra Sứ quân vô cùng tự tin. Ba tướng trấn thủy trại lẳng lặng nghe Sứ quân nói, cả ba không nói một lời nào.
Quay sang các tướng khác, Sứ quân bảo:
- Còn đại trại hai quân mã bộ ở Bình Đẩu, thì vẫn tướng Phùng Ngoại Địch chỉ huy, trợ lực vẫn là các tướng Lâm Bạch Tường, Phụng Trì Cung, Lương Quế Hồ, Cao Cẩm Đính, Kỳ Dư. Các tướng khác ở lại phủ đường với ta!
Nói đến đây, Sứ quân ngừng lại một chút, rồi chợt lên giọng:
- Này các tướng, ta không thể cứ mãi mãi trấn ở Đỗ Động này. Không thể mãn nguyện với cái danh một Sứ quân được. Bao nhiêu năm công lao xây đắp nên giang sơn này, ấy là để cho việc mưu sự mai sau ở Cổ Loa. Ta chưa kịp hành động, thì Hoa Lư lại hành động hộ ta trước. Tức là đổ công nhọc sức đánh dẹp các nơi khác, cuối cùng ta chiến với Hoa Lư. Ta thắng thì việc lấy Cổ Loa rõ ràng là trời sai thằng chăn trâu cắt cỏ dọn đường trải chiếu hoa cho ta đi. Ngai vàng ở Cổ Loa không về tay ta thì dễ thường để cho thằng chăn trâu ngồi chắc! Ta thì ta nhất định thắng Hoa Lư rồi! Các ngươi nên biết thế, đợi Hoa Lư diệt xong các Sứ quân kia thì các ngươi chiến với nó mà tranh công trọng thần khai quốc của ta nhé!
Các tướng hào hứng quá, bỗng nhất tề tung hô “Chúa công vạn tuế!” Tiếng hô ầm ầm từ trong đại sảnh tràn ra đến bên ngoài. Chúng quân từ lâu đã nghe nói đến chiến trận ở các nơi. Hôm nay lại thấy Sứ quân hội các tướng, quang cảnh phủ đường Đỗ Động rực rỡ cờ xí. Các tướng về hội ông nào cũng giáp bào binh khí, quân hầu uy nghi, làm cho phủ đường hốt nhiên hào khí dâng cao. Bây giờ lại nghe trong đại sảnh các tướng hô vang thì các trại quân ở ngoài tự nhiên cũng lại ứng tiếng hô lớn “Chúa công vạn tuế, Chúa công vạn tuế!”. Trong sảnh các tướng hô mấy lần, bên ngoài chúng quân thi nhau hô mãi không thôi, rồi trại nọ lan sang trại kia, khắp nơi đều ầm ầm tiếng hô. Cả thủy trại dù chẳng hiểu có việc gì nhưng cũng hùa theo cũng cất tiếng hô vang. Chỉ có đại trại Bình Đẩu là không thấy có tiếng quân reo hò vì đường xa cách hơn cả chục dặm đường, quân đây không biết việc cho nên vẫn im lặng.
Những tiếng hô ấy ở phủ đường và các trại quân ở chung quanh phủ đường, làm cho xảy ra hiện tượng lạ: Nguyên phủ đường Đỗ Động lập ở nơi nhiều sông nước, ruộng đồng chen chúc với rừng thưa núi thấp. Cho nên vùng này trù phú, ở nơi thôn quê có nhiều giống cò trắng, gáy có chùm lông dài thật đẹp. Người ở đây gọi giống cò này là Bạch Hạc, tên gọi loài cò trắng lại trùng tên dòng sông lớn. Bá tánh quý trọng giống bạch hạc cho nên hay tạo hình giống chim này làm đồ thờ tự. Bạch hạc ở Đỗ Động sinh sôi nảy nở nhiều lắm, chiều xuống khắp nơi cò bay về các đỉnh cây cao. Nhất là các rừng tre nơi đồng ruộng để nghỉ đêm. Chiều hôm ấy trời sắp sẩm tối, chợt có những tiếng quân reo rầm rầm làm cho chim chóc giật mình rời tổ bay ra. Cả một khoảng trời nơi phủ đường Đỗ Động lan rộng về đồng quê chim bay rợp trời. Bạch hạc sải cánh rộng lượn quanh kêu vang, các giống chim khác cũng giật mình rời tổ. Dưới đất chúng quân hò reo, trên trời muốn chim ào ào bay lượn cũng thét vang làm náo động cả một vùng.
