← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Mười Sáu Giết nhiều người, quân sư lâm bệnh
Phao tin đồn, Lê Thảo dựng mưu

Tin trình: “Sau khi được tin các tướng lấy xong Hồi Hồ. Thủy quân của tướng Nghi Bá Tường rời doanh ngược dòng Bạch Hạc đi lên, mang theo binh đã đổ bộ Tam Sơn. Thủy quân còn đang lên nữa để cho quân lên bộ, đối diện rặng Mộng Thất Sơn”. Vương nghe trình thì hài lòng lắm. Truyền cho tướng Đỗ Mậu Đại cho quân lên đường ngay.

Quân sư đi ở trung quân, trong lòng trĩu nặng ưu tư, ngài nghĩ nhiều đến việc chém giết ở Hồi Hồ. Tin của tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh trình lên Quân sư hết sức rõ ràng, tính đến từng người bị chết, từng nhà bị phá. Lại kể rõ những thiệt hại vì cuộc chiến ra sao, đến mức độ nào. Còn tin trình lên Vương theo như lời dặn của Quân sư, bao giờ cũng nói nhẹ bớt đi những việc chém giết, nói nhiều hơn về những cảnh an bình. Thành thử tin dù trình Vương có giảm bớt thế mà Vương cũng còn phải xúc động, nếu như ngài biết thật sự thì thế nào?

Quân chuyển động. Quân sư bảo tướng Mạc Sa Cảnh cho tế tác gấp đường vào Hồi Hồ. Lệnh cho các tướng phải mau mau dọn dẹp cho hết cảnh chém giết tàn phá. Phải làm sao để có được quang cảnh thanh bình yên vui.

Tin lệnh đưa đến, các tướng Hoa Lư nhìn lại cuộc chém giết lúc ấy mới giật mình. Chưa ở đâu cảnh chém giết lại dữ dội như ở đây. Toàn gia Sứ quân, kể tất cả người xa người gần, nghe các tướng còn sống sót trình là đông ước khoảng bốn trăm người. Thế mà nay chẳng tìm ra được lấy một người sống sót, làm sao thưa trình với Vương được đây! Thuộc hạ của Sứ quân đông gần một trăm người, nay cũng chỉ còn được hơn ba chục người. Chẳng người nào thân thể còn được nguyên vẹn, nhẹ thì vài vết đâm chém, nặng thì mất tay mất chân, hấp hối! Ngay đến xác Sứ quân tìm cũng chẳng thấy, binh Hồi Hồ chết quá nhiều. Khi các tướng vâng lệnh mau mau thu dọn thì bao nhiêu tử sĩ đem đi chôn liền. Trong đó lẫn cả xác Sứ quân Kiều Thuận mà không biết. Binh tướng ra sức dọn dẹp cho hết những dấu vết chiến tranh tàn phá, nhưng cũng không làm sao hết nổi!

Khi Vương cùng các tướng đến, thấy quang cảnh ngài giật mình. Mới đầu Vương cũng chỉ nghĩ là chiến tranh tất không tránh được những thiệt hại. Đến khi tận mắt nhìn cảnh tàn phá ở Hồi Hồ thì Vương kinh hãi. Vội triệu tập ngay các tướng, ngài lên tiếng phủ dụ:

- Cứ xem những đổ nát ở Hồi Hồ, cũng đủ thấy binh tướng của ta vất vả đến thế nào? Tuy nhiên, việc chém giết với tan nát ở đây lại lớn quá, đấy cũng là lỗi người cầm quân chưa khéo việc chiến trận! Ta luôn luôn nhắc các tướng là vào trận cố tránh chém giết được càng nhiều càng hay. Thế mà nay cả gia đình xa gần Sứ quân chẳng còn một người, tướng Hồi Hồ thiệt hại đến mấy chục người, thì đây phải kể là một tai họa! Dù rằng Hồi Hồ sa đọa, từ Sứ quân xuống đến các tướng các quan đều thi nhau hành hạ trăm dân, nhưng cũng còn có những cách xử trị khác, chứ sao lại chém giết đến như thế này! Ta mang binh tướng đi lấy lại giang sơn cho nòi giống, đành phải nhận những việc chém giết, chém giết đến mức độ này thì cũng là có lỗi. Ta tổn thọ mất bao nhiêu năm!

Rồi Vương ban lệnh: Cứu giúp cho dân chúng, ai không có nhà thì cho nhà, ai không có ăn thì mở kho lương cấp phát. Những người cô quả đều được chu cấp thật đầy đủ. Lại truyền tìm xem có thấy dấu vết gì của Sứ quân không? Tìm không thấy thì liền sai lập miếu ở ngay chân núi Mộng Thất để làm nơi khói hương cho vợ chồng Sứ quân Kiều Thuận!

Vương phát lạc mệnh lệnh xong, trở về đại doanh nghỉ ngơi, trong lòng nặng trĩu nỗi buồn. Ngài sai mời Quân sư đến hỏi việc.

Quân sư Lê Thảo từ khi còn ở Hồi Hồ liên miên được tin trình về việc Hồi Hồ. Cho đến lúc tận mắt nhìn quang cảnh thì Quân sư bỗng thấy choáng váng, đầu óc như mông lung bất định. Nhìn cảnh phủ đường với những lời trình như còn đang rõ ràng ở trong tai. Ngài cảm thấy trong người ngây ngất có gì khác lạ, liền lui lại tư doanh nghỉ ngơi. Từ đấy Quân sư thiếp đi mệt mỏi, bao nhiêu việc ở phủ đường dường như không biết nữa. Tướng quân tế sứ mấy lần đến xin gặp quân canh đều nói rằng: Quân sư mệt, đang nghỉ ngơi, ngài có dặn là không tiếp ai!

Bây giờ là lúc trời đã tối, lệnh Vương truyền triệu Quân sư, quân phải trình vào. Lê Thảo trong trời chiều chạng vạng đang còn hoang mang trong người cảm thấy như đang đau ốm nặng. Tay chân mỏi như vừa đi xong cả trăm dặm đường, khuân vác xong cả ngàn khối đá lớn. Ngài chẳng muốn đứng lên, cứ ngồi thừ nghĩ ngợi đủ thứ thì quân trình lệnh của Vương.

Lê Thảo cố gượng, sửa soạn khăn áo cho chỉnh tề, toan lên ngựa ra đi, nhưng chỉ mới đạp lên chân đang, đã thấy mắt hoa tay nhũn suýt ngã xuống. Quân kinh hoàng vội đỡ lại rồi đưa trở vào nghỉ ngơi đã. Lúc ấy, thời gian là lúc dương qua âm lại chẳng có gió thổi, chẳng có mưa, trời đất thật im lặng. Vậy mà mái hiên trước thư phòng Quân sư mối chẳng ăn tự dưng đổ ập xuống, khiến Quân sư đang thiêm thiếp như sắp ngủ cũng phải giật mình. Hỏi biết việc thì Quân sư lặng lẽ rầu rĩ.

Nằm nghỉ hồi lâu, Lê Thảo đã hơi tỉnh lại, nhưng vẫn còn thở dốc có vẻ mệt mỏi lắm. Quân phải đóng xe để đưa Quân sư đi.

Ngày ấy là vào cuối tháng Sáu. Quân sư suốt bao nhiêu năm vất vả, hao tâm tổn trí quá nhiều vào những việc tính toán dàn xếp, sức khỏe có phần suy giảm. Đến khi việc Hồi Hồ chỉ tính sai đôi chút, những tưởng là chẳng đến nỗi nào. Ai ngờ dù đã cử đến tướng điềm tĩnh nhất là Nguyễn Bặc đi, thế mà thảm họa chém giết vẫn quá ư ghê gớm. Quân sư chọn tướng quên mất rằng Nguyễn Bặc thẳng tính, hết sức trung trực. Tất không thể chịu được những cảnh như gai đâm vào mắt, như dùi nung đỏ ấn vào da thịt. Lại thêm các tướng khác ông nào cũng dữ dội cả, thế là tan nát hết! Bao nhiêu sự việc từ trước đến giờ, máu đổ xương tan biết bao nhiêu, bây giờ như dồn cả lại ám ảnh Lê Thảo. Quân sư ngã bệnh suy mòn sức khỏe, bao kiệt nguyên khí là vì thế!

