Hồi Thứ Một Trăm Mười Hai trại tan, Sứ quân bị hại
Hồi Hồ nguy, bàn việc giải nguy
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc kinh hoàng đến lặng người. Làm sao quân Hoa Lư lại có thể vào đến tận nơi này, phá được thủy trại của ngài? Sứ quân vốn là tướng cũ của triều đình, thế mà trước tình cảnh này Sứ quân cũng bấn loạn đến mụ cả đầu óc. Cho đến lúc tướng Đỗ Trọng Đẩu kêu lớn lên: “Chúa công mau mau hồi doanh cự địch!” Thì lúc ấy Sứ quân mới như tỉnh ra. Liền gọi các tướng tức thì rời phủ đường lên ngựa tới đại doanh ngay.
Sứ quân thúc ngựa đi đầu, các tướng lũ lượt kéo theo. Cả một vùng phủ đường hốt nhiên náo động. Bá tánh cũng rùng rùng bỏ chạy, nhà nhà gấp đóng kín cửa ngõ. Chưa biết binh ngoài là binh nào thì hãy cứ lo phòng thân trước đã!
Lúc Sứ quân dẫn đám các tướng tới được trấn trại Quan Đồng ở phía Đông Nam phủ đường, thì binh Hoa Lư đang ra sức đánh phá trấn doanh. Binh trong doanh không có soái tướng, Đỗ Trọng Đẩu chỉ huy còn đang bối rối thì đã thấy Sứ quân cùng các tướng kéo đến. Tinh thần binh Đỗ Động hăng lên lại hò reo thúc nhau chiến với binh ngoài.
Kể đến việc tướng quân Lê Hoàn lĩnh mệnh mang quân bộ chiến đánh vào trấn trại sát phía Nam phủ đường Đỗ Động. Binh có thuyền chiến đưa sang sông, quân tuần canh tế tác vẫn đi lại quan sát các mặt, bắt chặn hết không để cho một thuyền nào đi qua, cốt giữ cho việc quan được bí mật hoàn toàn. Vì thế Lê Hoàn mang quân lên bộ, một phần tránh nơi đông dân cư, một phần có tế tác tiền phương mở đường dẫn quân đi. Đến khi nhìn lên phía Bắc thấy lửa ngút trời, thì biết là thủy trại của Đỗ Động đã bị cháy. Tinh thần chúng quân hăng lên, càng dốc sức tràn đến trấn trại Quan Đông ở ngay phía Nam phủ đường. Binh tướng Hoa Lư kéo đến đây thấy chẳng có binh tướng nào của Đỗ Động chặn cả, thì đã tưởng là lấy xong trấn trại này. Không ngờ mới đánh vào chưa thể làm cho trại bị vỡ, thì Sứ quân Cảnh Thạc đã kịp trở về!
Như vậy, cùng đi với Sứ quân có tất cả tám tướng. Thêm ba tướng giữ thủy trại không có đường về nên cũng lên ngựa đi theo Sứ quân. Tướng Đỗ Trọng Đẩu theo cửa sau trấn trại dẫn Sứ quân và các tướng chạy vào. Chúng quân thấy chủ tướng đã về lại thêm Sứ quân cũng tới thì nức lòng, hò reo rầm rầm. Ra sức đánh dội binh Hoa Lư trở ra. Nhất thời Lê Hoàn không thể phá trấn trại này được, đành tạm lui quân, chấn chỉnh hàng ngũ để mở lại trận.
Đúng lúc ấy, Quân sư cùng với tướng Lê Đường Hào đã tới. Nghe Lê Hoàn trình việc, Quân sư bảo:
- Thủy trại của Cảnh Thạc đã bị ông Nghi Bá Tường phá xong. Sau khi chấn chỉnh mọi việc ở trên sông thì sẽ đem quân lên bộ đánh vào phía Bắc phủ đường, làm thế chia lực binh Đỗ Động, giúp ta phá trấn trại này. Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc sẽ không có đường thoát thân, có thể ở trấn trại này phải đổ nhiều máu đấy!
Quân sư vừa nói xong, tế tác đã vào trình: Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đã đem nhiều tướng vào trấn trại.
Tức thì Lê Thảo bảo tế tác gấp đường đi gặp tướng Nghi Bá Tường, bảo không đem quân đến phủ đường nữa, mà đi sâu xuống phía Nam đánh vào sau lưng trại trấn Quan Đông của Cảnh Thạc.
- Ta không ngờ là thủy trại của ta như thế mà lại bị Hoa Lư phá chẳng khó khăn, ấy cũng chỉ vì tế tác của ta không lấy được tin Hoa Lư xuất trận thế nào. Thành ra ta chẳng khác gì như người đi đêm mắt bị bịt kín, tai lại bị chọc thủng, chẳng nhìn mà cũng chẳng nghe thấy gì cả! Bây giờ, ta cố giữ vững trấn trại này, đợi trấn doanh Bình Đẩu đem quân lên tiếp viện thì mới ổn định được tình thế.
Nhưng, Sứ quân không biết việc trấn doanh Bình Đẩu ở phía Nam, cửa ngõ lên Đỗ Động! Năm tướng giữ Bình Đẩu rời phủ đường lên ngựa gấp rút trở về. Ngựa chạy như gió cuốn, năm ngựa như năm vệt khói lướt đi, mỗi tướng một lo lắng với nhiều nghĩ ngợi. Vì vậy, ngay trong lúc đang gấp đi như vậy, mà tướng Cao Cẩm Đính cũng vẫn còn nhớ đến việc Tiểu Thần Tiên bói quẻ diệp phệ. Ông nghĩ: “Nhất định Phụng Trì Cung thấy tai họa lớn trong quẻ nên mới có thái độ như vậy. Bây giờ điềm nói trong quẻ đã ứng nghiệm rồi chăng!?”. Tướng quân họ Cao liền cất tiếng hỏi:
- Này các ông, có lẽ quẻ lá của ông Phụng Trì Cung ứng rồi chăng?
Tức thì các tướng như chợt nhớ ra, tướng Phùng Ngoại Địch kìm cương ngựa. Năm tướng dừng lại ở giữa rừng, Phùng Ngoại Địch bảo:
- Phải, lúc ấy tôi cũng thấy ông Phụng Trì Cung nhìn nắm lá rồi kinh hãi đến tái mét cả mặt, nhưng ông không dám hay không muốn nói ra. Cho nên thoái thác đủ thứ, đến như khi Chúa công cho người ra hỏi ông cũng không nói, nhất định là có điều lạ! Bây giờ, ông hãy nói cả cho mọi người biết, có khi là điều hay đấy!
Phụng Trì Cung từ lúc xem quẻ lá, thì lặng lẽ. Ngoài mặt vẫn giữ vẻ bình thản, nhưng thật ra thì trong lòng ngổn ngang đủ thứ. Chính ông cũng muốn nói để soái tướng Phùng Ngoại Địch được biết. Còn đang băn khoăn trên đường gấp trở lại Nam, thấy Phùng Ngoại Địch dừng ngựa rồi hỏi, thì liền buồn rầu đáp:
- Thưa các ông, lẽ ra tôi phải nói quẻ ấy ra cho mọi người cùng Chúa công biết ngay lúc ấy mới phải, nhưng lại không dám vì sợ làm loạn lòng người. Không ngờ tôi không nói ra lại làm cho tai họa càng nhanh xảy đến thì phải!
Các tướng kinh hãi, Phùng Ngoại Địch hấp tấp hỏi:
- Thể ông thấy quả ấy thế nào?
Phụng Trì Cung chậm rãi:
- Bây giờ có nói ra, hay để chậm chẳng nói cũng thế thôi! Tôi vốn không mấy khi viện đến linh thiêng để hỏi việc. Nhưng hỏi lần nào cũng đều chắc chắn là đúng cả, không sai một mảy may!
