← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Mười Bảy Luận tướng diện, Minh quân xuất thế
Hội trăng rằm, chờ đón vua ra

Tế tác trình:

- Bẩm Chúa công, quả thật Quân sư Hoa Lư đã chết. Đinh Bộ Lĩnh cho lệnh làm tang lễ lớn, các chùa mở lễ ba ngày liền, lại cho bắt đầu lui quân về Hồi Hồ. Chuẩn bị quân các lộ lần lượt kéo về Hoa Lư!

Hội nghị mừng quá, Sứ quân bảo:

- Như vậy, thì rõ ràng Kiều Công Hãn ở Phong Châu chỉ được cái hấp tấp, sợ bóng sợ gió, hão huyền, lại toan lập thế chiến. Nào là “liên minh cự chiến Hoa Lư”, nào là “Phong Châu Tam Đái đồng phân thiên hạ”. Bây giờ Hoa Lư khốn đốn phải tự lui về, rõ ra là có trời định cả! Chắc phen này thì Kiều Công Hãn phải cho sứ giả xuống cầu hòa với ta thôi!

Sứ quân vừa dứt lời, lại đến mưu sĩ Hàn Đồng hùa vào:

- Bẩm Chúa công. Ngày xưa Phong Châu tự nhiên cho Điền Bạc xuống gây náo động giang sơn ta, lại xúi bẩy cướp mất của ta hai đại tướng. Đến khi hốt hoảng lại cầu liên minh với ta, rõ ra là phường bất chí. Phía Nam dòng Bạch Hạc, Hồi Hồ cũng có lần xích mích nhỏ với ta, nay thì cũng bị trời tru diệt mất vào tay Hoa Lư. Như thế đủ thấy: Kẻ nào dám xâm phạm đến ta, kẻ ấy sẽ bị nguy khốn. Chung quanh ta bị nguy cả, mình ta ở giữa được yên bình. Chẳng phải là trời che chở cho thì làm sao lại được như thế!

Lời nói nịnh của mưu sĩ Hàn Đồng thật là vừa tăm tối, vừa nguy hiểm vô cùng. Tự dối mình nhắm mắt không dám nhìn cuộc thế, làm cho tướng Phúc Nghiệp Trình phải lên tiếng:

- Bẩm Chúa công, ta mong an bình là một việc, nhưng xét việc thiên hạ thì lại là việc không thể mưu an rồi để bỏ sự thật đi được. Thánh hiền có nói “Cư an tự nguy”. Được an bình thì phải nghĩ đến khi nguy cấp! Nhìn ra phía Đông, rồi phía Nam ta, lần lượt các Sứ quân đều bị Hoa Lư tiêu diệt. Như thế thì sau Hồi Hồ thế nào Hoa Lư cũng nghĩ đến việc sang sông. Lúc ấy giang sơn ta tất không còn được an bình nữa. Xin Chúa công nghĩ lại!

Phúc Nghiệp Trình là tướng giỏi nhất ở Tam Đái. Nay ông đã ngoài năm mươi tuổi, xử cây Yểm Nguyệt Hổ Đầu đao vẫn thật dũng mãnh. Nghe tướng Phúc nói, Sứ quân hỏi:

- Như vậy, thì ông bảo là thế nào Hoa Lư cũng vào giang sơn ta? Thế những việc Hoa Lư lui binh thì là thế nào? Việc Quân sư của nó chết rồi là sao?

Phúc Nghiệp Trình đáp ngay:

- Hoa Lư lui binh, tin nói: Một là Đinh Bộ Lĩnh được người đẹp thì chẳng thiết gì việc chinh chiến nữa muốn lui về Hoa Lư để hưởng thụ. Hai là vì Quân sư Hoa Lư chết thành ra chẳng còn người tính kế định mưu nên Đinh Bộ Lĩnh lui về để giữ những nơi đã cướp được. Tế tác của ta đã nói rõ, nhưng ta cũng nên phòng bị là hơn.

- Ta nên phòng bị thế nào?

- Bẩm Chúa công, ta gìn giữ các mặt, cho đến khi Đinh Bộ Lĩnh rút hết quân về Hoa Lư. Lúc ấy mới có thể gọi là bình yên được.