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc thấy thế thì vui vẻ bảo:
- Ta mới luận việc lớn, bạch bạc đã ra khỏi tổ kêu vang đón mừng. Rõ là điềm trời xui khiến!
Các tướng nghe Sứ quân nói thì mừng lắm, lại hô vang vạn tuế Chúa công! Khiến cho khắp nơi doanh trại ầm ầm một phen nữa, chim chóc lại hốt hoảng rào rào ra khỏi tổ. Chưa bao giờ ở đâu lại có cảnh náo động lạ kỳ như thế này!
Sứ quân bãi họp, truyền mở đại tiệc đãi các thuộc tướng. Ông nào cũng hả hê vui vẻ chờ nhập tiệc. Trong lúc chờ tiệc, các tướng tụ tập nhau nhóm năm nhóm bảy, huyên thuyên bàn tán đủ chuyện. Nhóm các tướng trấn giữ thành Bình Đẩu do tướng Phùng Ngoại Địch làm soái tướng thì tụ lại với nhau. Quyết phen này xong hội trở về trấn doanh phải dốc lực đánh cho binh tướng Hoa Lư thất điên bát đảo. Chiếm cho được công đầu, giữ ghế những danh tướng khai quốc công thần mới được. Vì vậy, tướng Phùng Ngoại Địch bảo:
- Chắc là mai này Hoa Lư không đánh thủy trại đâu. Hoa Lư thế nào cũng biết thủy trại ấy là thế nào, cho nên nếu đúng như lời Chúa công nói thì Hoa Lư sẽ từ Hồi Hồ mà vào giang sơn của ta. Lúc ấy nhất định phải chiến với đại doanh ta trước. Công đầu phá giặc chẳng thuộc về bọn ta thì còn lọt vào tay ai được nữa!
Tướng Cao Cảm Đính bảo:
- Chúa công hội tướng, chim trời ta ra kêu mừng, quả là điềm lành. Có lẽ chúng ta được lĩnh công đầu thật đấy!
Tướng Lâm Bạch Tường góp lời:
- Nếu phá được binh Hoa Lư, thì công đầu về ta là đúng. Lúc này điềm trời xui chim ra khỏi tổ kêu mừng, sao ta chẳng nhờ ông Phụng Trì Cung xem cho một quẻ có phải là hay hơn không?!
Các tướng nhao nhao tán thành, đòi Phụng Trì Cung hãy ra tài thần toán. Phụng Trì Cung người ở Cổ Nha đất Phong Khê, ngoại hiệu người đời tặng cho là Tiểu Thần Tiên. Cung mặt trắng, đẹp, tính mê nữ sắc, rất giỏi phép xem cây hay lá cây mà quyết đoán được mọi việc. Tuy thế Cung ít khi dùng đến thuật diệp phệ này nhưng mỗi lần cầu đến thuật ấy thì trăm lần chẳng sai một lần.
Bây giờ các tướng đòi Tiểu Thần Tiên bói một quẻ xem điềm trời cát hung thế nào, thì mới đầu Phụng Trì Cung ngập ngừng không muốn, bảo:
- Điềm trời có hay không, người làm tướng không nên chú trọng vào đấy. Chỉ nên chú trọng đến việc dàn binh bày trận cho thật hay là hơn. Còn như hôm nay chim chóc bay nhiều, bạch hạc kêu vang, tôi nghĩ chẳng qua cũng chỉ là việc bình thường, chẳng nên hỏi đến thần linh làm gì?