Xe đến đại doanh, quân phải đỡ để Quân sư bước đi. Vừa thấy thế, Vạn Thắng Vương như ngồi phải hòn than hồng. Ngài bật ngay dậy kêu lớn:

- Quân sư! Quân sư làm sao thế?

Rồi chẳng đợi cho Lê Thảo kịp trả lời, Vạn Thắng Vương với tay cầm chiếc đùi thiết mộc đập vào khánh đồng một tiếng khẽ. Tướng hầu cận là Bồi Thành Đức, tướng cũ của Tế Giang, liền xuất hiện. Vương bảo:

- Mau đi mời Thần Y!

Bồi Thành Đức là người nhân nghĩa từ tín vẹn toàn, rất được Vương tin trong giữ làm cận tướng. Khi nhìn thấy Quân sư lại được nghe lệnh Vương, thì Bồi Thành Đức miệng nói nhanh:

- Tuân lệnh!

Nhưng Đức lại chạy vội lại đỡ Quân sư ngồi xuống ghế. Bàn tay phải Đức cong ngón trở như cái mốc gõ mạnh vào hai huyệt Hoa Cái, Thiên Đột của Nhâm Mạch, ngón trỏ bàn tay trái điểm thật mạnh vào hai huyệt Nội Quan, Lao Cung của đường Kinh Thủ Quyết Âm Tâm Bào. Vạn Thắng Vương kinh ngạc nhìn hành động của Bồi Thành Đức, ngài hiểu là Đức đang dùng đến thủ thuật đả huyệt để cứu bệnh cho Quân sư. Vương chưa bao giờ lại biết là Bồi Thành Đức biết phép đả huyệt như vậy, ngài lẳng lặng đứng xem trong lòng bối rối lắm.

Tiếng cồng lệnh của Vương tuy gõ không mạnh nhưng cũng đủ để nhiều người nghe thấy, lại thêm mấy người quân hầu của Quân sư kể ra. Chẳng mấy chốc tin về Quân sư lâm trọng bệnh lan đi khắp nơi, các tướng vội bảo nhau kéo đến. Vương thấy thế phải ra lệnh cấm không được náo động, ai để cho bên ngoài biết Quân sư bị đau ốm là nhận án tử hình. Nghiêm lệnh ban ra, các tướng chộn rộn thế mà vẫn giữ được quân doanh im lặng, bên ngoài tuyệt nhiên chẳng hay biết.

Lúc ấy, Bồi Thành Đức đã huyệt mạch cho Quân sư một hồi, rồi thưa với Vương:

- Bẩm trình Vương, Quân sư lao tâm thành ra khí huyết suy kiệt, kinh mạch chẳng được điều hòa. Tôi đã giúp kinh mạch tạm ổn, không cho tim bị suy tổn, nhưng sức tôi chỉ có thể đến thế được mà thôi. Bây giờ tôi xin đi mời Thần Y ngay!

Vương gật đầu, bảo các tướng mau mau nhẹ tay dọn thư đường của ngài, đặt giường gỗ tòng bá mộc, lại trải nệm lông chim linh linh để Quân sư nghỉ. Quân sư từ lúc được tướng Bồi Thành Đức tạm đả huyệt an kinh thì bây giờ đã thở được dễ dàng. Ngực còn nặng mắt còn hoa hoa, cố giữ giọng nhưng vẫn run run nói:

- Trình Vương, tôi đã mạnh!

- Ngài cứ nghỉ! Không cần nói gì cả!

Rồi Vương đi ra ngoài, gọi theo các tướng, vương bảo:

- Theo ông Bồi Thành Đức nói, thì Quân sư lao tâm, kinh mạch suy kiệt thế nào đấy. Vậy không được trình cho Quân sư nghe về một tin gì không lợi, đợi đến lúc Quân sư khỏe hẳn đã!

Các tướng vâng lệnh, ông nào cũng tỏ ra lo lắng lắm, thì thầm bàn với nhau. Cuối cùng đi gặp tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh. Cảnh nghe tin thì kinh hãi, bảo:

- Chết nỗi! Binh ta đã ngược dòng Bạch Hạc lên Hát Môn, rồi lại kéo lên nữa để vào giang sơn Tam Đái phía bờ Bắc sông Bạch Hạc. Bây giờ Quân sư lâm bệnh thì thế nào?!

Các tướng vội vào gặp Vương, trình Vương rõ việc, Vương bảo:

- Binh ta lên Tam Sơn hay bờ Bắc Bạch Hạc, là chiến kế gấp rút của Quân sư. Nay ông ấy lâm bệnh thì một là ta cứ tiếp tục kế ấy, hai là tạm hoãn. Các ông thấy thế nào?

Tướng quân Lê Hoàn đáp trước:

- Bẩm trình Vương, việc ta tiến quân tôi thấy vẫn có thể bình thường được. Lấy Tam Đái ngay thì có lợi là đánh địch lúc bất ngờ, vậy xin cứ tiến binh!

Vương bảo:

- Phải, ta cũng muốn tiến quân ngay, lấy Tam Đái chẳng có gì là khó khăn, lúc này ta còn đạo quân của ông Phạm Cự Lượng đóng ở Công Thương ngăn cách Tam Đái với Phong Châu. Đạo quân ấy ta đưa thêm quân lên hợp sức đánh mặt phía Bắc Tam Đái, mặt Nam ta cứ theo chiến kế đã định trước mà hành động.

Các tướng vâng lệnh chưa kịp quay đi. Thần y đã cùng với tường Bồi Thành Đức đến.

Thần y lắng thần xem mạch cho Quân sư, rồi ngửng đầu nói:

- Quân sư hao kiệt nguyên khí, độc khí lại tràn cả vào Nhâm Mạch, đang muốn tung hoành chế ngự các Kinh. Có người nào đã đóng các kinh mạch ấy lại rồi, nhưng việc đóng ấy chẳng được bền, chỉ trong một giờ hai khắc là lại bị mở toang ra, lúc ấy bệnh phát tác mạnh có thể làm cho điên loạn mất trí.

Vương sốt ruột hỏi:

- Ngài chữa bao nhiêu lâu thì Quân sư dứt hẳn?

Thần y mở cặp mắt sáng như sao nhìn Vạn Thắng Vương, bảo:

- Bình thường, người bị suy kiệt đến thế này, lâu thì mười ngày nửa tháng, nhanh thì hai ba ngày là thần khí tắt hẳn, không cứu được. Quân sư cũng phải nghỉ khoảng nửa tuần trăng thì nguyên khí mới phục hồi được trọn vẹn. Bây giờ thuốc thì có, làm sao kiếm được “Hỏa Lựu Ngọc” nữa để thôi thúc cho âm dương thần khí mau trở lại điều hòa thì mới tốt. Còn không thì phải bảy bảy bốn chín ngày kinh mạch mới hoàn toàn chính chuyển, thần khí mới vẹn toàn.

Vương hỏi:

- Như ngài nghĩ, thì ngọc Hỏa Lựu tìm ở đâu thì có?

- Bẩm, ngọc Hỏa Lựu có đầy rẫy khắp nơi, nhưng có khác gì như các loại rau bình thường ta ăn mỗi ngày. Còn kiếm được thứ rau gọi là “Tiên Tuyền Thảo” lá dài như sợi dây, trắng như hoa bưởi, nằm ở dưới đáy suối trong hấp thụ lãnh khí của núi rừng trời đất, thì mới là khó! Ngọc Hỏa Lựu làm thuốc cũng vậy, phải là thứ ngọc lớn như mặt trăng tròn in hình dưới nước, đem gọt giũa thành đồ dùng cho nữ nhân nhan sắc, có óc thông minh linh tuệ, để hấp thụ khí âm hợp với khí âm của suối tiên. Có thế khi luyện thuốc thì thuốc mới có âm khí đủ mạnh để kết hợp với cương dương khí Nhật Hỏa của vị thuốc, làm thành thần dược âm dương toàn hợp. Cứu bệnh chỉ trong hai ba ngày là xong, rồi sau đấy người bệnh dưỡng thần thêm mươi ngày nữa thì bệnh đã hết mà tuổi thọ còn có thể tăng mươi năm nữa!