Sứ quân chưa quyết ra sao, quân trình vào: Có thư trình của Không Trí Thiền Sư chùa Yên Lạc trình Sứ quân. Thật là bất ngờ, bao nhiêu năm nay Thiền Sư giận Sứ quân dung dưỡng Tịnh Nhật Đại Tăng, đóng cửa chùa không đi lại với Sứ quân nữa. Nay bỗng nhiên lại có thư trình là định nói gì?! Sứ quân mở thư, hóa ra Không Trí Thiền Sư luận việc thiên hạ, nói việc Hoa Lư thế nào cũng sang sông đánh Tam Đái, thư có đoạn viết: “Đinh Bộ Lĩnh là tay hùng liệt, lại có nhiều tướng giỏi, quân đông. Sức đã mạnh, lại nếu được danh nghĩa “Bình thiên hạ, an trăm họ” thì cái chí của Bộ Lĩnh đã rõ. Vậy Tam Đái phải ngày đêm lưu tâm, trong ổn định trị an, ngoài cho binh tướng trấn giữ các nơi hiểm yếu. Phòng khi Hoa Lư sang sông.”. Sứ quân đọc đến đoạn này thì gằn giọng bảo:

- Không Trí đóng kín cửa chùa chẳng thèm đến lạy ta ngần ấy năm. Vừa gõ mõ vừa luận việc thiên hạ, lại dạy ta cách trị dân, chống giặc! Rõ ra là mơ ngủ chẳng biết gì lại còn muốn làm thầy thiên hạ!

Sứ quân vừa dứt lời, đã thấy quân lại trình vào: Bên ngoài có đạo sĩ, tay cầm thạch bị viết ba chữ “Tri Thiên Cơ” xin vào trình Sứ quân những việc vui mừng. Sứ quân nghe nói đạo sĩ trình những việc vui mừng, thì đẹp lòng lắm. Chưa cần biết là thế nào liên tức thì cho mời đạo sĩ vào.

Đạo sĩ là người đẹp tưởng như thần tiên, râu dài tóc bạc như mây trời, phong cách phiêu diêu phi phàm. Sứ quân mới trông thấy đạo sĩ đã bằng lòng lắm, liền hỏi:

- Đạo trưởng thần động ở nơi nào, hôm nay vân du đến đây có điều gì chỉ bảo cho ta?

Đạo sĩ tay vẫn cầm miếng đá nhỏ, mỏng, trên khắc ba chữ nói ý là biết cơ trời. Nghe Sứ quân hỏi mắt vẫn không rời, chăm chăm nhìn mặt Sứ quân, rồi kêu lên:

- Mừng thay! Mừng thay! Bần đạo rời Bắc Sơn đi khắp thiên hạ thấy nơi nào cũng có loạn. Phải đến nơi này mới thấy rõ bậc nhân thần, diện tướng có đủ bảy việc vui mừng! Bần đạo xin được cung kính vái lạy bậc nhân thần!

Rồi đạo sĩ đứng lên hai tay chắp lại cầm mảnh đá “Tri Thiên Cơ” mà lạy Sứ quân một lạy. Sứ quân vui vẻ sai người lấy ghế để đạo sĩ ngồi bên cạnh, rồi bảo:

- Đa tạ đạo trưởng, ngài là bậc tri thiên cơ, lại bảo là hiện tướng của ta có đủ cả bảy việc vui mừng là thế nào? Xin đạo trưởng cho nghe!

Chúng thuộc tướng văn võ của Sứ quân ông nào thấy đạo sĩ cũng cảm thấy trong lòng kính trọng. Thế mới biết ngoại diện con người ta nhiều lúc cũng là điều quan trọng lắm!