Các tướng không nghe, rồi chủ soái Phùng Ngoại Địch cũng muốn được biết điềm lạ, nên bảo:
- Đành rằng chim bay là việc bình thường, nhưng chiều nay Chúa công ta quyết định việc quân, tình thế thật thuận lợi. Bạch bạc cùng muôn chim khác ra khỏi tổ kêu mừng, có khi trời cũng báo cho biết. Nếu biết được ý trời thuận với việc của ta, thì cũng là điều rất tốt để cho mọi người cùng nức lòng, dốc lực hơn nữa, cũng là điều hay lắm. Ông hãy vì Chúa công, vì các tướng ở đây mà ra tài xem sao!
Phụng Trì Cung không thoái thác được, đành phải miễn cưỡng nhận lời. Các tướng nghe biết cũng tụ cả lại để đợi xem Tiểu Thần Tiên bói quẻ. Việc đến tai Sứ quân, ngài vẫn nghe danh Tiểu Thần Tiên. Cho nên chính ngài lúc này cũng náo nức muốn được biết điềm trời. Thế là Sứ quân cho người chuyển lời của ngài đến khích lệ Phụng Trì Cung, bảo hãy bói một quẻ!
Phụng Trì Cung chiều ý mọi người, vâng lệnh Sứ quân. Sai bày hương án, đốt mười chín cây hương, bảo là cho ứng với “chín phương Trời, mười phương Phật”. Lần đầu tiên Tiểu Thần Tiên viện cầu đến quẻ bói để xem cát hung lại lập bàn thờ trịnh trọng như thế. Càng làm cho mọi người thêm nôn nao, nóng lòng chờ đợi.
Lúc ấy trời sắp tối hẳn, quân đốt đuốc thật sáng. Các tướng im lặng đợi chờ, và ở phủ đường Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc cũng đợi chờ.
Tiểu Thần Tiên bước đến trước hương án. Mặt quay về hướng Tây nơi mặt trời vừa lặn xuống, kính cẩn qùy gối bảy lần. Lầm rầm khấn điều gì không ai nghe thấy, cả một khoảng rộng im phăng phắc. Không một ai dám thở mạnh, chứ còn nói gì là dám gây tiếng động giữa lúc linh thiêng thế này!
Bỗng Tiểu Thần Tiên ngửng đầu, mắt nhìn vào một người, giơ tay chỉ người ấy, bảo:
- Ông ra ngoài, gặp cây nào cũng được. Tùy ông lấy cả cây ấy hay một ít lá rồi đem vào đây!
Người được Tiểu Thần Tiên chỉ cho đi lấy cây, là tướng Nhan Mục Thản. Tướng này nức tiếng với môn Thiết Thủ Quyền Vương, hai bàn tay cứng hơn thép nguội. Thản nghe Tiểu Thần Tiên bảo thì lập tức quay gót đi ra ngoài. Bóng tối chỉ còn thấy mờ mờ đường đi, cây cỏ lác đác ở cách chẳng xa. Thản bước nhanh tới rồi trong bóng tối chẳng biết cây gì liền giơ tay nắm một nắm to, dứt mạnh. Cây không bật gốc nhưng trong tay Nhan Mục Thản có một nắm lá.
Thản quay gót trở lại. Tiểu Thần Tiên bảo Thản để nắm lá hay cây lấy được lên hương án. Trăm cặp mắt mở to nhìn Thản, trăm con người hồi hộp.
Đuốc sáng soi tỏ, Thản bỏ lên hương án một nắm lá cây dâm bụt bị sức mạnh bàn tay thép của Thản dứt dứt nát bét. Thản bỏ nắm lá lên mặt bàn xong thì bước lại chỗ cũ đứng chờ. Tiểu Thần Tiên lặng lẽ bước tới, ông chăm chú nhìn nắm lá nát.
Trăm con người võ tướng mắt thật tinh tường đều cùng nhận thấy: Gương mặt Tiểu Thần Tiên nước da vốn trắng, lúc này càng trắng hơn nữa, bệch ra như nước da xác chết ngâm nước mấy ngày rồi! Tiểu Thần Tiên Phụng Trì Cung lặng người, mặt ông chẳng còn chút sắc màu nào. Thần Tiên run rẩy cứ đứng lặng hồi lâu!
Không khí thật nghiêm trọng, cuối cùng tướng Phùng Ngoại Địch phải lên tiếng, giọng ông cũng run run:
- Tiểu Thần Tiên, ông thấy gì?