Vương và các tướng lặng lẽ nghe Thần y giảng bệnh giảng thuốc, nghe xong Vương bảo:

- Ừ thì ngọc Hỏa Lựu ấy, Thần y hay các tướng có ai nghĩ tìm ở đâu được không?

Chẳng ai biết, nhưng Thần y bảo:

- Tôi hãy cứ luyện thuốc, phần ngọc ấy hãy để tìm sau, nếu thiếu nó thì các vị thuốc của ta cũng hiệu nghiệm nhưng nhanh thì phải một tháng, chậm thì phải trăm ngày mới được!

Rồi Thần y cho Quân sư uống ba viên “Thanh Đan Hồi Nguyên”. Ba viên thuốc chỉ lớn bằng ba hột đậu xanh nhỏ. Quân sư uống vào cảm thấy tinh thần sảng khoái, tỉnh táo toan ngồi lên. Thần y vội cản lại, ông bảo:

- Chớ! Thanh đan chỉ tạm trợ kinh mạch chứ không chữa được bệnh. Ngài không được cử động nhiều khiến kinh mạch lại hỗn loạn, đợi ta luyện thuốc!

Rồi Thần y lui gót. Vương bảo các tướng lui ra hết. Quân sư nằm trong thư doanh của Vương, bốn bề im lặng rõ ra là nơi dưỡng bệnh. Bây giờ đầu óc đã tỉnh, lại nghĩ đến mọi việc, không biết lúc này mọi việc ra sao. Nếu cứ nằm ở đây thì làm sao biết được. Suy nghĩ mãi rồi ngồi dậy gọi quân canh bên ngoài vào bảo đi trình Vương. Vương vội đến ngay, ngài quả:

- Thần y đã nói là ngài phải nằm im tĩnh dưỡng đợi thuốc, sao lại ngồi lên như thế!

Quân sư nhỏ nhẹ thưa:

- Bẩm trình Vương, lúc này tôi thấy trong người khỏe mạnh, cảm tạ Vương lo lắng lại cho tôi nghỉ ở đây. Việc làm của Vương là việc làm của người quân tử, nhưng tôi e vì thế mà Vương mang tiếng là thiên vị. Vậy, tôi xin phép để trở về nhà riêng nghỉ ngơi.

Vương bảo:

- Ngài nói không phải, tay là để cầm để mang, chân là để đi để chạy. Sao lại lẫn lộn tay chân như thế, ai dị nghị ta?

Quân sư lại nói:

- Bẩm, tôi nghỉ ở nhà riêng được thoải mái hơn. Xin Vương hiểu cho mà ban lệnh cho tôi được trở về nhà!

Vương thuận cho, sai tướng quân Đinh Liễn thay Vương đưa Quân sư về nhà, lại trông nom cho mọi việc xếp đặt vừa ý muốn của Quân sư mới trở lại doanh. Vương cắt phiên mỗi lần ba tướng đến túc trực tại nơi ở riêng của Quân sư để trông nom. Một ngày thay phiên ba lần, lại dặn: “Phải để tâm xem Thần y thuốc men cho Quân sư ra sao, luôn luôn trình để Vương biết”.

Việc Quân sư bất thần đau yếu, chỉ một sớm một chiều ai cũng biết. Lại bàn nhau tìm đâu ra ngọc Hỏa Lựu như lời Thần y nói để luyện thuốc. Có tướng bảo: Cho người rao truyền, chẳng lẽ cả cõi Giao Châu lại không có ai có ngọc Hỏa Lựu hay sao? Bàn thì bàn, nhưng chẳng ai dám đem việc ấy đi rao truyền. Vương có dặn là không được để bên ngoài biết việc Quân sư đau ốm, thành ra suốt ngày hôm sau các tướng cứ bàn nhau. Lâu lâu lại vào trình Vương ý kiến thế này, ý kiến thế nọ. Chung cuộc vẫn chẳng có cách gì ổn thỏa.

Giữa trưa hôm sau. Ngô Nhật Khánh được tin, vội đến thăm. Cầm tay Quân sư ân cần thăm hỏi, rồi nói:

- Tôi đã sai tìm xem trong đám tài sản của nhà xem có ngọc Hỏa Lựu không. Ngọc thì có nhưng thứ Thần y đòi thì lại không, thành ra có cũng như không! Mẹ tôi nghe nói cũng lo lắng lắm, bảo là: Ngọc Hỏa Lựu thì không có, thành ra chẳng biết làm cách nào để giúp được. Tôi có lệnh cho gia nhân thật kín đáo đi khắp nơi tìm xem. Nếu có thì phải lấy về, không biết có được hay không?

Quân sư cảm tạ lòng tốt của hai mẹ con Ngô Nhật Khánh bao nhiêu, trong lòng lại thấy buồn phiền về việc đau ốm của mình bấy nhiêu! Bao nhiêu năm đi lại trong thiên hạ chẳng thấy có bệnh tật đau ốm gì, nay đang lúc cấp thiết, tình hình đòi phải hết sức mau lẹ thì lại tự nhiên mang bạo bệnh. Khiến cho biết bao nhiêu người vất vả. Càng suy nghĩ thì lại càng làm cho tinh thần mệt mỏi, ba viên Thanh Đan của Thần y xem ra cũng không đẩy lui được buồn phiền của Quân sư. Không biết chừng lại phải uống thêm nữa cũng nên!

Đến chiều tối hôm ấy, Quân sư được trình vào: “Có vợ chồng ông Phạm Phòng Át đến thăm”. Quân sư gượng dậy ra nhà ngoại tiếp khách.

Phạm Phòng Át từ ngày bỏ Đằng Châu theo về Hoa Lư. Lấy cớ là chẳng giỏi việc chinh chiến, cho nên lui lại phía sau giúp đỡ Vạn Thắng Vương xếp đặt các việc trị an. Thành thử vì thế ít khi gặp Quân sư. Nay nghe Quân sư bất thần lâm trọng bệnh, hai vợ chồng dù đang ở xa cũng vội đến ngay.

Hồi Chúc Tiên nương dường như năm tháng không làm cho nhan sắc của bà suy giảm. Ngược lại cuộc sống bình thản chẳng phải quán xuyến lo lắng mọi việc cho nên bà như tươi trẻ thêm ra. Cặp mắt vẫn thật tình tứ nhìn Quân sư, bà bảo:

- Hào kiệt trong trời đất, vào ra chỗ chết người vẫn ung dung như đi xem hội. Hóa ra vẫn phải thua “ông thần bệnh”!

Quân sư gượng cười, Phạm Phòng Át hỏi thăm bệnh tình của Quân sư, lại hỏi việc Thần y chữa chạy thế nào. Lê Thảo cứ thật tình kể ra hết, rồi bảo:

- Thần y chữa bệnh, thuốc hay nằm trong cây cỏ, lại bày đặt đòi phải có ngọc Hỏa Lựu từng được mỹ nhân sử dụng để hấp thụ được âm khí, điều hòa âm dương thuần khí mau chóng phục hồi nguyên khí. Làm cho bao nhiêu người cất công đi tìm ngọc mà chẳng làm sao tìm ra được ngọc như thế!

Nghe đến đây, Hồi Chúc tiễn nương giật mình, bảo:

- Thế ngọc Hỏa Lựu ngày xưa Quân sư để đâu rồi?

Ngọc Hỏa Lựu nào? Quân sư ngạc nhiên nhìn Hồi Chúc như để hỏi, Hồi Chúc bảo:

- Ngày Quân sư gọi mây xuống cưỡi, vượt Xích Đằng sang Đằng Châu kể chuyện lạ, lập đàn gọi mưa, ra về tôi có tặng ngọc Hỏa Lựu vẫn thường đeo. Chắc Quân sư chẳng màng đến cho nên đem vất đi rồi!