Tiểu Thần Tiên ngừng lại làm cho bốn tướng nóng lòng nhưng lặng lẽ đợi chờ. Tiểu Thần Tiên nói:
- Lúc ông Nhan Mục Thản đem nắm lá bỏ lên bàn, tôi đã thấy ngay: Quẻ ứng vào điềm “Thiên la địa võng, Giang Đông tàn vong, ngũ hầu hợp thi”. Ngày xưa lúc Hạng Võ thất thế, bốn mươi vạn quân cùng tám nghìn con em đất Bái mạng vong chẳng còn một người. Khi chạy đến Đông Thành nhìn lại chỉ còn có hai mươi tám kỵ binh còn trung thành đi theo. Hạng Vương bèn xuống ngựa rút gươm đâm cổ tự sát. Vua Hán có rao truyền ai lấy được mạng Hạng Võ thì thưởng ngàn vàng, phong ấp vạn hộ. Cho nên khi thấy Hạng Võ tự sát rồi thì các kỵ binh Hán giày xéo lên nhau để cướp xác Hạng Vương, giết nhau mấy mươi người. Mãi sau, Vương Ế lấy được đầu Hạng Vương, lang trung là Lữ Thắng, Dương Vũ đều mỗi người giành được một phần. Năm người họp nhau đem chắp lại xác thì thấy ăn khớp. Vì vậy cả năm đều được chia đất phong làm ngũ hầu. Quẻ xấu đến như thế là vì: Ông Nhan Mục Thản đi lấy lá cây, tay mạnh quá bóp nát nắm lá. Các ông không để ý cho nên không biết cả thảy có bảy chiếc lá đều bị nát hết, lá dâm bụt sách “Thảo Mộc” liệt vào hạng “thần diệp” có nhiều công dụng trị bệnh, ứng vào việc Chúa công ta cùng sáu người nữa sẽ mạng vong. Lá nát lẫn lộn vào nhau thành ra bảy người mạng vong đều tan xác! Thương thay! Chúa công ta lại kết thúc thảm thê như vậy!
Các tướng nghe Phụng Trì Cung nói thì kinh hãi quá. Thảo nào lúc ấy Tiểu Thần Tiên không dám tiết lộ quẻ bói khốc liệt ấy ra, mặt cứ tái mét là vì thế!
Tướng Lâm Bạch Tường gác cây giáo sắt trên đầu ngựa lắng nghe Phụng Trì Cung thuật quẻ bói. Khi nghe Tiểu Thần Tiên than thở thì đờ đẫn chẳng còn hồn, đến nỗi buông tay khiến cây giáo sắt rơi xuống cắm đứng ngay bên cạnh cổ con ngựa. Lâm Bạch Tường giật mình lật đật xuống ngựa, vội vàng thế nào làm cho chiến hài vướng vào chân đang. Thế là Tường lộn ngã chân còn treo ở chân đang yên ngựa. Các tướng cũng giật mình, Cao Cảm Đính vội vàng xuống ngựa đỡ Tường lên, thì Tiểu Thần Tiên Phụng Trì Cung bỗng hốt hoảng rú lên:
- Hỏng rồi! Hỏng rồi!
Cả bốn tướng thảng thốt, lại tưởng là binh tướng Hoa Lư tràn đến. Nhìn ra thấy Tiêu Thần Tiên mặt lại tái mét, Phùng Ngoại Địch vội hỏi:
- Tiểu Thần Tiên, cái gì thế?
Phụng Trì Cung giọng run run đáp:
- Giáo sắt rơi ngang cổ ngựa, ấy là quẻ “mã tiền lạc”. Chiếc lá cây mã tiền rụng cuống lá cắm xuống đất, quẻ ứng về phương Nam là phương loại cây này mọc. Thế là trấn trại phương Nam của ta tan mất rồi!
Bốn tướng rụng rời tay chân, cả đám mặt tái mét, rồi Lương Quế Hồ bảo:
- Quẻ bói của ông Tiểu Thần Tiên chẳng bao giờ sai. Mất trại bọn ta không có lối về, ta làm sao đây?
Lương Quế Hồ người ở Đồng Văn, Câu Lậu, tính nóng như lửa, quen xử cây thiết bản. Suốt từ đầu đến giờ mắt thấy tai nghe bao nhiêu là điều bất ngờ lạ lùng xảy ra, trong lòng vô cùng sôi nổi. Đến việc Sứ quân sẽ chết thảm, trấn trại tan, thì Hồ mất đâu mất cả tính nóng. Cây thiết bản chống mạnh xuống đất mà hỏi vu vơ như vậy.
Phụng Trì Cung thở dài, lúc này dường như Tiểu Thần Tiên đã bình tĩnh lại được rồi, giọng buồn bã chậm rãi nói:
- Mấy mươi năm ở với Sứ quân, ơn tình như thế là đủ. Bọn ta chẳng phản lại ngài, nhưng chắc chắn là cũng không thể cứu được ngài. Thôi từ đây ta cởi áo, bỏ khí giới, mai danh ẩn tích là hơn!
Các tướng tần ngần cho là phải, rồi Phùng Ngoại Địch bảo:
- Đã vậy, ta nên quay trở lại phủ đường, chứng kiến sự thể một phen. Biết đâu lại chẳng có cơ hội đền đáp được Sứ quân!
Rồi năm tướng thay đổi áo quần, đem quần áo nhà tướng chôn cả xuống đất, lại đem khí giới của mình cùng cho chung với áo quần. Xong việc, năm người lại lên ngựa thong thả quay trở lại phủ đường. Phong cách ra vẻ khách thương hồ lạc lõng ở xa giữa lúc có chiến trận chặn đường.
Năm người đi chưa được bao xa, nghe có tiếng vó ngựa khua cực gấp sau lưng. Năm người vội vàng giạt ngựa tránh lối. Đúng lúc ấy một kị sĩ sắc phục tế tác của Đỗ Động Giang đang ra sức giục ngựa tiến lên phía Bắc. Phùng Ngoại Địch trong lúc gấp rút, phúc đáo tâm linh quen miệng buột gọi to:
- Tế quân, có việc gì đi gấp!
Kị sĩ đang rạp mình giục ngựa, nghe tiếng gọi vội ghì cương dừng ngựa. Nhìn ra thấy năm ông khách thương hồ thì lại toan quay ngựa. Phùng Ngoại Địch oai vệ hỏi:
- Tế tác trấn doanh Bình Đẩu, ngươi lên Bắc trình tin gì? Tướng trận doanh Phùng Ngoại Địch là ta!
Tế tác vội vàng xuống ngựa, lập cập trình:
- Bẩm trình tướng quân, trấn doanh Bình Đẩu của ta bị đại quân Hoa Lư ba mặt đánh úp đã bị tan mất rồi. Tôi thoát lên Bắc toan về phủ đường trình việc!
Năm người kinh hãi, quả nhiên Bình Đẩu đã mất. Tướng Cao Cẩm Đính hỏi:
- Binh trại thế nào?
- Bẩm, một số bị chết, một số thoát chạy được. Còn thì tất cả đầu hàng binh Hoa Lư hết rồi!
- Ngươi có biết quân Hoa Lư do tướng nào cai quản không?
- Bẩm, tôi không được biết, nhưng nghe binh tướng Hoa Lư hô vang “Vạn Thắng Vương vạn tuế!”. Thì có lẽ Động chúa Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cầm quân!
Phùng Ngoại Địch hỏi:
- Lúc này nhà ngươi ước định quân Hoa Lư thế nào?
- Bẩm, ngay khi lấy xong trấn trại, tôi thấy đại quân Hoa Lư lên đường lên Bắc. Vì vậy phải gấp rút đi trước để báo cho phủ đường biết!
Năm tướng lại kinh hãi. Như thế thì đại quân Hoa Lư sắp sửa tiến tới đây rồi. Phủ đường chẳng thể nào giữ được với các đạo quân Hoa Lư đánh xong thủy trại thì kéo lên bộ chiếm phủ đường, cuộc sống lạc lõng biết về đâu? Các lời tiên đoán của Tiểu Thần Tiên chẳng có chỗ nào sai lầm.
Tướng Lâm Bạch Tường bàn:
- Bây giờ ta về Nam không được, lên Bắc cũng không xong. Vẫn chỉ còn con đường quyết định ban đầu là hơn cả! Nên đi ngay mới kịp!