Phụng Trì Cung vẫn đứng lặng, ngay lúc ấy có tiếng vó ngựa khua gấp, tiếng chân người bước đi. Rồi có người nói lớn:
- Chúa công cho ra hỏi xem Tiểu Thần Tiên ngài hỏi quẻ thế nào? Chúa công đang nóng lòng chờ đợi!
Chính Sứ quân cũng nóng lòng đợi quẻ bói của Tiểu Thần Tiên! Các tướng khác khi được biết Phụng Trì Cung hỏi quẻ diệp phệ thì cũng xúm cả lại đợi nghe. Nay thấy tình hình chẳng còn thiếu ông nào lại không muốn biết.
Nghe sứ giả của Sứ quân hỏi, Tiểu Thần Tiên giọng run run nói:
- Thưa các ông, việc làm của bậc nhân thần là do người ấy tính toán xếp đặt. Thành hay bại là do tính toán sai hay đúng, còn quẻ bói chỉ là điều mơ hồ. Tuy rằng thần tiên là những bậc linh thiêng cao cả, nhưng ta cũng không nên quá tin vào việc câu hỏi thánh thần!
Có điều gì Phụng Trì Cung không muốn nói ra! Sứ giả của Sứ quân lại bảo:
- Chúa công có dặn: Quẻ thế nào Tiểu Thần Tiên cũng phải trình để ngài rõ ngay!
Tướng Phùng Ngoại Địch nhìn quang cảnh, nghe những lời nói của Tiểu Thần Tiên ông mơ hồ hiểu ngay là quẻ bói có điều gì không hay, nghiêm trọng. Liền lên tiếng nghiêm giọng bảo sứ giả:
- Việc quân do tướng quyết định, thắng bại là lẽ thường. Bói toán hỏi quẻ thánh thần là những điều không nên dùng đến ở trong quân! Ông trở lại trình với Chúa công là quẻ bói của Tiểu Thần Tiên không linh ứng, cho nên không chỉ ra một việc gì cả!
Thế là Phùng Ngoại Địch gỡ ra cho Phụng Trì Cung khỏi phải nói về quẻ bói. Các tướng vây quanh thắc mắc nhiều lắm, ai cũng không bằng lòng với những lời nói của tướng Phùng Ngoại Địch. Không ai nói gì cả, nhưng từ đây thì ông nào cũng tự nhiên có những điều suy nghĩ ở trong lòng. Xem việc chiến trận sắp xảy ra, có chỗ nào không được thuận lợi:
Các tướng còn thầm thì bàn tán với nhau, thì đã có lệnh của Sứ quân cho người ra mời các tướng vào dự tiệc. Thế là việc bói quẻ thần tiên các tướng tạm gác sang một bên. Tất cả vào dự tiệc mất hẳn không khí hừng hực vui vẻ lúc đầu.
Vào tiệc, Sứ quân cũng không hỏi đến quẻ bói nữa, ngài vẫn vui vẻ hiểu dụ các tướng, rồi bảo:
- Hôm nay, chính là ngày mở đầu cho vận mệnh huy hoàng của Đỗ Động ta, phủ đường này các ông chúc mừng tương lai kì lạ của ta bằng tiệc rượu này. Mừng cho đại cuộc ai không say ấy là không hết lòng với ta. Vậy khai tiệc trước hết mỗi người đều uống một hơi ba bát đã!
Rồi Sứ quân tự tay nghiêng vò rót rượu cho mình, quân hầu cũng vội rót rượu cho các tướng. Cả tiệc ồn ào với tiếng vò sành va chạm vào bát sứ, mùi rượu nồng bay ngập đại sảnh. Chớp mắt tuần rượu khai tiệc hết, men nồng chưa ngấm lắm nhưng chẳng còn ai lại không thấy máu chảy mạnh trong cơ thể, hưng phấn bắt đầu dậy lên. Sứ quân đặt bát xuống bàn, ngài vẫn giọng êm đềm bảo:
- Này các tướng, ta từ lúc rời bỏ triều đình, trả lại áo mũ ấn tín cho nhà vua, đến lập nghiệp ở đất linh thiêng này. Trải qua bao nhiêu năm vất vả, trận mạc cũng đã có những lần chiến lớn, nhưng lần này mới thật là “đại chiến thu giang sơn, đại trận phục thiên hạ”. Chỉ nay mai thôi là cả cõi Giao Châu này sẽ được thấy đất trời nghiêng ngả, vận hội mới với triều đại mới mở ra. Lúc ấy chính là lúc trời cao lộng cuồng phong, mặt đất rung chuyển để cho sơn hà đổi mới...