Phải, Hồi Chúc có tặng Lê Thảo ngọc Hỏa Lựu bà thường đeo ở cổ. Ngày ấy lúc Quân sư vừa lên đường mang binh mượn của Đằng Châu về để dàn trận đuổi binh triều của Nam Tấn Vương. Từ ngày nhận ngọc, Quân sư vẫn cứ đinh ninh là của Sứ quân Phạm Phòng Át tặng. Vả lại việc nước việc binh bận rộn liên miên, khiến cho Lê Thảo quên hẳn viên ngọc ấy. Bây giờ nghe Hồi Chức Tiên nương nói mới chợt nhớ ra. Lê Thảo hỏi vội:

- Thưa, ngọc ấy là của Tiên nương ban cho tôi?

- Phải, ngọc Hỏa Lựu là vật báu chồng tôi lúc ấy là Sứ quân ban cho lúc tôi mới về với ngài. Tôi còn nhớ kĩ là ngọc ấy tôi đeo nơi cổ cũng gần chục năm. Quân sư là người vô tình, cho nên nhận ngọc mà bỏ đi mất rồi!

Quân sư giọng vui vẻ đáp:

- Thưa, Lê Thảo tôi được Tiên nương ban ân sủng ngọc quý, đời nào lại đem bỏ đi. Suốt từ ngày ấy đến giờ tiếc là chẳng biết ngọc ấy của Tiên nương ban cho, cứ tưởng là hồi ấy Sứ quân ban thưởng. Nghĩ mình là nam tử chẳng nên đeo ngọc đeo vàng trong mình, thành ra vẫn đem cất kĩ!

Rồi vợ chồng Phạm Phòng Át ra về. Vợ chồng họ Phạm vừa mới ra thì tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh giục ngựa như mê sảng ào tới! Mạc Sa Cảnh theo thủy quân của tướng Nghi Bá Tường ngược dòng Bạch Hạc lên Hát Môn, rồi lên chỗ rẽ của dòng sông. Ở hai nơi tướng quân chỉ huy, tế tác hoạt động dẫn lối cho quân lên bộ. Đích thân tướng quân trông nom mọi việc. Xong việc thì tướng quân trở lại soái doanh, mới được biết tin Quân sư đau ốm, thì vội vàng chẳng kịp vào trình gặp Vạn Thắng Vương, giục ngựa tới chỗ Quân sư ngay.

Vừa thấy Quân sư, Mạc Sa Cảnh đã kêu lên:

- Chao ôi! Sao lại ra nông nỗi này! Quân sư trọng bệnh, đã thuốc thang gì chưa?

Quân sư thuật qua mọi việc cho Cảnh nghe, rồi bảo:

- May mà ngày trước Hồi Chúc Tiên nương cho ta viên ngọc Hỏa Lựu bà ấy thường đeo ở cổ, ta quên khuấy đi mất. Vậy tướng quân nên gấp về Hoa Lư lấy ngọc cho ta. Nhưng trước khi đi lấy ngọc, ta nghĩ nên làm một việc, tướng quân cho làm trước rồi hãy đi Hoa Lư.

Mạc Sa Cảnh chăm chú đợi lệnh Quân sư, nhưng ông lại hỏi:

- Quân sư còn yếu, có cần phải suy nghĩ tính toán công việc trong lúc như thế này không? Thời giờ còn nhiều, tôi nghĩ Quân sư nên hãy tạm nghỉ ngơi ít ngày thì tốt hơn!

Quân sư giọng yếu ớt nói:

- Đã dành là nghỉ ít ngày thì tốt, nhưng một là điềm mái hiên tự nhiên để sập. Hai là phải nên đem việc không may mà biến thành may mới được!

Quân sư ngừng nói, nằm thở ra vẻ mệt nhọc lắm. Mạc Sa Cảnh lo lắng nhìn Quân sư, ý của tướng quân là vẫn cứ muốn Quân sư tĩnh dưỡng vài ngày đã. Nhưng lại thắc mắc nhiều về điều gì Quân sư vừa mới nói là “điềm mái hiên tự nhiên đổ sập”. Cho nên ngập ngừng rồi hỏi:

- Bẩm, Quân sư nói điềm gì?

- Ta nói riêng một mình ông nghe thôi, vì ông là người cần biết hết mọi việc, đừng để cho ai biết cả, phải nhớ lời ta dặn! Mới đây trong lúc trời chiều chạng vạng, gió lặng, mái hiên trước thư phòng của ta không đưng sập xuống, lúc ấy ta đang mệt mỏi, đấy là điềm chẳng lành. Hóa ra là ứng vào việc không dưng ta bị đau ốm, làm cản trở cả mọi việc. Cứ theo như sách “Quái Lệ Linh” của Đỗ Xuyên, thì “Mái hiên đổ là điềm tổn thọ”. Từ khi ta đến với Hoa Lư dàn xếp trăm việc giúp Vương, quả thật cũng đã làm cho nhiều người phải chết, ghê gớm hơn cả là việc mới đây ở Hồi Hồ. Chốn phong thủy rừng thiêng núi linh, quỷ thần đi lại chẳng thể lường trước được. Ta chẳng sợ yêu ma, lại thêm hồng khí của Vương, mệnh trời hằng đêm xem thiên văn ta thấy tướng tinh Vũ Khúc của ngài càng ngày càng sáng tỏ. Bên trái ngôi Kình Thiên rực rỡ, bên phải ngôi Thiên Phủ như lóe sáng không ngừng. Như thế thì ta quyết chắc vũ nghiệp cứu nước của ngài phải xong, làm sao tùy tinh theo phò chân chúa lại có thể suy tàn được. Nhưng cái điềm mái hiên đổ quả đã ứng rồi. Vậy, ta nên “biến họa thành phúc”, lấy việc ta đau ốm mà lợi dụng làm thành diệu kế là hay nhất!

Mạc Sa Cánh hỏi:

- Bẩm, Quân sư định “Biến họa thành phúc, đem đau ốm thành diệu kế” là thế nào?

Quân sư nghĩ một lát rồi nói:

- Bây giờ, ông lên Tam Đái ngay, để ý: Đừng để cho ông Thẩm Thụy Hùng kịp về, nói cho ông ấy biết kế của ta, ra sức phao đôn đi là: Vạn Thắng Vương mê nữ sắc ở lì Hồi Hồ, Quân sư Lê Thảo bị lâm trọng bệnh đến Thần y cũng đành bó tay, mệnh trời đã hết. Thế là Hoa Lư thu binh về hết phía Nam Bạch Hạc, cố thủ để giữ các phần đất cướp được của các Sứ quân. Những nơi ấy các tướng cũ của Sứ quân đang rục rịch đứng lên đòi lại, Tam Đái thế là vĩnh viễn an bình. Ông nhớ cũng báo lên cho ông Lưu Cơ được rõ, cũng thi hành kế ấy ở Phong Châu. Xong rồi thì trở lại ngay!

Quân sư nói xong có phần mệt thêm. Mạc Sa Cảnh hết sức chú ý lắng nghe, ông thấy cảm động quá về nhân vật văn sĩ này. Con người một lòng với dân tộc đất nước, đang đau ốm có thể nguy đến tính mệnh, thế mà vẫn còn gắng dàn xếp đem cái không may của mình ra để tạo thành cái may trong cuộc tranh hùng! Mạc Sa Cảnh im lặng đợi nghe, chắc thế nào Quân sư cũng dặn bảo thêm nữa.

Một lát, Lê Thảo bảo:

- Ông mang lời ta trình Vương, xin Vương cứ lưu lại Hồi Hồ. Nhưng phao lên là ngài ở Hồi Hồ, phía Bắc Bạch Hạc thì cứ theo thời gian mà phao dần lên là ta sắp chết. Nói với ông Thẩm bịa ra những hiện tượng thiên văn, việc lớn phương Bắc như đã dặn. Để làm cho Tam Đái, Phong Châu càng tin chắc nhé!

Rồi Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh hãy đi ngay. Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, ra ngoài thì kín đáo gạt nước mắt. Rồi tần ngần đứng trước thềm suy tính: Nên đi ngay Hoa Lư để lấy ngọc, hay là mang dàn xếp việc dựng kế dựng binh trước?