Năm tướng lên ngựa, đem theo cả người quân tế tác nhằm hướng phủ đường Đỗ Động Giang gấp rút sải ngựa. Chạy chưa lâu, đã gặp tế tác lạc lõng cho biết: Sứ quân đã bỏ phủ đường cùng các tướng kéo tới trấn trại chống cự với binh Hoa Lư. Năm tướng lại đổi hướng chạy đến trại trấn phủ đường.
Lúc ấy, Sứ quân đã chấn chỉnh được hàng ngũ quân giữ trại, các tướng chia nhau các ngả trông quân. Đỗ Động có Sứ quân thân cầm quân độc chiến thì hăng lên, nhất thời quân Hoa Lư không thể cướp trại được.
Quân sư Lê Thảo cùng với tướng Lê Đường Hào đã tới. Quân sư bảo với các tướng:
- Thủy trại của Cảnh Thạc đã bị tan ra, trấn doanh Bình Đẩu cũng đã có tin là vỡ rồi. Đại binh của ta có Vạn Thắng Vương đang kéo cả lên đây. Chỉ đến giữa sáng là quyết định xong số phận của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc!
Rồi Lê Thảo bảo tướng trông coi trận là Lê Hoàn, cho quân vây chặt trại, đốt lửa thật nhiều để trong trại thấy thật rõ sức mạnh binh Hoa Lư bên ngoài. Rồi lại cho quân cứ đều đều hô to kêu gọi Đỗ Cảnh Thạc hãy mau mau đầu hàng. Quân sư lại sai lấy giấy bút, viết thư gửi cho Đỗ Cảnh Thạc sai bắn vào trong trại. Rồi Quân sư bảo tướng Lê Hoàn:
- Tướng quân nên sẵn sàng quân các mặt, đợi khi trong trại có biến thì dốc lực đánh vào! Xong việc, mang quân trở lại phủ đường dọn dẹp đón Vương tới!
Các tướng lấy làm lạ, không hiểu trong thư Quân sư nói gì mà trong trại lại sẽ có biến? Nhưng không tướng nào dám hỏi lại. Dặn dò các tướng xong mọi việc. Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh:
- Ta đi đón Vạn Thắng Vương vào phủ đường Đỗ Động!
Thế là Quân sư cùng các tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh lặng lẽ rời quân, theo tế tác dẫn đường xuống Nam, giữa lúc binh Hoa Lư cứ đều đều hô to gọi hàng Đỗ Cảnh Thạc.
Quân sư với Mạc Sa Cảnh vừa ra khỏi quân, giục ngựa xăm xăm theo tế tác đi gấp, thì ngay trước mặt cảnh vật đang yên tĩnh bỗng thấy gió cuốn tung bụi, xoắn nát cây cỏ mờ mịt cả một vùng trời chiều sắp tối hẳn. Mạc Sa Cảnh kinh hải thốt lên:
- Có biến chăng? Tế tác giục ngựa chạy lên xem có việc gì, lát sau quay trở lại trình:
- Bẩm, không có gì ở phía trước, chỉ có một vùng gió xoáy vừa đi qua hốt sạch bụi đất. Cả một khoảng các bụi cây nhỏ với cỏ ở đấy cũng sạch sẽ như được chăm sóc mỗi ngày không có một ngọn cỏ, không một lá cây rụng!
Mạc Sa Cảnh lấy làm lạ, Quân sư bảo:
- Gió xoáy là việc thường xảy ra ở nơi rừng núi, nhưng cuốn đi một dọc đường xa. Chưa hề lại có việc chỉ quét dọn sạch sẽ một khoảng như vậy rồi gió tan!
Mấy người lại cho ngựa chạy đi, chợt Quân sư kêu lên:
- Hay là như thế?
Mạc Sa Cảnh vội hỏi:
- Bẩm, Quân sư thấy gì thế?
- Việc gió xoáy vừa rồi, ta thấy có điều nghi ngờ!
Lê Thảo liền bảo tế tác dẫn đường đến nơi ấy. Ba người rẽ ngựa, len lỏi đường rừng chẳng mấy chốc đến một nơi rộng bằng một mặt ao rộng. Nơi này mặt đất sạch như lau, bằng phẳng, chung quanh cây rừng bụi thấp bụi cao vẫn y nguyên đều đặn như xén kỹ. Quân sư xuống ngựa quan sát một hồi, rồi lại lên ngựa, lẳng lặng chẳng nói. Mạc Sa Cảnh thấy cử chỉ của Quân sư cũng không dám hỏi, nhưng thắc mắc lắm, định bụng lúc nào thuận tiện thì sẽ hỏi.
Nhắc lại, Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc nhận được tiến thư mở ra xem, thấy có đoạn:
“… Nay, người làm tướng không thể không biết sức mình, sức người. Lại càng không thể không hiểu tình thế trước mắt, thì việc bảo toàn mạng mình, mạng các thuộc hạ cùng chúng quân phải là việc nghĩ đến trước nhất. Thắng đã là việc mơ hồ mong muốn hão huyền, thoát thân lại là sự thật không thể làm được. Thế thì chỉ còn lại con đường đầu hàng. Vả chăng, xưa nay cũng đã nhiều lần người chịu đầu hàng lại là có công cứu vạn chúng quân tướng. Tránh được cho đại cuộc khỏi bị cản trở, tội hóa thành công lớn. Sao người làm tướng lại không chọn con đường tiếp tồn, giữ lấy địa vị công thần của mình mai sau?!...”.
Sứ quân đọc thư, trong lòng cũng thấy là phải. Vả lại dù có muốn phá vòng vây thoát đi tìm nơi dựng lại sự nghiệp cũng chẳng thấy còn nơi nào. Liền bảo các thuộc tướng:
- Này các ông, chẳng phải là ta không muốn chiến đấu, sự nghiệp mười mấy năm chẳng phải là chẳng mất nhiều công lao xương máu. Nhưng xét tình thế hôm nay tiến không thể được, lui chẳng có đường, quy hàng thì còn có ngày mai, các ông cũng không mất phần. Vậy ta quyết định ngưng chiến để tránh đổ máu!
Các tướng nghe Sứ quân nói, ông nào cũng lặng lẽ có vẻ buồn rầu, không ông nào lên tiếng nói ý mình thế nào. Trong số các tướng của Sứ quân, có tướng Bản Phụng Đào giữ một trong ba thủy trại là người gốc Thổ ở núi Tử Trầm. Quê hương bản lập ở An Định, tính tình Đào hung hiểm dễ phản phúc, hành sự thường hay lén lút. Tự khoe là lừa được cả Âm Dương trên đỉnh Tử Trầm, vì thế gọi được mưa khiến được nắng. Bản Phụng Đào có tài phóng dao trăm bước chẳng bao giờ sai chệch, nên Sứ quân yêu tài cho theo dưới trướng, nhưng vẫn luôn luôn cẩn thận canh chừng đề phòng. Bản Phụng Đào thường vẫn ôm ấp giấc mộng làm vua các bộ tộc ở núi, nhiều lần nghĩ là: Ở được ngôi của Sứ quân, thì giấc mộng vua bộ tộc ắt thành.
Khi nghe Sứ quân nói như thế, Bản Phụng Đào nghĩ: Nếu Sứ quân ra hàng Hoa Lư, thì mình chẳng có công lao gì, giấc mộng vua bộ tộc sẽ chẳng bao giờ thành được. Nay nếu ra tay rồi thay Sứ quân cầm đầu đám binh tướng ra hàng Hoa Lư thì nhất định được công lớn. Mai sau xin cai quản các bộ tộc chắc được!
Nghĩ rồi, trong lúc các tướng nghe Sứ quân nói còn đang lặng lẽ, ông nào cũng ngổn ngang tâm trạng bị thương, thì Bản Phụng Đào lén rút một cây dao nhỏ thẳng tay phóng đi. Hành động của Bản Phụng Đào cực nhanh, các tướng chẳng ông nào kịp ra tay cản lại, thì đã thấy Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc lảo đảo ngã xuống. Cây dao cắm ngập đúng yết hầu, Sứ quân chẳng kêu được tiếng nào.