Sứ quân đã ngấm men rượu quý Bảo Quế vừa hùng hồn nói tới đó, thì có tiếng trống thúc lớn ba tiếng ngoài phủ báo là có tin cực khẩn xin được trình vào. Sứ quân ngừng nói, cặp mắt như trũng sâu hẳn xuống, ngài nhìn đăm đăm ra cửa lớn có ý không bằng lòng, sẵng giọng:
- Việc gì?
Ngay lúc ấy, tướng tuần phòng phủ đường hấp tấp bước vào chẳng kịp thi lễ hay đợi lệnh, đã nói lớn:
- Bẩm cấp trình Chúa công, đại trại thủy quân của ta bốc cháy. Thủy quân Hoa Lư bất thần đánh phá dữ dội, tình hình hết sức khẩn cấp!
Từ Sứ quân xuống đến hàng các tướng, hết thảy thấy như mặt đất ở dưới chân đang rung chuyển dữ dội. Sao lại có thể như thế được!
Cả đại sảnh trong một thoáng lặng đi chẳng có một tiếng động. Rồi tướng Cao Cẩm Đình lên tiếng:
- Xin Chúa công bãi tiệc, xem việc ngay!
Lúc ấy cả đại sảnh mới xôn xao, các tướng ùa ra ngoài nhìn về phía đại trại thủy quân ở phía Bắc phủ đường. Trời đã tối đen nhưng quả thật ở phía ấy ánh lửa rực đỏ ánh lên trời cao, như màu máu pha loãng trong nước. Ánh đỏ rộng một vùng lớn lắm, đúng là thủy trại đang bốc cháy!
Sứ quân cùng các tướng nhìn quang cảnh ấy, tự nhiên thấy tay chân bủn rủn, chẳng ai có phản ứng gì, cứ đứng ngây người mà nhìn.
Có tiếng người quát to:
- Các tướng giữ trại, mau trở lại!
Đấy là tiếng thét của soái tướng Quốc Hồi Uy trách nhiệm trấn thủy trại trung tâm, là “thủy trận”. Uy quát lớn khiến cho hai tướng Bản Phụng Đào giữ thổ trận và Lữ Bối Diệp giữ hỏa trận như chợt tỉnh cơn mê. Cả hai hấp tấp chạy theo Quốc Hồi Uy. Ba tướng quên cả xin lệnh hay lạy từ Sứ quân!
Ba tướng giữ thủy trại vừa chạy đi. Sứ quân cùng các tướng khác còn đứng ngẩn người trước đại sảnh, thì đã lại thấy có người tế ngựa tràn đến như mê dại. Kỵ sĩ tung cương nhảy xuống ngựa quỳ thụp ngay xuống trước Sứ quân, giọng run run hổn hển trình:
- Bẩm trình Chúa công. Binh Hoa Lư không biết đi đường nào bất thần tràn tới đánh phá ngoại vi trại trấn của ta ở phủ đường!
Sứ quân cùng các tướng vừa nghe trình, thì cũng đã nghe thấy tiếng quân reo như thác lớn đổ ngay bên tai. Binh ngoài đã vào sâu đến tim phổi Đỗ Động Giang, sao lại có thể như thế được!
Thầy trò Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ngỡ ngàng, như thể đất trời đột ngột thay đổi, mưa tuyết ập xuống làm cho tê cóng không còn động đậy được tay chân nữa. Tất cả lặng đi thì lại thấy tế tác giục ngựa chạy đến lập cập trình:
- Bẩm trình Chúa công, tế tác miền Nam gấp trình về: Binh Hoa Lư xuất hiện có vẻ muốn đánh phá đại trại Bình Đẩu. Tình hình vô cùng nguy ngập!