Đạo sĩ nghiêm trang:

- Bẩm Sứ quân, bần đạo đi nhiều nơi, thấy nhiều người, người được điểm này thì lại hỏng điểm kia. Đến tận Tam Đái này mới được thấy bậc nhân thần, có bảy tướng. Sách “Tướng Dịch học” của Kính Phòng, tự là Quân Minh người đời Hán. Phần nói đến tướng mặt người có kể là:

Đạo sĩ nói một hơi dài, mỗi lời nói ra đều ca tụng dáng vẻ các phần trên mặt Sứ quân. Làm cho Sứ quân mặt to vuông lại càng như banh ra sung sướng. Cặp mắt to lồi, có thầy tướng bảo là loại mắt gian giảo chết thảm, càng như mở to lồi ra hơn nữa. Chưa bao giờ Sứ quân lại thấy khoan khoái như lúc này!

Sứ quân vốn sức lực khỏe mạnh, ngực đầy phổi mạnh, tiếng nói như quát. Bây giờ ngài vui quá ngửa cổ cười một tràng dài tiếng cười thật rộn ràng, rồi bảo:

- Đạo trưởng thần tiên, ta vẫn tự biết mình chẳng được đẹp tướng. Người lùn to ngang, mặt mũi lại chẳng phải là khuôn mặt của bậc thế sự như Khổng Tử, chẳng phải là đế thần như Nghiêu Thuấn. Nay được ngài chỉ bảo cho mới biết: Trong cái xấu lại tàng ẩn những quý tướng đến như vậy!

Cả hội sảnh vui vẻ ồn ào, đạo sĩ cũng hớn hở thưa ngay:

- Bẩm Sứ quân, ngài nói về ý nghĩ của mình thì không sai, nhưng bởi vì ngài không biết nên mới nghĩ như thế! Ngài than là “lùn mà to ngang”, bẩm Sứ quân, ngài có tướng của “lão thần Quy”. Tướng mệnh học gọi là tướng “ngũ đoản”, tức thân mình ngắn, tứ chi ngắn, to ngang. Đấy là tướng của con rùa thần đã cực quý, lại còn thọ vô cùng nữa. Sao lại chê tướng ấy được! Đấng vạn thế sư Khổng Tử mặt dài trán lớn hơi ngược lại phía sau, là tướng làm bề tôi cũng khổ. Cho nên suốt đời ngài lận đận, nhiều phen còn nguy khốn đến tính mệnh nữa. Sao lại có thể sánh được với tướng điện của bậc đế vương? Tướng đã lộ, lại còn thêm phong thủy, thiên tượng điềm trời hiển hiện ứng hợp, thì quý nhân mới vẹn toàn. Khổng Tử nào có được như Sứ quân?

Sứ quân hỏi vội:

- Như thế, đạo trưởng thần tiên thấy phong thủy, điềm trời thiện tượng gì?

- Bẩm, Tam Đái phía Đông có ba cụm núi, thế đất phong thủy gọi là “tam hợp thiên địa nhân”. Thêm lưỡng quyền kiểu “đối sơn long mạch trung” của tướng mạo Sứ quân, tạo thành ra thế phong thủy “Ngũ Hành Đồng Quy” chứa cả vạn vật trời đất. Phía Tây phía Nam có dòng Bạch Hạc uốn khúc, phong thủy gọi là thế “Long Tiềm” rồng còn ẩn vua chưa xuất hiện. Sông ấy hợp với núi ấy tạo thành ra thế “Long Tinh Hổ Mãnh”. Thế đất khôn như rồng mạnh như cọp. Vóc dáng Sứ quân đứng giữa phong thủy núi sông ấy rõ ràng là tướng “Long Tượng Hổ Bộ” rồng đi cọp bước. Tướng thật uy nghi nói sao hết được!

Đến đây thì Sứ quân Nguyễn Khoan mừng lớn. Chúng thuộc tướng lại càng xôn xao gật gù bàn tán với nhau. Đạo sĩ tiếp luôn:

- Bẩm Sứ quân, khi bậc đế vương đến thời xuất hiện, thường thường trời đất sinh ra những hiện tượng người đời gọi là điềm trời báo trước. Như mới đây, lúc từ Tiên Du về Cổ Loa, nửa đêm ngày năm tháng Năm vừa rồi, tôi thấy phương Tây có ráng vàng rực rỡ tích tụ, ráng lạ lâu hơn một khác mới tan. Sáng hôm sau tính ra thì tôi mới được biết ráng vàng “long tán” ấy đêm trước bao quanh đỉnh giữa của rặng Tam Đảo. Tôi vội đi về phía Tây tìm gặp Sứ quân Kiều Công Hãn thì mới được biết điềm trời thế đất phong thủy không hợp vào ông ta. Ông ta chỉ có tướng chết thảm mà thôi. Xuống đến đây gặp Sứ quân thấy tướng tinh hiện rõ mới biết điềm “long tán” ứng vào người ở đất này! Chỉ mới hai ngày vừa qua, khắp nơi người ta đem hương hoa đi núi Hoàng Xá lễ đền Văn Xương Đế Quân. Tượng thần ở đây ba lần trong ba ngày liền đều đúng giữa giờ Thìn thì đứng lên hướng về Tam Đái. Ở Tam Dương núi Trống (Cổ Sơn) nửa đêm nổi những tiếng ầm ầm, rõ ra là tiếng trống thúc. Ngã Ba Hạc liền trong ba ngày nước xoáy hút cao lên đến ba thước, trông như cột nước dựng đứng. Đấy là điềm núi sông chuyển mình báo hiệu vua ra. Đế Quân đứng dậy lạy mừng! Bây giờ vào đầu tháng Bảy, mưa thuận gió hòa trời trong xanh cao, hiển linh đất trời ứng cả vào thời vận của bậc Đế Vương rồi. Chẳng còn gì phải thắc mắc nữa! Mừng Sứ quân vạn phúc! Vạn phúc!

Sứ quân mừng quá, lưỡi cứng nói chẳng nên lời. Mãi mới nói được rõ ràng, kính cẩn mời đạo sĩ ở lại để ngài được đãi đằng thù tiếp. Đạo sĩ một mực chúc tụng Sứ quân, chối từ mà rằng:

- Bần đạo vân du khắp cõi Giao Châu ta, cậy có chút hiểu biết cơ trời. Nay thấy vận nước sắp hanh thông, bậc đế vương xuất hiện, mừng quá đến tiết lộ cả bí mật của thiên đình. Tội ấy ắt không cãi được! Vậy chẳng dám ở lại đây lâu để nhận mừng của Sứ quân. Chỉ xin được lạy mừng bằng hai tiếng “Đại Vương” rồi trở lại ngay núi cao nơi rừng thẳm để tạ tội với Trời!

Chưa bao giờ Sứ quân lại nghe có người xưng tụng mình là “Vương” mà lại là “Đại Vương”, thì mặt hớn hở rạng rỡ. Ngài khiêm tốn nói:

- Ta không dám, không dám! Xin hỏi đạo trưởng thần tiên một câu chót: Liệu khoảng nào thì mệnh trời ứng hợp cho bản xứ?

Đạo sĩ tươi cười, đáp:

- Bẩm đại vương, mừng quá thành ra suýt chút nữa bần đạo quên mất! Cứ theo như tướng mệnh đã nói về cặp mắt của đại vương. Lại thêm các điềm ứng hội, phong thủy giao hòa. Thì trăng tròn tháng Tám năm nay là lúc thiên văn lên cao nhất để bước vào hoàn khí của trời đất, lúc ấy đại vương quang xuất đế nghiệp!

Rồi đạo sĩ tạ từ, thẳng tay đập mảnh đá “Tri Thiên Cơ” xuống sàn cho vỡ tan rồi ra đi. Trước khi đi lại mấy lần dừng bước ngắm nghía Sứ quân, mấy lần lạy chào “Đại Vương” rồi mới chịu đi hẳn.

Đạo sĩ đi rồi, Sứ quân cùng chúng thuộc hạ liên miên hội nghị tâng bốc nhau. Lại bàn việc nước xếp đặt trước các việc đăng quang lên ngôi hoàng đế. Sứ quân bảo với nàng Hoa Lê:

- Phen này tất nàng phải là chính cung hoàng hậu. Lúc ấy “trẫm” phong cho hậu mĩ hiệu “Hoàng Oanh Hoàng Hậu”!