Tức thì các tướng nhốn nháo, Bản Phụng Đào hét to:
- Sứ quân Cảnh Thạc đãi người eo hẹp, chẳng tiếc xương máu thuộc hạ. Nay lại muốn cầu an hàng địch mưu cầu địa vị mai sau. Thế là kẻ gian tham muốn cầu lợi một mình! Ta tru diệt y, đưa các ông theo về với Hoa Lư là phải, kẻ nào không thuận là tự tìm cái chết!
Cả trấn trại nhốn nháo, tướng Lữ Bối Diệp nguyên trước kia là phó tướng của tướng thủy chiến Chung Tam Sở. Từ khi Sở tử trận thì trong lòng vẫn nặng mối buồn. Diệp là người chung thủy, chẳng bao giờ nghĩ đến công lao hay bon chen tìm địa vị. Nay giữa lúc Sứ quân lâm thế cùng thì trong lòng Diệp vô cùng thương cảm. Không biết phải làm sao để cứu được chủ, thì Bản Phụng Đào đã hành động như vậy!
Tức thì Lữ Bối Diệp thét to:
- Bản Phụng Đào phản phúc, quả nhiên Chúa công vẫn thận trọng với người là đúng! Không giết ngươi thì làm sao Chúa công nhắm được mắt!
Rồi Diệp rút gươm xăm xăm bước tới, đi chưa được ba bước thì Bản Phụng Đào đã lại phóng ra một dao nữa. Tài phóng dao của Đào quả nhiên lợi hại. Lữ Bối Diệp tuy thấy tay Bản Phụng Đào cử động, vội đưa gươm lên chắn đỡ mà cũng không kịp. Một ngọn dao lại trúng đích ghim giữa cổ Lữ Bối Diệp.
Các tướng náo động, Bản Phụng Đào vừa phóng dao giết xong Lữ Bối Diệp thì cũng lại rú lên một tiếng, ưỡn người cong như tấm ván uốn xong. Hai mắt trừng trừng nhìn vào mặt tường Quốc Hồi Uy.
Quốc Hồi Uy đang cúi xuống đỡ Sứ quân thì xảy việc Lữ Bối Diệp. Tướng quân chẳng kịp lên tiếng liền xốc trường giáo bay đến cực nhanh. Tay giáo vươn ra chiếu giữa ngực Bản Phụng Đào đâm tới cực mạnh. Bản Phụng Đào chưa kịp hồi bộ sau khi phóng dao giết Lữ Bối Diệp, thì đường giáo của Quốc Hội Uy đã trúng đích. Phụng Đào chết sau khi chỉ rú lên được một tiếng! Trấn trại lúc này càng náo động. Các tướng kinh hoàng không giữ được quân nữa.
Tướng Ngô Vọng Thái vốn là người trầm tĩnh, lúc này cũng phải kinh mang. Nhưng rồi ông là người trấn tĩnh được tinh thần trước nhất, liền bảo các tướng:
- Tình thế này hỏng mất rồi! Chậm là chết cả, chi bằng hãy bỏ hết quần áo, cải trang làm binh thường. Rồi lẩn vào trong quân mà thoát đi là hơn cả!
Các tướng cho là phải, liền bỏ chiến bào, cải trang làm quân, quăng hết khí giới. Lại cẩn thận cải trang cho cả Sứ quân để phòng khi binh tướng Hoa Lư vào không biết Sứ quân là ai. Tránh cho Sứ quân khỏi có thể bị quân Hoa Lư đối xử không tốt.
Cả đám cải trang xong, bỏ ngựa đi bộ toan lẩn trốn, thì bình Hoa Lư đã tràn vào. Đi đầu là một tướng giục con ngựa cao lớn, tay đao như gió táp mưa sa chém giết không nương tay. Tướng ấy luôn mồm thét kêu gọi Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở đâu mau mau ra chịu chết! Tướng này chính là Phạm Hạp.
Phạm Hạp cùng nhiều tướng khác theo ngựa tướng Lê Hoàn vượt sông, thẳng đường gấp rút đến trấn trại phủ đường. Lúc đạo quân đến gần trại thì đã thấy lửa cháy trên sông, tiếng quân reo ầm ầm. Tế tác đến trình mọi việc, rồi tế tác miền Nam lại gấp đường đến trình: Phía Nam, trấn doanh Bình Đẩu đang giao chiến lớn. Lê Hoàn liền giục quân, hô các tướng càng mau mau đánh gấp trấn trại phủ đường. Phạm Hạp là người dữ dội hơn cả, ông thúc ngựa lên trước cả tướng tiên phong Lê Hoàn, xông thẳng vào trong trại. Hạp đi đến đâu máu đổ thịt rơi đến đấy, tình cảnh thật thê thảm.
Lúc đại quân Hoa Lư tràn được vào trại lần đầu rồi bị đánh dội trở ra, các tướng giận lắm. Đến khi Quân sư từ phía bờ sông đến, gửi tiễn thư vào trong trại, dặn dò các tướng rồi lại ra đi, thì chẳng mấy chốc sau khi tiễn thư gửi vào trại, quả nhiên thấy trong trại náo động. Tướng Lê Hoàn lập tức hô các tướng mau mau thúc quân phá trại. Vì vậy, tướng Phạm Hạp tính vốn lầm lì mới nổi hung lên như vậy. Hạp như chém giết cho hả cái giận bị binh trấn trại đánh dội trở ra lần trước.
Hạp xông xáo, hò hét, trời xui đất khiến thế nào ngựa của Hạp lại xộc ngay đến chỗ các tướng Đỗ Động vừa cải trang xong, khí giới vất cả. Các tướng loanh quanh chưa kịp chạy thì Hạp ào đến như trận gió dữ. Hạp chẳng nói chẳng rằng vung cương đao chém giết chẳng nương tay.
Các tướng Đỗ Động mới đầu kinh hãi đã tìm đường để chạy, đến khi thấy tướng Hoa Lư hung dữ quá chém giết thật tàn nhẫn thì tự nhiên máu nhà tướng sôi sục. Tướng Quốc Hồi Uy thét lớn:
- Giặc Hoa Lư không được vô lễ!
Thét xong, Quốc Hồi Uy nhào đến. Tướng quân quên mất là không có binh khí, nhưng tiếng quát của ông đã làm cho Phạm Hạp thấy ngay mấy người quân Đỗ Động tay không khí giới mà lại dám thét như vậy. Trên mặt đất thấy có ba xác chết, tướng quân chẳng hiểu gì, càng thêm giận dữ. Liền giơ cao đoản đao, giục ngựa tận lực hạ đao giết người vừa thét mắng. Các người khác, là các tướng Đỗ Động, nhiều người bỏ chạy lẩn vào trong quân. Mấy người hùng chí nổi lên đứng lại, cùng với tướng Quốc Hồi Uy, loay hoay tìm khí giới của quân bị giết để chống nhau với tướng Hoa Lư.
Thương thay các tướng Đỗ Động, hùng khí của người làm tướng trong tình thế bi đát như thế này đã chẳng được việc gì, còn làm cho các ông mang họa vào thân! Tướng quân Phạm Hạp vung đao, xông vào đám các tướng Đỗ Động, mà vẫn không biết đây là các tướng. Cây đao mở một đường phạt tới, đánh giạt các tướng trở lại. Vừa lúc ấy năm sáu tướng khác của Hoa Lư cũng tràn tới, tiếp tay với Phạm Hạp chém giết. Chẳng mấy chốc Hạp đã chém chết tướng già Võ Phương Đạc. Tướng Đỗ Bá Đoàn của Siêu Loại giết chết tướng Dịch Tụy Đồng. Tướng Phạm Trường Sơn của Tây Phù Liệt múa cây giáo dài như tia chớp, đâm chết tươi tướng Quách Bạch Hạc.
Đến đây thì chẳng còn tướng nào của Đỗ Động còn dám nghĩ đến việc chống nhau với các tướng Hoa Lư. Tất cả theo quân rùng rùng bỏ chạy.