Tất cả lại lặng đi, lần này thì không phải là mặt đất rung chuyển nữa, mà các tướng thấy như trời trên cao vừa nổ tung rồi ụp xuống làm cho tất cả tối tăm mặt mũi! Sứ quân vóc dáng vốn nhỏ nhắn, lúc này thân hình ngài như co rúm lại. Sứ quân vốn là tướng của triều đình thế mà lúc này đởm lược như tan đâu mất cả!
Bây giờ thì đến lượt tướng Phùng Ngoại Địch lớn tiếng gọi các thuộc tướng của ông mau mau trở lại đại trại Bình Đẩu. Lại trình với Sứ quân là ổn định xong trấn trại thì sẽ đưa quân lên tiếp viện phủ đường ngay!
Thế là, tiệc mừng vận hội mới của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chỉ mới hết tuần rượu ba bát đầu tiên thì đã phải tàn. Ai cũng không thể nào ngờ được là lại có sự thể như thế này! Rõ ràng là Hoa Lư mang binh vào Cung Thương đánh Phong Châu trước. Sao lại bất thần đánh cả hai đại trại của Đỗ Động mà chẳng tế tác nào hay biết cả!
Khi ba tướng trấn giữ thủy trại len lỏi giữa những đám đông dân chúng chạy nạn, ra được gần bờ sông thì thấy đại doanh liên lạc đóng ở trên bộ cũng đã tan hoang. Binh Hoa Lư như từ trời cao ập xuống, ở đâu cũng thấy mặt. Ba tướng kinh hoàng vội cởi bỏ tướng phục, cải trang làm dân chạy giặc, cố ra bờ sông. Thấy binh sĩ của đại soái doanh trên bộ lác đác còn có người lẫn vào trong dân chúng, ba tướng giữ lại hỏi. Các người lính ấy cũng không biết được binh Hoa Lư tràn đến như thế nào. Chỉ thấy lửa trên sông phụt cháy, trận lửa ngoài cùng trong chớp mắt cháy ngút lan ra khắp nơi, rồi quan trấn bên trong tháo chạy ra hết. Ba tướng hoang mang không còn biết phải hành động như thế nào nữa, cứ đứng ngẩn người nhìn ra đại trại trên sông.
Ba tướng trấn thủy trại cũng như hết thảy các tướng khác của Đỗ Động làm sao biết được sự thể!
Lúc ấy, tế tác của tướng Mạc Sa Cảnh đi về hết sức tấp nập. Tin trình tới tấp khiến cho Quân sư cùng các tướng đón tin cũng phải thấy chóng mặt về các lệnh điều động quân binh, của các tướng mang quân cùng một lúc khởi trận ở cả hai mặt Bắc Nam của Đỗ Động. Mới đầu, Quân sư định là: Đánh thủy trại của Đỗ Động trước, sau là đánh tiếp trại quân mã bộ trấn phía Nam của Đỗ Động. Sau tế tác liên miên cho tin thì Quân sư lại quyết định: Nhân lúc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc bị lầm, tưởng rằng Hoa Lư sẽ đánh Phong Châu trước, thì bất thần phá vòng ngoài của thủy trại để xem hai trại bên trong phải phá như thế nào? Đến khi tế tác cho hay Sứ quân hội hết các tướng lại phủ đường, thì nhân cơ hội này Quân sư cho lệnh tối khẩn đi các nơi. Lập tức mở trận đánh cả hai mặt không cho các tướng Đỗ Động kịp trở tay, vì thế lệnh mới đi gấp các nơi.
Tướng Nghi Bá Tường từ trước theo lệnh đã chuẩn bị xong các bè chiến cụ, lại chuẩn bị sẵn binh hồi chiến. Có Lê Thảo đích thân đi cùng Nghi Bá Tường để xem xét thủy trại của Đỗ Động. Cho lệnh các bè gỗ nhọn đúng lúc trời tối, nước đứng, thì cho lệnh xuất chiến. Binh giữ im lặng thúc các bè tiến lên, các bè trợ chiến sát dọc hai bên sông cũng nhất loạt tiến lên.