Mạc Sa Cảnh liên quyết định đi Hoa Lư trước, nhưng vẫn cẩn thận gấp đi gặp Vương. Vắn tắt trình để Vương rõ mọi việc, lại trình:

- Bẩm trình Vương. Quân sư xin Vương cứ lưu lại Hồi Hồ nhưng tôi sẽ nói là Vương đã về Hồi Hồ (Đường Lâm). Xin Vương lệnh cho các tướng là: Trước Quân sư đã cắt đặt thế nào thì nay cứ hết sức lặng lẽ mà thi hành đúng như thế rồi đợi lệnh sau, tế tác sẽ mang lệnh Vương đi. Bây giờ tôi xin về Hoa Lư gấp.

Mạc Sa Cảnh dặn dò tế tác xong, một mình một ngựa nhắm hướng Nam gấp rút ra đi. Cảnh đi đến đâu tế tác biết đến đấy. Cảnh đi chẳng kể ngày đêm, có lúc lại có cả tế tác cùng đi. Khi vào đến địa phận Kiệm Lộng Sơn thì Cảnh được tin: Quân thủy của tướng Nghi Bá Tường đã chuyển động. Nơi xa nhất là bờ Bắc dòng Bạch Hạc chỗ dòng sông chuyển hướng, đối diện với rặng Mộng Thất Sơn phía Nam, tướng quân Triệu Đồng Long đã đưa mười nghìn quân lên bộ, ẩn quân kín đáo chờ lệnh mới. Mạc Sa Cảnh hài lòng, về đến Hoa Lư thì được tin: Tam Đại náo nhiệt vui mừng với việc: “Động chúa Hoa Lư mê nữ sắc ở lì Hồi Hồ, ngay đến việc Quân sư Lê Thảo đau ốm sắp chết, việc quân vì thế đành phải bỏ cả. Mà Đinh Bộ Lĩnh cũng chỉ đến hỏi thăm một lần rồi thôi”. Cảnh càng mừng lớn, lại thấy bồi hồi thương cảm Quân sư đang trọng bệnh!

Cảnh theo lời dặn, lấy xong ngọc Hỏa Lựu cẩn thận cất trong ngực áo, lại hết sức thận trọng sai tế tác mở đường. Cách một cung đường thay ngựa lại có tế tác đợi để thay phiên hộ tống, đưa tin. Cách hai cung đường tế tác phải biết đường đi tuyệt đối an toàn. Mạc Sa Cảnh đem theo lương khô ăn ngay trên lưng ngựa, lại mang theo một túi nam sâm lấy trong các vùng núi rừng ở Tam Dương, Lập Thạch, Sơn Vị. Dọc đường Cảnh ăn sâm ấy lấy sức đi suốt ngày đêm không nghỉ không ngủ. Đường đi rồi về xa mấy trăm dặm đường xuyên rừng vượt núi, về đến Hoa Lư chỉ kịp nói với tướng trấn thủ là “đại nghiệp sắp thành”, rồi lấy ngọc xong là đi ngay. Về đến Hồi Hồ thì Cảnh cũng phải mất gần ba ngày trời, thật là một kì công!

Mạc Sa Cảnh đem ngọc Hỏa Lựu đến thẳng nơi Thần y, rồi mới trở lại thăm Quân sư. Cảnh bỏ ngựa chạy bộ cho khỏi gây tiếng động mà vào thăm Quân sư.

Lê Thảo nằm trên giường thiêm thiếp như người ngủ mệt. Ba viên thanh đan dường như hiệu quả đang mờ dần. Quân sư vốn vóc người thanh mảnh, nay thì phải nói là mới có mấy ngày hóa ra gầy gò. Mạc Sa Cảnh không cầm được nước mắt lặng lẽ đứng nhìn.

Quân sư chợt mở mắt. Mạc Sa Cảnh thấy Quân sư thức dậy thì mừng lắm nhưng lại chợt thấy lo lắng. Cặp mắt của Quân sư vốn tinh anh, sao lúc này đang trong đau ốm nguyên khí suy kiệt, mà cặp mắt lại long lanh sáng như thế. Cảnh nghĩ: “Người ta nói người sắp chết tinh anh hay hiện ra, hay là Quân sư sắp liễu mệnh rồi nên mắt mới sáng như vậy?!”. Cảnh hai hàng nước mắt bỗng tràn ra.

Quân sư giọng yếu ớt hỏi:

- Tại sao ông lại khóc? Không lấy được ngọc à?

Mạc Sa Cảnh vội thưa:

- Bẩm Quân sư, có ngọc rồi. Thần y đang luyện thuốc! Quân sư mệt lắm phải không?

Quân sư không đáp chỉ lại nhắm mắt, gật đầu. Cảnh tần ngần đứng nhìn. Mạc Sa Cảnh chưa biết phải làm gì, đã nghe thấy bên ngoài có nhiều tiếng chân người đi khẽ, rồi có tiếng nói khẽ:

- Có Vương tới!

Cảnh nhẹ nhàng bước ra, không kịp lau khô nước mắt. Vương vừa thấy Cảnh thì giật mình hỏi vội:

- Tại sao ông khóc? Không lấy được ngọc ư?

Mạc Sa Cảnh hấp tấp khẽ trình:

- Bẩm trình Vương, có ngọc rồi. Thần y đang luyện thuốc!

Vương hiểu tại sao Mạc Sa Cảnh khóc, ngài khẽ nói:

- Ông đi nhanh quá! Quân sư thế nào?

Vương bước vào, các tướng lặng lẽ theo sau. Quân sư mở mắt toan gượng ngồi dậy. Vương đã giơ tay cản lại dịu dàng bảo:

- Ngài cứ nghỉ! Ông Cảnh đi nhanh quá, có ngọc rồi!

Vừa lúc ấy, lại có nhiều tiếng chân người đi tới bên ngoài. Mạc Sa Cảnh bước vội ra, hóa ra là Thần y cùng mấy người nữa.

Thần y bước vào, Vương cùng các tướng tránh ra nhường chỗ. Thần y thấy Vương thì thi lễ rồi nói:

- Trình Vương, thuốc thảo thì đã xong, ngọc Hỏa Lựu thì mới vừa về. Kịp để tiếp cho ba viên thanh dan sắp hết hiệu lực!

Rồi Thần y sai mấy người theo hầu bưng chiếc bình sứ men xanh như là thiên tuế lại. Bình chỉ lớn bằng một nắm tay người lớn, nắp đậy kín thành ra chẳng biết bên trong đựng thuốc ra sao. Thần y mở đẫy, lấy chiếc hộp đựng ngọc Hỏa Lựu ra. Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn nhìn vào chiếc hộp.

Bên ngoài lại nghe có tiếng chân người, rồi có giọng thanh tao nói:

- Trình Vương đến thăm Quân sư!

Hóa ra là vợ chồng Phạm Phòng Át nghe tin Mạc Sa Cảnh đã đem ngọc về, thì vội tới thăm Quân sư, lại gặp Vương ở đây!

Hồi Chúc bước vào, Phạm Phòng Át theo sau. Vương nghe chào thì quay lại khiến Thần y cũng phải dừng tay.

Thần y mở nắp hộp, viên ngọc Hỏa Lựu lớn bằng quả trứng bồ câu màu vàng chói trong suốt. Giữa viên ngọc lại là khối lớn bằng đầu ngón tay út đỏ như máu. Hồi Chúc Tiên nương nhìn viên ngọc trong lòng chợt thấy bồi hồi, rung động. Thần y bảo:

- Viên ngọc này quý lắm, gốc của nó vốn đã quý, nó là ngọc lấy ở tận đỉnh núi đất Thủ Cung, còn gọi là núi Bình Lễ ở Tân Yên (nay là Tiên Yên). Đào tìm không được, phải đợi lúc có duyên trời cho mưa xuống trôi đất ngọc mới hiện ra. Ai được ngọc thì ba đời vinh phúc, ai đeo ngọc thì thọ trăm tuổi, nhưng đem ngọc cho đi thì lại thiệt mất hai chục năm tuổi thọ. Đàn ông giữ ngọc trong mình thì dù đem phơi nắng suốt mùa hạ cũng không bị nắng thiêu đốt, sức mạnh nội phủ tạng còn tăng lên gấp bội. Đàn bà đeo ngọc thì ngọc hút được âm khí thành ra âm dương hòa hợp. Trong nghề Y học thì ngọc này nếu biết cách dùng thì có thể phục hồi nguyên khí cho người đã kiệt hẳn nguyên khí. Luyện với bài thuốc “Thất Huyền Nam Thảo” của ta thì trở thành thần dược trăm ngày, bệnh thu lại nửa tuần trăng là người bệnh thấy sức mạnh như đang hồi trai trẻ tráng kiện!