Hoa Lê buổi niên thiếu mỹ lệ rực rỡ bao nhiêu, nay ở vào lúc tuổi cao già dặn của nhau sắc đang kì huy hoàng quyến rũ. Nghe Sứ quân nói thì chẳng khỏi mừng rỡ, nhưng vốn thông minh sắc sảo, lại hỏi:

- Đế vương xuất hiện, tất bậc anh liệt ấy phải có những hành động như thế nào trước. Vậy Chúa công có sửa soạn gì chưa?

Nguyễn Khoan hăng hái:

- Ta là chân mệnh, lại đang ở ngôi Sứ quân, thì như thế đã là sửa soạn cả ngần ấy năm rồi còn gì? Đến lúc lên ngôi, có người đang ở nơi rừng sâu núi thẳm cũng có người đến đón lên ngôi, có người còn đang lầm than ở chốn ngục tù, có người làm những nghề hạ tiện, chẳng cần phải làm gì cả ngôi trời cũng tự về tay. Ta hơn những người ấy, không cần phải làm gì hơn, trăng rằm tháng tám năm nay là lúc ta khởi đầu nhận mệnh trời. Vậy ngay từ bây giờ cho trăm họ, trăm tướng của ta được sửa soạn để đón Hội Mừng Trăng Tháng Tám thật lớn lao, thật huy hoàng để đánh dấu ngày ta đăng quang!

Thế là lệnh Sứ quân ban ra, văn thần sửa sang lại tư phủ cho đẹp đẽ, võ tướng bồi dưỡng lại chiến bào ngựa trận binh khí, quân sĩ được thay áo mới hết, trăm họ được miễn hẳn mọi đóng góp, lại cho phép mặc sức tùy lực mà sửa soạn đón lễ hội hàng năm. Đặc biệt năm nay còn sửa soạn để mừng Sứ quân lên ngôi báu nữa vì thế Tam Đái ầm ầm chuyển động. Chẳng phải là chuyển động đưa binh ra trấn giữ hiểm địa phòng binh ngoài, mà là sửa soạn lễ hội hàng năm thêm lễ mừng vua mới lên ngôi. Chưa bao giờ Tam Đái lại huy hoàng như thế, trời đất quả thật cũng như chiều lòng người: Tháng bảy ngày rằm mưa chỉ lất phất, nắng êm gió dịu, trăng sáng, sư sãi mở rộng cửa chùa mở các khóa lễ liên miên. Vào đầu tháng tám không gian thời tiết lại càng đẹp, nhưng chẳng có gì lại đẹp bằng trong lòng Sứ quân mong đợi từng ngày cái ngày trăng tròn tháng tám!

Tình hình Tam Đái thế nào, Hoa Lư biết cả. Ngay từ giữa tháng bảy Vương đã biết đại kế của Quân sư. Các tướng đã được lệnh. Quân sư đã mạnh khỏe hoàn toàn nhưng ẩn thân không xuất hiện. Vào đầu tháng tám Vương thường kín đáo đến tận chỗ Quân sư để nghị bàn.

Lúc ấy Vương hỏi:

- Ngài nằm trên giường bệnh vẫn xếp đặt việc ngoài thiên hạ, ru ngủ cả Tam Đái. Sao không cho binh tướng của ta hành động ngay, lại chờ đợi đến giữa tháng tám làm gì cho chậm trễ?

Quân sư đáp:

- Bẩm trình Vương. Ta chậm lại chẳng mấy ngày, thế nào cũng tránh được những việc thê thảm như ở Hồi Hồ. Có chết cũng chỉ có Sứ quân Nguyễn Khoan mà thôi, nếu ông ta lúc ấy hiểu ra thì cũng chẳng phải thiệt thân. Vả lại, đạo trưởng thần tiên của ta xong việc Tam Đái còn phải lên Phong Châu bảo cho Điền Bạc tin chắc là tôi đã chết. Điền Bạc không phải là người nghe thế nào thì tin thế ấy, ông ta không như Nguyễn Khoan đâu!

- Dù Điền Bạc có thế nào chăng nữa, thì một Phong Châu chống lại ta được chăng?