Cuộc chém giết thật khốc liệt. Cho đến khi tướng Lê Hoàn loanh quanh mãi cũng không tìm thấy tướng nào của Đỗ Động, thì bắt mấy người quân lại tra hỏi mới được biết: “Các tướng đã trút bỏ chiến phục lẫn vào trong quân bỏ trốn cả rồi”. Lập tức Lê Hoàn phát lệnh ngưng chiến. Vậy mà đến khi các tướng Hoa Lư ngưng được tay thì trấn trại Đỗ Động cũng đã ngổn ngang xác tử sĩ. Tìm chẳng thấy có tướng nào.
Lê Hoàn, chấn chỉnh hàng ngũ, cùng các tướng đem quân tới phủ đường, để lại chiến trường đầm đìa máu thịt lẫn đất cát. Các tướng Hoa Lư cho là Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc cùng một số các tướng Đỗ Động đã thừa lúc hỗn loạn thoát đi được rồi. Các tướng bảo nhau hãy vào phủ đường trấn giữ không cho Đỗ Cảnh Thạc có nơi nương náu, và để sẵn sàng đón rước Vạn Thắng Vương sắp từ phía Nam kéo đại quân lên. Sau sẽ truy tìm Đỗ Cảnh Thạc.
Thế là đại quân Hoa Lư tiến chiếm phủ đường Đỗ Động Giang, vẫn không biết là Sứ quân đã mạng vong!
Kể lại: Năm tướng Đỗ Động trách nhiệm giữ trấn doanh Bình Đẩu. Chỉ vì Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc tính sai cho là còn lâu ngày Hoa Lư mới nhòm ngó đến Đỗ Động. Cho nên gọi hết tướng ở các nơi về phủ đường hội nghị. Khi Hoa Lư bất thần thúc quân đánh Bình Đẩu thì năm tướng vội trở về. Dọc đường được tin trấn doanh đã mất thì quay trở lại trấn trại phủ đường, mong có cơ hội đền đáp ân tình của Sứ quân.
Lúc lần tìm đến được trấn trại, thì chiến trận đã đứt từ lâu, trời đã ngả về chiều, chẳng mấy chốc nữa sẽ tối. Năm tướng lần đi trong trấn trại tan hoang, xác tử sĩ ngổn ngang khắp nơi, máu tanh nhức óc. Năm tướng thấy nao nao trong dạ, cảm khái vô cùng, chẳng biết Sứ quân bây giờ lưu lạc về đâu? Không biết trong trận chiến này có tướng nào của Đỗ Động bị thiệt mạng hay không?
Tướng Phùng Ngoại Địch bàn:
- Lúc này chưa biết Sứ quân ở nơi nào, ta sẽ tìm sau. Còn bây giờ trời sắp tối ở lại đây không được, vậy nên chia nhau mỗi người một ngả tìm xem có thấy tướng nào hay có việc gì lạ không?
Thế là các tướng chia nhau mỗi người một ngả. Trấn trại phủ Đỗ Động tuy lớn, nhưng các tướng cũng biết nhiều về trại quan trọng này. Cho nên biết phải khám xét ở những nơi nào.
Đến lúc tướng Cao Cẩm Đính đi ra phía cửa Đông, ông giật mình thấy các tướng Lữ Bối Diệp chiến phục còn nguyên, cổ bị một cây dao ngắn cắm ngập. Cao Cẩm Đính vội lên tiếng gọi các tướng kia. Bốn tướng chạy lại, bây giờ mới biết ở nơi này xảy ra việc chém giết lớn, lần lần tìm ra được đủ các tướng bị giết. Nhìn các tướng thay đổi áo quần, mỗi người chết một cách, thì Phụng Trì Cung bảo:
- Này các ông, quả nhiên ta tìm ra được xác sáu tướng chết ở nơi này, nhưng không thấy Chúa công đâu cả? Hay là Chúa công thoát được rồi chăng?
Tướng Lâm Bạch Tường bảo:
- Trong số các ông bị chết ở đây, thì chỉ có hai ông Bản Phụng Đào với Lữ Bối Diệp là mặc đầy đủ chiến phục. Còn bốn ông kia thì đều cải trang làm người bình thường, chẳng ông nào có khí giới riêng của mình, thế là thế nào?
Phùng Ngoại Địch bảo:
- Ở đây cả thảy sáu ông, chỉ còn thiếu có Chúa công nữa là quẻ bói của ông Phụng Trì Cung đúng hẳn! Quẻ nói cả thảy có bảy người chết, thế thì Chúa công chắc không xong mất rồi!
Năm tướng ra sức tìm trong số các xác chết, cho là sáu tướng chết ở đây thì cũng có thể Sứ quân chẳng ở nơi nào xa cả. Đến khi tìm thấy một nơi có nhiều xác chết chồng chất lên nhau, thì tướng Lương Quế Hồ bảo:
- Chiến trận chết người, sao lại chồng chất lên nhau thế này?
Thế là các tướng khiêng xác các quân tử trận bỏ ra. Quả nhiên ở dưới cùng thấy có xác người cải trang. Lật xem mặt thì các tướng kêu lên, đây chính là Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc!
Sứ quân đã được các tướng cải trang cho, nhưng cặp mắt thế gian không có người thứ hai như vậy, thì các tướng nhận ra ngay: Cặp mắt nhỏ mà long lanh, ngủ chẳng bao giờ nhắm lại! Cặp mắt ấy lúc này vẫn long lanh sống động như lúc Sứ quân còn sống! Các tướng xúm lại xem xét, xem đến vết thương ở cổ thì đã quyết được về cái chết của Sứ quân.
Lúc ấy, trời đã chạng vạng, các tướng khóc Sứ quân, rồi bảo nhau nhặt khí giới vương vãi khắp nơi. Cùng nhau khoét đất, đem xác Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chôn xuống huyệt ấy. Lại sợ binh tướng Hoa Lư biết nơi Sứ quân an nghỉ, sau khi lấp kín huyệt thì san bằng đi. Thành thử vì thế khi thu dọn chiến trường, chôn các xác chết, binh tướng Hoa Lư không biết việc này. Làm xong việc, năm tướng gạt nước mắt chia tay nhau, lại hẹn ẩn tích. Cả năm hãy âm thầm theo dõi mọi việc, đợi khi nào kết cuộc thi tìm lại nhau ở kinh đô Cổ Loa.
Từ đấy, tung tích Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chẳng còn ai nghe biết. Người đời cho là Sứ quân đã thoát được. Sau chán nản vào ẩn tích trong rừng sâu, rồi dấu tích lặng lẽ mờ dần cùng với thời gian!
Thế là Đỗ Động từ đây cũng trở thành đất của Hoa Lư. Tướng quân Lê Hoàn dẫn đầu đám binh tướng Hoa Lư thật đông, đem quân trở lại phủ đường Đỗ Động. Các tướng dọn dẹp bỏ hẳn thủy trại. Từ đấy dòng Bạch Hạc từ chỗ này trở xuôi các thuyền bè đi lại được dễ dàng, không còn bị ngăn trở khó khăn nữa. Các tướng một mặt dọn dẹp phủ đường, xem xét nơi ở của Sứ quân. Lê Hoàn ra nghiêm lệnh: Bao nhiêu của cải tài sản của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, binh tướng Hoa Lư cấm không được xâm phạm. Mọi hành vi phạm lệnh đều có thể bị chém đầu. Về phần các tướng của Sứ quân, thì hãy đợi lệnh của Vạn Thắng Vương sau. Tuy thế trong lúc này vẫn được tự do đi lại, nhưng không được bỏ trốn, trái lệnh là phạm tội chết. Nhờ quân đồng tướng nhiều, cho nên việc sửa sang dọn dẹp chẳng mấy chốc là xong.