Nhiều người nghe Thần y giảng về thuốc với ngọc, thì lấy làm lạ, nhưng Vương không lấy làm lạ. Chính ngài đã có lần được Thần y trị thương trúng độc của Tịch Mịch thiền sư. Vì thế Vương vui vẻ bảo:

- Y dược thần của ngài ta đã biết, dưới thế gian này không có lấy hai người! Nay đã có ngọc thì Quân sư của ta có gì phải lo lắng nữa! Chỉ không biết ngọc này bậc nữ lưu nào trước kia sử dụng, đem tặng cho Quân sư của ta thành ra bị thiệt mất hai mươi năm tuổi thọ! Thôi thì ta ngửa mặt lên trời tạ ơn bậc thần tiên ấy thay cho Quân sư ta vậy!

Lời nói của Vương chỉ có bốn người biết: Quân sư, Hồi Chúc Tiên nương, Phạm Phòng Át và Mạc Sa Cảnh. Quân sư nằm trên giường mệt mỏi nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, nghe Vương nói thì cảm thấy bâng khuâng trong lòng. Phạm Phòng Át lặng lẽ không tỏ một thái độ gì, Hồi Chúc hốt nhiên bẽn lẽn. Còn tường Mạc Sa Cảnh thì tủm tỉm cười, ông nói:

- Bẩm trình Vương, ngọc quý hiện đang ở đây, thì cũng là thần tiên đang có mặt ở chốn này! Thọ hay yểu bậc thần tiên chắc chẳng có gì phải quan tâm. Ngọc cho được thì còn có gì lại tiếc nữa!

Những lời nói của Mạc Sa Cảnh càng làm cho Hồi Chúc thêm luống cuống. Thần y bảo:

- Thuốc đã luyện xong, bảy cây thuốc quý lấy ở bảy nơi trong cõi này:

- Bảy thứ thảo mộc ấy đem chế thành thuốc, trộn chung với nhau vào lúc nửa đêm tránh ánh sáng mặt trời. Lúc ấy thuốc chẳng có hiệu dụng gì chỉ là một thứ nước đặc sệt không có màu gì rõ rệt. Thuốc đem ngọc hỏa lựu âm khí ngâm vào thì chuyển động, phần vàng óng của Hỏa Lựu là âm, phần ruột đỏ tía là dương. Âm dương ấy tàng chứa trong sinh hồn người phụ nữ truyền cho, làm cho thuốc bảy vị thảo mộc chuyển động.

Thần y nói đến đây thì ngừng lại, ông ra hiệu cho người hầu bưng bình thuốc lạ đặt trên bàn trước mặt Vạn Thắng Vương, rồi tiếp:

- Hôm nay, đây là lần cuối cùng trong đời tôi làm thuốc cho hào kiệt trong thiên hạ, lần cuối cùng mà cũng là lần đầu tiên phải dùng đến ngọc Hỏa Lựu để chuyển thuốc. Tiếc rằng dù kiếm được ngọc cũng không có cơ hội để chiêm nghiệm nốt huyền lực của thuốc, bởi chẳng có người phụ nữ cao quý đã sử dụng viên ngọc ấy tự tay bỏ ngọc vào thuốc. May ở đây chỉ có phu nhân của ngài Phạm, thì ta nhờ phu nhân bỏ ngọc vào thuốc xem sao!

Thật là lạ lùng, thật là kì nhiên! Hồi Chúc Tiên nương nghe Thần y nói thì rung động cả tâm hồn. Ngọc này chẳng chính là ngọc của phu nhân thường đeo ở cổ hay sao? Bây giờ lại chính tay Tiên nương bỏ ngọc vào thuốc! Lại chỉ có mấy người biết được bí ẩn này!

Hồi Chúc Tiên nương nghe Thần y nói thì đứng lên, bước đến đỡ lấy hộp ngọc trên tay Thần y, rồi nhẹ bước đi lại bên Quân sư lúc ấy đang thiêm thiếp như người ngủ say. Hồi Chúc cúi thấp xuống, giọng thật êm chỉ đủ một mình Lê Thảo nghe thấy mà rằng:

- Quân sư Lê Thảo, ngọc ngày xưa tặng nhau tưởng đã quên vào dĩ vãng, không ngờ lại có ngày hôm nay. Thiếp không mong làm Minh Lệ Nhược Hồng nữa, mà mãi mãi là Hồi Chúc ở Ngọc Đồng!

Quân sư hơi cựa mình, cặp mắt mở ra nhìn Hồi Chúc. Tiên nương bước lại bên bàn mở hộp ngọc. Thần y giơ tay mở nắp bình xanh thẫm, ông nghiêm giọng bảo:

- Bỏ ngọc vào!

Cử chỉ Tiên nương thật phong nhã. Hai ngón tay như hai thoi ngọc chuốt cực đẹp cầm viên ngọc lên, lẳng lặng bỏ vào bình thuốc. Bao nhiêu cặp mắt dồn cả vào nhìn chiếc bình nhỏ. Chỉ có Vương là ngồi gần hơn cả, ngài thấy viên ngọc vàng rực rơi xuống chất nước chẳng phải là đen cũng không phải là nâu. Ngọc chìm xuống khiến cho chất nước rung rinh.

Chỉ trong một thoáng, nước trong bình sủi tăm nhẹ nhẹ, rồi mạnh dần lên, cuối cùng thì như có lửa đốt làm cho nước trong bình sôi lên sùng sục. Lạ một điều là nước chuyển động sùng sục trào lên đến miệng bình mà không một mảy may nào bắn ra ngoài. Nước sủi mạnh rồi bốc lên một làn khói vàng như khói lá khô, mùi nồng ngái như cả một vùng cây cỏ rộng vừa bị tan nát dưới trận giông bão lớn. Khói vàng dần dần đặc quyện tỏa ngập gian phòng, mọi người thấy hơi thở như gấp lên, không phải là khó thở mà như có sức thôi thúc phải thở nhanh. Khói vàng đặc dần chuyển sang màu vàng tươi nhạt. Lúc ấy chỉ còn ngửi thoang thoảng mùi cỏ bị vò nát, pha lẫn mùi nhựa thông thiên tuế sam, lại phảng phất hương thơm của sâm bà la môn. Hơi thở của mọi người bây giờ như chậm hơn lại, nhẹ nhàng thanh thoát không gấp rút như vừa rồi.

Thần y chăm chú nhìn bình thuốc, Vạn Thắng Vương còn chăm chú hơn nữa. Đứng phía sau ngài là các tướng cố nghểnh cao để nhìn cho rõ. Phía bên kia bàn tướng quân Mạc Sa Cảnh vừa chăm chú xem thuốc vừa để ý xem Quân sư thế nào. Tướng quân thấy Quân sư vẫn nằm im. Nhìn lên, Hồi Chúc Tiên nương hơi cau mày chăm chăm nhìn bình thuốc.

Đột nhiên nước trong bình ngưng hẳn không còn sôi sục nữa, nhưng lạ thay từ trong bình lại bốc ra một làn khói xanh biếc như khói bột màu. Khói xanh tỏa ra không còn mùi cỏ hoang cây dại, mà rõ ràng như hương thơm của tuyết lê nhẹ mà quyến rũ trộn với hương hơi cay cay của rễ sâm tiên mao. Hương thơm của khói xanh nhẹ mà tràn ngập gian buồng. Ngần ấy con người bỗng thấy trong người lâng lâng, sức khỏe như tăng thêm, trí óc như thông tuệ.