Bè gỗ nhọn ngược dòng Bạch Hạc không khó khăn, đâm vào tường rào tre kết bên ngoài “hỏa trận” thì phá tung tường rào ấy. Trời tối không làm sao thấy được bên trong xếp đặt thế nào. Nghi Bá Tường đành ra lệnh đốt các bè phá trận. Lửa bừng cháy, các bè gỗ nghiêng ngả xô đẩy nhau, thuyền đẩy bè tránh lối cho lớp sau tràn đến. Chẳng mấy chốc mặt sông lửa cháy trên bè ngổn ngang, rồi bỗng thấy lửa như từ lòng sông bốc lên. Chỉ trong chớp mắt là cả một vòng lửa ngút trời rực sáng. Hóa ra, vòng ngoài thủy trại của Đỗ Động kết bằng những bè gỗ trên chất hỏa liệu. Các bè gỗ ấy bén lửa lập thành một thành lửa dày, chắn không cho bên ngoài lọt được vào bên trong.
Cách một khoảng chừng chiều dài ba thuyền chiến là đến “thổ trận” của thủy trại. Trận này là những bè kết lại thật vững chắc. Trên bè là những lều binh bộ chiến giữ trận, không cho quân ngoài nếu vượt được trận lửa thì cũng không đi qua được để vào trung tâm trận. Ở “thổ trận” lúc ấy binh Đỗ Động vừa xong cơm chiều chưa kịp dọn dẹp, thì thấy lửa cháy ngút trời ở vòng trận ngoài. Lại nghe có tiếng quân reo ầm ầm kêu gọi binh Đỗ Động mau mau đầu hàng thì kinh hoàng. Chủ tướng còn đi dự hội ở phủ đường. Ai cũng tin chắc là tình hình yên tĩnh. Bây giờ có biến thì như rắn mất đầu, quân chẳng còn dám nghĩ đến việc cầm khí giới. Ùa nhau chạy ra cứ theo các cửa trận mà vội vã bơi thuyền bỏ chạy.
Binh Hoa Lư bên ngoài thấy lửa cháy ngùn ngụt, thì hò reo kêu gọi binh Đỗ Động đầu hàng. Được một lát thấy quả nhiên binh Đỗ Động kéo ra. Tướng Nghi Bá Tường đứng bên cạnh Quân sư và các thuộc tướng, cố nhìn xem binh Đỗ Động ra bằng đường nào. Nhưng lửa cháy lớn, gió tạt, lại thêm sức nóng, khiến không làm sao trông thấy được đường binh Đỗ Động thoát ra. Quân sư liền bảo mau mau bắt lấy đám quân ấy tra hỏi tất biết.
Quân Đỗ Động ở cả hai trại ngoài đều chỉ rõ các cửa thủy trại dùng làm nơi ra vào. Quân sư bảo quân ấy dẫn đường cho thủy quân Hoa Lư vào trong trận. Quân sư lại lệnh cho hai đạo trợ chiến dọc hai bờ sông nhập lại làm một cùng dốc lực lên bộ đánh phá ngay tại doanh của thủy trại. Các tướng vâng lệnh chuyển quân ngay.
Quân sư vẫn ở bên cạnh Nghi Bá Tường cùng đem các tướng và chiến binh vượt qua các cửa thủy trại vào bên trong. Thành lửa nóng đến rát mặt quăn tóc, thuyền vào cửa phải hết sức đẩy chèo cho nhanh mới khỏi bị lửa hại.
Quân sư bảo Nghi Bá Tường:
- Hỏa trận vòng ngoài của thủy trại quả nhiên nguy hiểm. Không biết đường thì dù đốt được trận cũng chẳng vào được, mà lại hóa ra làm công việc đốt lửa thay cho binh tướng Đỗ Động chờ ở trong!