Binh tướng Hoa Lư vào phủ đường Đỗ Động Giang, phát lời chiêu an trăm họ. Nói rõ việc tiến binh là để bình định các nơi, đem lại an bình cho mọi người. Thế là chẳng mấy chốc bá tánh mới đầu lo sợ nạn binh đao, thì bây giờ lại vui mừng. Rủ nhau đi tìm binh tướng Hoa Lư mà chào mừng. Khi nghe tin Vạn Thắng Vương sắp tới thì bảo nhau bày hương án ra trước cửa nhà, kính cẩn chờ đón lạy Vương.
Cũng lúc ấy, Quân sư Lê Thảo cùng với tướng Mạc Sa Cảnh trên đường xuống Nam. Hai người đi được nửa đường thì tế tác đã báo tin: Đại quân của Vạn Thắng Vương đã rời trấn doanh Bình Đẩu. Việc lấy Bình Đẩu lẽ ra phải thật khó khăn, nhưng nhờ có việc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc triệu các tướng ở các nơi về phủ đường hội nghị, thành ra doanh không có tướng trông nom. Đến khi đại binh Hoa Lư tiến đánh thì quân trấn doanh vội vàng ra hàng ngay. Vì thế xương máu không bị đổ nhiều, doanh trại chẳng bị tan nát.
Tướng quân Đinh Liễn tổng quản binh phía Nam kéo đại quân từ Tây Phù Liệt lên. Vừa mở trận xong thì được tin Vạn Thắng Vương đem các tướng đến. Liễn đem các thuộc tướng ra đón Vương, trình việc quân, rồi thưa:
- Bẩm trình Vương, trước Quân sư có dặn: Sau khi lấy xong trấn doanh Bình Đẩu, thì lui ngay trở lại trấn giữ cứ doanh chặn đường từ ải Đồng Lư của Hồi Hồ. Đợi Quân sư sẽ có lệnh sau. Vì vậy nay lấy xong trấn doanh Bình Đẩu, xin lại được lui về bản trận!
Vương rất hài lòng, cho Đinh Liễn đem quân trở lại đợi lệnh sau, rồi Vương sai tướng Nguyễn Bặc mang cờ lệnh đi trước. Đào Huy Hoàng giữ lệnh đốc quân. Đại quân tiến lên Bắc có tế tác mở đường, lại luôn luôn có tế tác từ Bắc xuống trình tin. Trên đường đi, Vạn Thắng Vương liên tiếp được tin trình quân các mặt thủy bộ, ngài hài lòng lắm.
Rồi quân trình vào: “Có Quân sư cùng tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh đón ở ngang đường”. Vương vui vẻ truyền dừng quân, cho mời Quân sư vào ngay.
Quân sư vào lạy Vương, nhìn ra thấy đông đủ các tướng từng dự cuộc chinh Đông, thì thưa:
- Bẩm trình Vương, nhờ việc Sứ quân Cảnh Thạc bị lầm về việc tướng Phạm Cự Lượng mang binh sang trấn ở Cung Thương. Lại thêm tướng quân Mạc Sa Cảnh thi hành nghi kế, giữ kín các mặt không cho tế tác Đỗ Động thu thập được chút tin nào về đường quân hành của ta. Khiến cho Sứ quân tin chắc là Hoa Lư đánh Phong Châu trước cho nên mới triệu tập hết thảy các tướng về phủ đường hội nghị. Sứ quân nghĩ các tướng chỉ vắng mặt trong một thời gian ngắn sẽ không có gì nghiêm trọng xảy ra. Nhờ tế tác của ta tinh tường nên các tướng của ta đã nhân cơ hội hiếm có ấy mở trận các nơi, phá xong thủy trại, lấy xong phủ đường, phía Nam nhất định cũng lấy xong trấn doanh rồi!
Vương rất hài lòng, ngài bảo:
- Bây giờ, ta hãy nghe Quân sư kể các việc lấy thủy trại với phủ đường trước đã.
Quân sư vâng lệnh thuật lại hết, Vương hỏi ngay:
- Thế còn Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc thế nào?
- Bẩm trình Vương, Sứ quân Cảnh Thạc không có đường thoát thân, tế tác được tin Sứ quân bỏ phủ đường chạy tới trấn trại. Quân Hoa Lư ta mấy mặt đánh tới thế nào cũng lấy xong trấn trại này. Lúc tôi ra đi thì tướng quân Lê Hoàn sắp sửa đánh trấn trại.
Vạn Thắng Vương đưa binh lên Bắc, tướng quân Lê Hoàn được tin vội đem các tướng cùng ra đón vương. Trên đường vương đi dân chúng đốt đèn đốt đuốc sáng rực, khói hương nghi ngút, lại đem cả chiêng trống ra đánh ầm ầm, tung hô vương thật náo nhiệt.
Vương vào phủ đường, nghe các tướng trình mọi việc. Hỏi đến Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc các tướng đều nói vẫn không thấy Sứ quân đâu cả. Hỏi các hàng tướng Đỗ Động thì ông nào cũng bảo là có thấy Sứ quân, sau không biết Sứ quân đi đâu. Đến khi quân thu dọn trấn trại, các tướng đã cẩn thận xem xét từng tử thi vẫn không thấy có Sứ quân. Có thể là Sứ quân đã lén thoát được!
Mấy lần Quân sư muốn nói điều gì nhưng lại thôi. Cử chỉ ấy của Quân sư chẳng ai thấy, mọi người còn đang vui vẻ ồn ào hỏi han nhau về việc thắng trận. Nhưng tướng quân Mạc Sa Cảnh thì lại rất tinh tường, vả lại ông vẫn thắc mắc trong lòng, nên sau kín đáo hỏi thì Lê Thảo bảo:
- Phải! Từ lúc thấy gió cuốn quét sạch một khoảng rừng, ta suy nghĩ rồi có nghi ngờ! Sách Sử kí có nhiều chỗ nói đến những điềm báo trước một việc gì. Gió xoáy không đi xa, ta nghĩ là điềm báo Sứ quân Cảnh Thạc không đi đâu xa, gió quét sạch cát bụi cây cỏ lá rừng một vùng, ta nghĩ Sứ quân chiến tử đến mất xác hay tan xác. Nhưng các tướng xem xét từng tử thi đều không thấy có tử thi nào bị tan nát, bao nhiêu tử thi đều đã được chôn cất cả vẫn không thấy xác Sứ quân. Tế tác của ta tuyệt nhiên chẳng có chút tin gì, các nơi đều là đất của ta cũng chẳng nơi nào bảo là Sứ quân Cảnh Thạc trốn lánh đến. Như vậy, Sứ quân chẳng thể bay lên trời được, mà ta cho là: Sứ quân đã chết khi quân ta đánh vào trấn trại, nhưng các tướng của ta không nói là có giao chiến với tướng Đỗ Động. Như thế có thể điều ta suy tính đã đúng!
Mạc Sa Cảnh hỏi vội:
- Bẩm, Quân sư tính về việc gì?
Quân sư nghiêm nghị đáp:
- Ông là tướng, lại coi về tế tác, thì cũng nên hiểu rõ về nội bộ địch. Biết càng nhiều các nhân vật trong đối phương thì càng có lợi cho việc định mưu lập kế. Ta biết dưới trướng của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc có nhiều người tài, cũng có người kém, lại thêm có một kẻ gốc người ở rừng. Từ xưa y vẫn mơ ước làm vua các bộ tộc miền núi, chính Sứ quân Cảnh Thạc cũng thường cẩn thận đề phòng y. Y có tài riêng Sứ quân tiếc mà dùng. Thế thì trong lúc nguy ngập một lời nói khích của ta, có thể làm cho nội bộ của Sứ quân sinh biến. Có khi người ấy muốn nhân cơ hội chủ nguy khốn thì ra tay hành động mong cướp ngôi chăng? Bọn người chí doản, tối tăm, thường hay có những vọng động. Ta nhân đấy mới gửi tiễn thư cho Sứ quân vừa để chiêu hàng, vừa để gợi lòng tham ngu muội của người ấy làm cho tình hình rối mù. Có thể trong lúc nguy ngập, đã có biến. Nếu đúng thì Sứ quân đã bị giết, xác đã được chôn cất rồi san phẳng huyệt cho kín tung tích. Cũng như vùng đất được gió xoáy quét bằng sạch sẽ. Vì vậy ta mới không thấy Sứ quân Cảnh Thạc đâu cả!