Tướng quân Mạc Sa Cảnh không kìm hãm được, thốt kêu lên:

- Kì lạ! Kì lạ!

Đến lượt Vương cũng thốt lên:

- Tuyệt diệu!

Như đáp lời hai người vừa thốt kêu lên, đằng kia Quân sư khẽ cựa mình. Tướng Mạc Sa Cảnh nhận thấy ngay vội chạy lại. Giọng Quân sư vững vàng, bảo:

- Ta ngủ ngon giấc quá!

Không phải Quân sư đã ngủ ngon. Quân sư đã mê đi vì thời gian hiệu dụng của ba viên thanh đan đã hết. Lúc ấy Quân sư trầm vào cõi hôn mê, nhưng khói thuốc thần của Thần y đã làm cho Quân sư tỉnh lại! Ngay đến như Mạc Sa Cảnh suốt mấy ngày liền đi không ngừng nghỉ, đêm không ngủ, sức tuy mạnh nhưng đã dốc ra hết tưởng có thể quỵ xuống mà chết được. Đến khi hít hương khói thuốc lạ chợt thấy sức mạnh như bừng lên, nội lực dã cạn hết nay lại thấy tràn đầy, trong người cảm thấy khoan khoái lắm. Lúc tướng quân chạy đến bên Quân sư nghe Quân sư nói thì mừng quá kêu lên:

- Quân sư đã tỉnh rồi!

Đúng thế, Quân sư mới chỉ được ngửi hương thuốc thần đã tỉnh! Trên bàn, khói xanh bây giờ chỉ còn phảng phất phải tinh mắt mới thấy được, nhưng hương thơm thì dịu dàng mà tràn ngập gian nhà.

Thần y mở đẫy, lấy ra một cây kim bạc dài gần gang tay. Ông nhúng kim vào trong thuốc nhẹ tay chuyển kim, đâm vào viên ngọc Hỏa Lựu rồi đem ra khỏi bình. Ngọc cứng như thế mà lúc này mềm như sáp ong, màu vàng óng chẳng còn, lõi đỏ chói ở trong cũng mất. Bao nhiêu tinh hoa của ngọc quý đã hòa tan vào trong thuốc thần!

Thần y lại lấy trong đẫy ra một chiếc thìa bằng trúc vàng, ông dùng thìa ấy múc ra một chất nước vàng óng như phần ngoài của viên ngọc Hỏa Lựu. Trong chất vàng đặc sệt ấy còn có những đường văn đỏ tươi. Ông xem độ thuốc đặc loãng thế nào, rồi nói với Vương:

- Trình Vương thuốc đã được. Ngọc quý không biết của ai mà cứ theo như kết quả của thuốc thì ngọc với tay người bỏ ngọc vào thuốc phải là một người! Thật là kì lạ! Thật là kì lạ!

Mạc Sa Cảnh nghe thấy thế liền bảo:

- Bẩm, có thể ngọc ấy vốn của bậc nữ lưu nào, sau đến tay Quân sư. Cho nên khi nhờ tay Tiên nương bỏ ngọc vào thuốc nên thích hợp mà thành như thế chăng?!

Lúc này, chỉ có Phạm Bạch Hổ với Hồi Chúc Tiên nương là biết rõ gốc gác viên ngọc. Hai người thấy nhận xét của Thần y về viên ngọc quả thật không sai một mảy may. Cả hai thấy trong lòng vừa kính phục vừa sợ vị Thần y này!

Thần y bảo Mạc Sa Cảnh:

- Ông đem thuốc cho Quân sư uống. Hôm nay uống một thìa trúc vàng. Từ ngày mai, cứ lúc mặt trời mới lên thì uống một thìa, lúc mặt trời vừa lặn uống thìa nữa. Bảy ngày thì thôi. Thuốc có còn cũng phải bỏ, không thể lạm dụng được. Còn viên ngọc Hỏa Lựu, tinh hoa đã hết, nên đem chôn xuống đất đợi khoảng năm trăm năm sau ngọc sẽ lại hồi sinh. Lúc ấy ai được ngọc sẽ dựng được đại nghiệp, ở ngôi đế!

Vương nghe lời liền sai Mạc Sa Cảnh giữ ngọc ấy rồi đem chôn. Chẳng biết Cảnh chôn ở đâu, gần năm trăm năm sau là vào khoảng năm Ất Tị (1425). Có người hào kiệt dấy nghĩa ở đất Lam Sơn, họ Lê tên Lợi. Chiến với quân nhà Minh ở sông Lam Giang, tình thế khó khăn sau được ngọc quý thì dần dần phục hồi được sức mạnh. Cuối cùng đuổi được giặc ngoại xâm, dựng lên nhà Lê, sử gọi là nhà Hậu Lê. Người đời bảo ông Lê Lợi được chính viên ngọc Hỏa Lựu năm xưa tướng Mạc Sa Cảnh đem chôn, không biết có đúng hay không?

Quân sư uống thuốc của Thần y, nguyên khí phục hồi mau chóng. Chỉ mới sang đến ngày thứ hai sức khỏe đã như bình thường. Quân sư lại định vào doanh xem xét công việc ngay, nhưng Vương lệnh là: “Phải nghỉ”. Quân sư nằm dưỡng bệnh trong lòng như có lửa đốt. Nghe Mạc Sa Cảnh trình tin các nơi, binh tướng Hoa Lư đã theo như dự định trước của Quân sư mà hành động, thì lo lắm.

Sang đến ngày thứ ba, quan thiên văn trình là ngày tháng bắt đầu vào tháng Bảy. Quân sư chợt sai quân cho gọi tướng Mạc Sa Cảnh gấp đến bảo:

- Ta còn phải nghỉ ít ngày nữa. Thế mà trong lúc này các nơi binh tướng đã lên đường, ta lo lắm! Vừa rồi nghe thiên văn báo là đã sang tháng Bảy. Ta thấy thời tiết, lại thêm tin trình bình hai nơi Tam Đái, Phong Châu trình về. Ta nghĩ nên thay đổi chiến kế!

Mạc Sa Cảnh hỏi:

- Bẩm, Quân sư định thay đổi chiến kế thế nào?

- Ở Tam Đái với Phong Châu, tế tác của ta có được tin gì về hai nơi ấy biết ta bị đau ốm không?

- Bẩm có, tuy thế họ cũng vẫn có phòng bị.

- Họ nghĩ như thế nào về ta?

- Bẩm, ta giữ kín tin, thành ra họ chỉ biết là Quân sư bị đau ốm.

Quân sư vội bảo:

- Vậy, ông hãy cho tế tác, cho người đi báo các nơi. Phao đồn thật ầm ĩ là “Quân sư Hoa Lư lâm trọng bệnh, hao kiệt nguyên khí. Thần y dụng đến thuốc thần cũng chỉ kéo dài mạng sống cho Quân sư được có bảy ngày, để Quân sư lập đàn bắt chước người xưa nâng sao giải hạn. Nhưng mệnh trời xem ra khó cưỡng”. Nhớ cho các tướng của ta biết sự thật để các ông ấy yên lòng.

Mạc Sa Cảnh lạ lùng, không hiểu Quân sư định dựng kế gì? Toan hỏi thì Quân sư bảo:

- Ông cứ đi việc ngay, tin ta sắp chết càng phao đồn được lớn bao nhiêu hay bấy nhiêu!

Mạc Sa Cảnh vâng lệnh ra đi. Quân sư sai quân đóng xe để ngài đến xin gặp Vương. Vương nghe trình có Quân sư tới thì cau mày, rồi ra đón. Vương có ý không vui bảo:

- Ta đã bảo ngài phải nghĩ, sao lại còn đi đâu?

Quân sư vui vẻ thưa:

- Bẩm trình Vương, trong người tôi cảm thấy khỏe mạnh lắm rồi. Việc gấp cho nên xin được bái kiến Vương để trình việc.