Thuyền qua vùng thành lửa, đến thổ trại. Lúc ấy binh Đỗ Động đang hò hét gọi nhau bỏ bè để xuống thuyền toan thoát ra ngoài. Binh Hoa Lư ập tới gươm giáo chĩa ra, loa gọi hàng ầm ầm khiến cho binh bộ chiến Đỗ Động đang kinh hoàng càng thêm kinh hoàng hơn nữa. Chẳng người lính nào của Đỗ Động thấy tình thế như vậy lại còn dám cầm khí giới, liền nhất loạt kêu lớn xin hàng phục.
Nghi Bá Tường truyền lệnh cho binh ấy phải trở lại bè kết, giữ trật tự không được náo động, rồi tra hỏi về trại trung tâm là “thủy trại”. Quân tranh nhau trình để mong lập công: Thủy trại trung tâm, gồm các thuyền nhẹ, quân trên thuyền chỉ dùng dao ngắn lúc cận chiến, cung tên lúc còn ở xa. Quân ấy chỉ ra khỏi trại khi nào hai trại ngoài bị bệnh ngoài phá được.
Nghe quân Đỗ Động kể trình như vậy. Quân sư bảo tướng Nghi Bá Tường:
- Cho đến lúc này, vẫn không thấy quân cung thủ dao ngắn ở trại giữa xuất hiện, ấy là nó muốn chiến với ta đấy, tướng quân hãy cẩn thận. Sai hàng binh dẫn đường, lại tháo bè trại giữa thúc tới phá khinh thuyền của nó. Nhớ cho quân dùng chắn đỡ tên!
Nghi Bá Tường vâng lệnh truyền quân hành động ngay. Quân sư gọi quân Đỗ Động bảo chỉ đường, đích thân Quân sư cùng phó tướng thủy chiến của Nghi Bá Tường là Lê Đường Hào mang một cánh quân đi ra cửa Bắc của thủy trại. Ở đây lửa cũng còn đang ngùn ngụt cháy, đạo quân len lỏi qua các cửa vượt ra vòng rào lửa, rồi ngược dòng kéo lên. Đạo quân lại theo cửa trận vượt tường lửa, qua thổ trận, tiến vào trận giữa.
Phía dưới, đã nghe thấy tiếng quân reo, lửa sáng nhưng không trông thấy rõ. Tuy vậy ai cũng hiểu là quân cung thủ dao ngắn ở trại giữa đang giao chiến với binh của tướng Nghi Bá Tường. Quân sư bảo tướng Lê Đường Hào cho lệnh quân thật im lặng, gấp tràn xuống phía sau trại giữa. Quân trong trại giữa đang dồn cả về phía cuối cự chiến với binh Hoa Lư.
Đến khi vào sát trận, nhìn đã thấy rõ binh Đỗ Động. Lúc ấy tướng Lê Đường Hào mới phát lệnh cho quân nhất tề hò reo trợ oai, cho thuyền ập tới. Thuyền chiến của Lê Đường Hào là thuyền lớn, đâm thẳng vào các khinh thuyền là thuyền nhỏ của Đỗ Động, thì thuyền Đỗ Động không chịu nổi lập tức vỡ ngay. Binh Đỗ Động còn đang có chiến với binh Hoa Lư trong nỗi sợ hãi kinh hoàng, vì binh ngoài đã vào đến giữa trận. Có nghĩa là hai trại ngoài đã bị phá. Tinh thần sa sút, binh đang muốn tìm đường thoát thân thì đã thấy phía sau binh Hoa Lư như từ trời cao ập xuống. Thành lửa hay trại thổ chẳng cản được các chiến thuyền lớn đâm tới. Tức thì quân cung thủ dao ngắn Đỗ Động ở trại giữa nghe tiếng hò reo kêu gọi đầu hàng liền quăng cung vứt tên, tháo bỏ dao ngắn, ném cả xuống sông rồi xin hàng.
Trại trung tâm thủy trại Đỗ Động Giang đã đầu hàng nốt, binh Hoa Lư hai mặt tụ lại. Quân sư bảo tướng Nghi Bá Tường xem xét mọi việc. Dặn là cho quân gấp tắt lửa, trấn giữ mặt sông coi chừng phía Bắc và thành Bạch Hạc của Hồi Hồ. Sau đó chia binh tướng kéo lên bộ nhằm hướng phủ đường Đỗ Động ở mặt Bắc, tr