Quân sư kể một hơi dài, bây giờ thì Mạc Sa Cảnh đã hết thắc mắc về thái độ của Quân sư lúc có điềm gió xoáy. Và mãi mãi không một ai biết việc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc.
Trong buổi hội các tướng ở phủ đường Đỗ Động, Vương bảo:
- Binh ta sang Đông thì Đông tĩnh, nay quay về Tây thì Tây bắt đầu tan. Cứ khí thế này thì chẳng mấy chốc ta bình định xong nốt mấy Sứ quân còn lại. Vậy ta có thể cho binh tướng nghỉ ngơi tránh nắng ít ngày, rồi sẽ lại tiến binh sau!
Chúng tướng nghe Vương nói thì vui mừng tung hô rầm rầm. Quân bên ngoài cũng lại hộ theo, sau có người kể rằng tiếng hô lớn đến nỗi “làm cho sóng nước Bạch Hạc gợn sóng rung rinh!”.
Việc Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc bại trận mau chóng. Làm rung động cả một vùng phía Tây Nam Cổ Loa. Các Sứ quân còn lại lo sợ họp bàn liên miên với chúng thuộc tướng, tìm kế chống cự Hoa Lư.
Ngay khi binh tướng Hoa Lư mở trận thủy chiến đốt trại trên sông của Đỗ Cảnh Thạc. Lửa cháy ngút trời gió đưa khói đem tin đến tận Hát Môn. Làm cho ở tận phủ đường của Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Hồi Hồ, mọi người cảm thấy như sức nóng lan đến tận nơi này! Sứ quân được tin các mặt thì kinh hãi vội triệu tập chúng thuộc tướng, mở đại nghị xem xét tình thế.
Tình hình xem ra nóng bỏng như vậy, nhưng mở hội bàn việc lớn Sứ quân vẫn không để mất đi phong độ trưởng giả. Ngài sai thiết trí đại sảnh phủ đường như thể là ở vương phủ, đèn treo hoa kết. Ban ngày cũng đốt ba trăm sáu mươi cây bạch lạp cho tăng phần uy nghi sang cả. Lại truyền các võ tướng dự hội phải chiến phục đầy đủ, binh khí phải cho sáng ngời. Các tướng văn phải thay đổi toàn áo mới, làm sao cho phong độ dù là đang trong lúc khẩn cấp cũng vẫn phải cho ung dung thanh lịch. Sứ quân lúc này tuy đã quen việc cai quản trăm tướng văn võ, hiểu việc đời. Thế mà ai phu nhân mẹ Sứ quân cũng thường hay đến tận hội sảnh để bàn lời chỉ bảo cho Sứ quân. Vì vậy hôm nay chắc phu nhân không thể không tới. Sứ quân cho đặt sẵn ghế riêng cho mẹ.
Lúc khai hội, vẫn chưa thấy mẹ tới, Sứ quân cũng vào chỗ ngồi. Ngài không muốn để lỡ mất giờ khắc đại hồng cát theo như lời mưu sĩ Phùng Chuyết Tỉnh nói.
Sứ quân Ngô Nhật Khánh lúc này còn đang trong tuổi thanh niên, mặt trắng, khổ mặt hơi dài. Ngài cố nuôi bộ râu cho ra dáng vẻ bậc thần lão đế quân. Vì vậy râu của ngài chỉ lưa thưa, nhìn kỹ vẫn không thấy ngài có vẻ gì là già cả. Hầu sau ghế ngài, là bốn thị nữ mặt hoa da phấn cầm quạt, bưng khay nước đứng hầu.
Vào hội, nhìn các tướng một lượt, Sứ quân nói:
- Này các ông, ta chẳng nói thì các ông cũng đã biết! Hoa Lư xuất chính liên miên từ đầu năm đến nay, tung hoành gồm thâu trọn vùng phía Đông, phá sạch giang sơn của các Sứ quân ở đấy. Nay quay binh sang phía Tây, ai cũng tưởng là Hoa Lư dàn quân ở Cung Thương thì thế nào cũng đánh Phong Châu trước. Thế mà hóa ra lại bất thần hỏa thiêu thủy trại của Đỗ Động, phá tan trấn doanh Bình Đẩu. Binh như từ trời cao ập xuống chớp mắt là lấy xong trấn trại phủ đường Đỗ Động. Như thế, hỏi rằng Hoa Lư có ngưng lại ở Đỗ Động hay còn tiến thêm nữa? Ta nghĩ: Hoa Lư Động chúa Đinh Bộ Lĩnh có mất trí, dở hơi dở người mới thôi không theo đuổi chiến trận nữa! Nay, y tự xưng là Vạn Thắng Vương, đã nói rõ thâm ý thèm muốn ngai vàng, muốn làm vương đất này. Thế thì, sau Đỗ Động Đinh Bộ Lĩnh sẽ đi đâu? Y dánh Hồi Hồ, đánh Tam Đái, nhắm mắt bỏ mặc ta chăng? Đinh Bộ Lĩnh không mất trí,y tính toán đường đi rành rành như đường đi của mặt trời trăng sao chuyển vần mỗi ngày. Hành động chẳng chỗ nào lại bảo được là tình cờ không xếp đặt trước. Vậy, sau Đỗ Động Giang, y sẽ nhìn vào Hồi Hồ của ta! Các ông bàn việc như thế nào?
Sứ quân mở đầu đại hội quả quyết là sau Đỗ Động, Hoa Lư sẽ tiến đánh Hồi Hồ. Ngài hỏi chúng thuộc hạ văn võ các tướng. Mưu sĩ Phùng Chuyết Tỉnh lên tiếng ngay:
- Bẩm Chúa công, Hồi Hồ ta vốn là linh địa, tiên vương Ngô Quyền là người xuất tích ở đây. Nay Chúa công nối nghiệp tổ tiên giữa thời loạn giữ Hồi Hồ bao lâu nay, mấy lần bên ngoài chực nhòm ngó đều đại bại. Trên dòng nước bạc Bạch Hạc ta có trấn thành Đan Phượng với lão tướng thần tiên Mộc Đường. Phía Nam có rặng Đồng Lư với bậc thánh võ Mạc Cương Hồng ngày trước đã hiển lộng thần oai mở trận đá chiến tử Địch Hồng Hà, hủy Bạch Khai Thành. Cho đến nay binh nào muốn nhòm ngó giang sơn ta cũng đều tưởng như còn nghe thấy tiếng đá núi trút xuống, tiếng sóng dồn trên sông nước! Thế thì, Hoa Lư với Động chúa Đinh Bộ Lĩnh xuất thân từ đứa chăn trâu, may được thời gặp được đám thuộc hạ quen nghề đao búa chém giết mà bắt nạt được thiên hạ. Tưởng rằng ở đâu đao búa cũng là tinh hoa. Phen này y mà dám tới Hồi Hồ thì cũng là nơi y được biết thế nào là thần trí các hào kiệt của giang sơn ta! Chúa công không nên lo lắng!
Phùng Chuyết Tỉnh vốn chẳng có tài, nhưng giỏi dựa hơi đón gió nịnh bợ, mê hoặc thiên hạ bằng những việc cúng tế bùa chú linh thiêng. Lại biết lựa đúng lúc đưa ra những biện thuyết thiêng liêng, giảng sai cả Phật pháp để lấy lòng mẹ Sứ quân. Cho nên rất được bà tin cẩn kính trọng. Lâu nay thiên hạ chẳng có việc lớn, ông ta ngồi rồi hay xúi Sứ quân hết xây đền lại dựng miếu lập chùa. Làm cho tổn hao của cải của trăm họ. Bây giờ nghe nói đến việc lớn thì lại quen như lúc rảnh rỗi nhàn hạ, dựa hơi nói nịnh Sứ quân như thế!