Rồi Quân sư trình Vương thật cặn kẽ các việc, lại nói về mưu kế. Quân sư nói:

- Tam Đái với Phong Châu không thể không sửa soạn để nghênh chiến chống lại ta. Nhân việc tôi đau ốm, ta cho phao tin đồn là tôi lập đàn cúng sao cầu thọ nhưng không được, chết rồi! Ta vào Hồi Hồ mới ít ngày, binh tướng của ta giết mất nhiều người. Vương nên cho lệnh các chùa mở lễ, dân gian bảy ngày đi thăm viếng mồ mả, sửa sang nơi an nghỉ của các tử sĩ. Như thế cũng làm cho linh hồn các tử sĩ được an ủi. Mà ta thì làm cho phía Bắc Bạch Hạc tin là tôi đã chết, và Vương cho làm ma trọng hậu. Cùng lúc, lại cho phao tin: Vương chán việc chiến trận vất vả, đã dừng quân. Có ý sắp lui về Hoa Lư. Như vậy là hai Sứ quân Nguyễn Khoan với Kiều Công Hãn tất tin mà lơ là việc quân. Ta sẽ bất thần lấy hai nơi ấy khoảng trước tháng Chín năm nay là xong!

Vương nghe Quân sư trình việc trình mưu, ngài bảo:

- Như thế cũng được, nhưng như thế thì bốn nơi binh tướng của ta đã ở Phong Châu, Tam Đái rồi thì làm thế nào? Binh chuyển động chẳng phải một vài người, mà cả vạn, đi lại như vậy phiền phức nhiều lắm. Sao lại không mở trận tiến quân ngay bây giờ?

Bẩm trình Vương, nếu ta tiến quân ngay lúc này, thì Tam Đái ba mặt bị binh tướng của ta đánh tới. Lại khó tránh được máu đổ thành sông, xương chất thành núi. Binh ta có mặt ở Tam Đái - Phong Châu, kín đáo, hoàn toàn không làm cho hai nơi ấy náo động chút nào. Vả lại nếu ta phao tin thì tất bình tướng của ta tuy chưa lui về, nhưng đóng im một chỗ cũng làm cho hai nơi ấy tin là thật.

Vương ngắt lời Quân sư, hỏi:

- Nếu ta dừng quân, lập kế. Quân sư định khoảng thời gian nào thì bắt đầu tiến quân?

Bẩm, Tam Đái có lệ mở hội giữa Thu, lúc ấy tất cả binh tướng của Sứ quân Nguyễn Khoan đều được ba ngày dự các lễ hội lớn do Sứ quân mở. Lúc ấy ta bất thần ập tới có thể dễ dàng lấy xong Tam Đái. Còn Phong Châu, thì Sứ quân Kiều Công Hãn năm nào cũng mở lễ hội là Trùng Cửu, còn gọi là Tết Đăng Cao. Ấy là bắt chước theo lời kế của sách Tục Tề Phô kí nói rằng: Phí Trường Phòng bảo cho Hoàng Canh biết: “Muốn tránh được mọi tai nạn thì ngày chín tháng chín, tức trùng cửu. Nên cắm nhánh thù du, tức là một loại cây tiêu lên mũ và leo lên núi cao (đăng cao) thì tai qua nạn khỏi!” Vì thế nên năm nào Kiều Công Hãn cũng cho mở lễ đăng cao long trọng, kéo dài từ ngày mồng tám đến ngày mười tháng Chín mới dứt lễ. Ta nhân khoảng thời gian ấy tiến quân là tốt nhất!

Vương bảo:

- Từ khi ta đánh Tam Đái cho đến lúc vào trận đánh Phong Châu. Thời gian lâu hơn hai chục ngày trời. Như thế có bị mất thế bất ngờ đi không?

- Bẩm, bình thường thì như thế sẽ bị mất thế lợi của bất ngờ. Nhưng ta dứt được Tam Đái, dàn xếp xong được mọi việc cho yên ổn nhanh lắm cũng phải mất mươi ngày, nửa tháng. Như vậy thì chỉ vài ngày sau là ta đã lại tiến binh, thế bất ngờ vẫn còn. Vả chăng, sau khi xong Tam Đái ta chỉ còn có Phong Châu mà Phong Châu thì tế tác của ta cho hay: Họ sửa soạn kĩ càng lắm. Thành ra như vậy có khi ta tiến quân như thế lại là vội vàng cũng không chừng!

Vương bằng lòng với ý định của Quân sư. Thế là ngài lại triệu tập các tướng, nói cho biết quyết định tạm dừng quân. Lập kế “Quân sư trong bệnh qua đời” làm cho cả Hồi Hồ rung động, ở đâu cũng ồn ào với việc này. Có những nơi dân chúng nghe tin thì thương tiếc. Có người bảo “Quân sư định kế làm cho quá nhiều người mất mạng”. Cho nên trời cao rút ngắn mạng của Quân sư để bù lại. Tin vượt sông Bạch Hạc lên đất Tam Đái, rồi lan tới Phong Châu. Hai Sứ quân lập tức hội chúng tướng bàn việc. Còn binh tướng Hoa Lư thì lại gấp rút chuẩn bị, hết sức kín đáo từ doanh Đỗ Động vượt sông lên Bắc. Men theo chân rặng Tam Sơn ngược lên đến tận Bắc Bình Xuyên, Nam Tam Đảo, rẽ về phía Tây lại men theo chân núi tiến lên phía Bắc. Đường quân hành xa xôi nhưng binh đi lặng lẽ. Lại thêm tế tác của Mạc Sa Cảnh mở đường, có tướng quân Lưu Cơ ở Cổ Loa hợp sức với các quan các tướng triều Ngô trợ lực. Thành ra đại binh kéo đi chẳng một nơi nào biết.

Còn ở Hồi Hồ, tuân lệnh Vương, khắp nơi mở lễ cúng vong. Tất cả các chùa suốt ngày đêm sư sãi thay nhau làm lễ cầu siêu. Vương lại bảo Mạc Sa Cảnh nới bớt vòng kiềm tỏa để cho tế tác của Tam Đái - Phong Châu có thể vào Hồi Hồ quan sát, góp nhặt tin tức được. Tin đưa về càng khiến hai Sứ quân hài lòng, yên bụng. Để cho tế tác Tam Đái - Phong Châu thấy rõ hơn nữa. Vương truyền:

- Tất cả các binh tướng bị thương trong các chiến trận, hay đang đau ốm, đều được đưa hết về Hồi Hồ nghỉ ngơi. Nhưng phao lên rằng: Đại binh lần lượt rút về Hoa Lư, rồi sẽ đưa quan tài của Quân sư về sau.

Được tin, Sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái lại triệu tập các tướng. Mở hội nghị an định việc lớn trong thiên hạ, lúc ấy đã sang đầu tháng Tám.

Hội nghị bắt đầu, Sứ quân Nguyễn Khoan tự tay đánh công khai hội, ngài bảo:

- Quả nhiên, giang sơn ta là nơi linh địa núi ngoài sông quanh. Giặc tới là giặc phải tan, giặc chưa tới đã tan ấy là binh tướng Hoa Lư đã bắt đầu lui về Hoa Lư rồi! Vì thế hôm nay ta hội các ngươi lại trước là báo tin. Sau là xét định xem vị trí của ta lúc này ở Giao Châu là thế nào?

Các tướng nghe Sứ quân nói. Chẳng ai lại không mừng rỡ, hoan hỉ. Tịnh Nhật Đại Tăng lên tiếng:

- Bẩm Chúa công, mấy lần Tam Đái ta bị bên ngoài nhòm ngó, mấy lần ta đều được yên ổn. Quả thật giang sơn của ta là linh địa. Lần này cũng vậy, giặc Đinh Bộ Lĩnh toan trái mệnh trời ngửa mặt nhìn lên Tam Đái ta. Nó đã bị hại ngay. Tên Quân sư giảo quyệt của nó đã chết. Có khác nào đầu óc nó hóa mê rồi, làm sao còn tính được việc gì nữa. Lui là phải!

Hội nghị nghe đại tăng Quân sư của Sứ quân luận việc chẳng ông nào lại không cảm thấy khoan khoái. Vừa lúc ấy, có tin nói là tế tắc xin vào trinh tin khẩn.

Chưa biết lại có tin khẩn gì vào lúc Sứ quân vừa khai hội. Xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—