Những lời nói của Phùng Chuyết Tỉnh làm cho đại tướng Bùi Nhật Hướng giữ chức Tổng quản binh mã bộ phủ đường Hồi Hồ bực mình. Bùi Nhật Hướng là tướng tài, suy luận việc theo thực tế, ra sức bồi đắp cho Sứ quân, cho nên rất được mọi người kính nể. Họ Bùi theo dõi việc thiên hạ chuyển động lớn từ cuối năm trước cho đến lúc này. Nhiều lần lo lắng bàn riêng với các tướng, chưa có cơ hội để trình lên Sứ quân. Nay, trong hội nghe Sứ quân nói rồi Phùng Chuyết Tỉnh trả lời, thì ông liền lên tiếng:
- Bẩm trình Chúa công, ngài đã sáng suốt thấy được mưu đồ đại cuộc của Hoa Lư. Đây là hồng phúc của đất Hồi Hồ ta! Hoa Lư tung hoành trong thiên hạ, các nơi lo lắng. Chúa công hiểu lẽ tiến lui, cho nên mới có buổi hội hôm nay, tất không thể không nghĩ đến việc đem binh cự chiến chống Hoa Lư. Thế thì, bàn việc hệ trọng không nên xem thường địch, phải hiểu rõ người, biết rõ ta. Không thể tự dối mình, mà cho là sẽ dối được cả người! Bẩm, phàm tính đến việc lớn, bao giờ cũng có ba. Một, cự chiến đánh thắng địch; hai, cự chiến rồi bại vong như các Sứ quân khác mà ta đã thấy; ba, dàn xếp cầu hòa với địch. Ba đường ấy, Chúa công nhận thấy mỗi điều như thế nào?
Lần đầu tiên trong đời Bùi Nhật Hướng lại có những nghị bàn lạ như vậy. Nhưng những lời nói ấy lúc này lại thật chính đáng, cả nghị sảnh im lặng. Phùng Chuyết Tỉnh lại lên tiếng:
- Bẩm Chúa công, ông Bùi nói như vậy cũng có điều đúng là ở chỗ: Giặc tới thì binh tướng ra trận đuổi giặc, nhưng ông Bùi lại quên mất đất Hồi Hồ ta là đất Ngô Vương ra đời, linh khí ngút trời, giặc ngoài tới là phải tan. Việc ấy lúc trước đã tỏ, sao lúc này lại quên, đã không quên thì còn có gì phải lo nữa. Thuộc hạ quả quyết: Hoa Lư xâm phạm Hồi Hồ, thì lần này cũng lại là một lần nữa đất Hồi Hồ thêm một sử tích lẫm liệt để lại cho mai sau. Hoa Lư đến đây thì sẽ phải tan!
Sứ quân chưa kịp lên tiếng, thì Bùi Nhật Hướng liền nói ngay:
- Hoa Lư đến thì phải tan, đấy là điều ta mong ước! Đạo trưởng ra phép màu như thế nào để binh tướng Hoa Lư từng thu phục được một Sứ quân, chiến tử năm Sứ quân, đi là thắng, dừng chân là như con cọp thu mình sắp sửa vọt tới. Giang sơn rộng khắp, chân bước đến cửa ngõ đế kinh Cổ Loa mà chưa vội bước vào. Binh tướng ấy đạo trưởng sẽ lập đàn kêu gọi thần linh nào để tru diệt họ được!
Phùng Chuyết Tỉnh tái mặt giận dữ, giọng run run đáp:
- Như thế là ông đem cường địch ra làm cho binh tướng của ta sợ hãi, giặc chưa tới mà lòng người đã muốn hàng phục rồi, làm sao đương cự lại được giặc! Ông quên mất là ở Đồng Lư cửa ngõ phía Đông vào giang sơn ta có tướng họ Mạc trấn giữ, ở Đan Phượng trấn thành vạn năng của ta cũng lại có lão tướng Mộc Đường coi hai quân mã bộ chẳng binh nào vượt qua được hay sao! Ngày trước, Tây Phù Liệt, Đỗ Động, có lần dại dột muốn qua hai cửa ải ấy của ta, đều đã thảm bại. Những trận đánh danh còn để lại nghìn năm sau, ông quên rồi chăng?
Bùi Nhật Hướng đáp ngay:
- Đồng Lư với Đan Phượng là hai trấn ải vững vàng, nhưng có bao giờ đại cuộc lại chỉ cứ khư khư với thắng lợi một thời để bảo rằng đây là chân lý ngàn đời được không? Hai vị trí, không phải là một giang sơn, nó chỉ là hai nơi bé nhỏ của một giang sơn lớn lao. Đạo trưởng còn quên là tướng của ta tài giỏi, thế thiên hạ không có người tài hay sao? Đạo trưởng có biết trong quân của Hoa Lư có tay Quân sư tài trùm trời đất, y từng gọi mây cưỡi mà vượt Xích Đằng, gọi Hồng Hài Nhi đem hỏa luân xa đốt đuổi binh Triều, lập đài sai Long Vương dội nước dập lửa bên sông, mượn chính rồng lửa của Thái Thượng Lão Quân đốt thành Ngọc Lũ. Mới đây lại mượn vân hỏa của Hỏa Đức Tinh Quân đốt thành than Sứ quân Lữ Đường. Mượn bầy hạc xanh của Tây Vương Mẫu chở quân vượt vách núi đến tận phủ đường Siêu Loại. Con người ấy đi lại được cả với thần tiên ma quỷ, ta phải biết để mà đối phó chứ không phải là biết để mà sợ như đạo trưởng nói! Đạo trưởng nếu tài vượt được tay Quân sư ấy, thì bọn võ tướng chúng tôi nợ ơn lớn của ngài khỏi phải vất vả nơi chiến trường đấy!
Những lời nói của Bùi Nhật Hướng làm cho Phùng Chuyết Tỉnh càng thêm tái mặt. Cặp môi thâm run lẩy bẩy chẳng thốt ra lời được nữa.
Phùng Chuyết Tỉnh không đáp được lời của Bùi Nhật Hướng, thì đã nghe có tiếng cười nhạt, tiếng cười nghe lạnh như băng. Sứ quân rùng mình, ngài hỏi:
- Trường Kì cười gì thế?
Người vừa cười nhạt, tiếng cười lạnh như băng chính là Cao Xuân Minh Phúc hiệu là Trường Kì, mưu sĩ, bạn thân của tướng quân Bùi Nhật Hướng. Nghe Sứ quân hỏi, Trường kì cất giọng khoan thai, trong, cũng lạnh như băng tuyết mà rằng:
- Bẩm Chúa công, những lời tướng quân Bùi Nhật Hướng nói quả thật chẳng sai. Duy có điều người tài trong quân của Hoa Lư thì thuộc hạ không tin là ông ta có tài đi lại được với cả thần tiên ma quỷ. Tôi nghĩ chẳng qua ông ta có những kỳ tài, thông minh quán thế nghĩ ra được những điều người thường chẳng nghĩ ra. Thế là cả thiên hạ sợ mà cho ông ta là người nhà trời đấy thôi! Nay, tướng quân Bùi Nhật Hướng được Chúa công tin cẩn trao cho giữ việc quân bị, thì ông nên trình bày để Chúa công rõ về mọi việc quân bị là hơn cả!
Trường Kì trước sau vẫn không ỷ việc con gái của ông là Cao Xuân Ngọc Lệ được Sứ quân sủng ái để lộng hành. Ông chỉ một lòng nghĩ đến vun đắp cho Sứ quân nhưng lại không quên lời thuật sĩ năm xưa luận về việc ông tắm suối lạnh trong núi An Định, ông vẫn thận trọng gìn giữ. Nay trong hội nghe đạo sĩ với tướng họ Bùi đấu khẩu thì lên tiếng bênh vực họ Bùi. Ông vốn không ưa đạo sĩ hay nịnh bợ xúi Sứ quân nhiều điều sai lạc.
Sứ quân nghe Trường Kì nói như vậy, chưa kịp lên tiếng đã có quân trình vào:
- Bẩm trình Chúa công, có lão phu nhân tới!
Sứ quân vội đứng lên, cùng các tướng ra cửa sảnh đón mẹ. Chưa biết mẹ Sứ quân đến hội có việc gì. Xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—