- Phong Châu không chống lại được ta, nhưng thế nào Phong Châu cũng cự chiến chống ta kịch liệt. Giao Châu đại chiến, là trăm mắt tế tác Bắc phương nhìn vào. Triệu Khuông Dẫn đang như con cọp rình cơ hội là vồ ngay con dê chạy nhanh đang đánh nhau. Ta dù có phải chiến lớn với Phong Châu nhưng cũng phải làm sao để cuộc chiến rõ ràng chỉ là giao tranh ở một nơi nhỏ bé, chứ không phải là Giao Châu hỗn loạn.

Vậy là binh tướng Hoa Lư đã sẵn sàng, chỉ còn đợi hội trăng tròn ở Tam Đái là hành động. Binh tướng Hoa Lư vào Tam Đái, giả dạng là dân Hồi Hồ, Hồi Hồ, Đỗ Động, Tế Giang được thanh bình. Nghe năm nay Tam Đái mở lễ hội lớn lắm, thì sắm sửa để đi chơi cho bỏ những ngày lầm than khổ cực. Vì thế ngay từ đầu tháng tám người ta đông lắm, bao nhiêu nhà trọ cũng không đủ. Thiên hạ tụ tập nhau lại thành từng đám đông tìm những nơi đất trống, rừng thưa không xa mà dựng lều lợp mái đợi chờ xem hội.

Tế tác trình về Phong Châu, Sứ quân Kiều Công Hãn vội mở đại hội bàn xét công việc. Vào hội, Sứ quân bảo:

- Nay, Giao Châu chỉ còn ta với Nguyễn Khoan, phía Nam thì Đinh Bộ Lĩnh đã lui về Hoa Lư. Ta nghe Khoan đang định lễ hội năm nay thì sắp đặt để lên ngôi chí tôn là thế nào?

Các tướng lao xao bàn tán, chẳng ai biểu tình hình. Sứ quân nhìn đến Quân sư Điền Bạc, thì họ Điền như đang ngủ say. Sứ quân hỏi:

- Này Điền quân, giữa lúc này mà ông còn ngủ ngon giấc được. Sao không thức dậy xuống Tam Đái mà mừng vua mới đi!

Hội nghị cười “ồ”, Điền Bạc hai mắt lim dim, chậm rãi thưa:

- Bẩm Chúa công, nếu Chúa công bảo thuộc hạ mang lễ xuống Tam Đái viếng tang Nguyễn Khoan thì tôi xin đi ngay. Còn như đi mừng Nguyễn Khoan đăng quang thì xin để cho binh tướng Hoa Lư đến mừng!

Sứ quân kinh ngạc hỏi:

- Tại sao Điền quân lại bảo là đi viếng tang Nguyễn Khoan?

- Bẩm, Khoan đang chết mà không biết, chỉ trước hay sau khi trăng tròn tháng này là Tam Đái có thịnh sự. Hoa Lư làm sao lại để cho Tam Đái yên ổn mà làm theo ý mình như thế được!

- Bộ Lĩnh lui binh về Hoa Lư, Quân sư Lê Thảo của y đã chết, sao lại còn Hoa Lư nào gây rối ở Tam Đái nữa? Ta nghĩ: Sao ta không xuất binh, bất thần đánh lấy Tam Đái trước, thế là có lợi hơn không?

Điền Bạc hai mắt lại như sắp khép kín, ông thưa:

- Bẩm Chúa công, Bộ Lĩnh về Hoa Lư, Quân sư Lê Thảo đã chết, chẳng qua chỉ là mẹo lừa. Y lừa được Nguyễn Khoan, chứ làm sao lừa được Phong Châu ta! Thuộc hạ đã thấy từ trước, nên mới xin Chúa công thu xếp gom hết sức mạnh của thiên hạ, đợi ngày chiến với Hoa Lư. Nay sức ta mạnh, binh đông tướng nhiều, kể thì có thể ngang ngửa với Hoa Lư. Ta sẽ chiến, còn như mê ngủ như Nguyễn Khoan thì ta sắp thấy loạn đến nơi rồi!

Điền Bạc vừa nói đến đây, có tin trình vào Sứ quân: “Trước phủ đường có một ông lão, bảo là xin vào gặp Sứ quân nói việc lớn”. Hỏi thì ông ta bảo cứ vào trình. Sứ quân Kiều Công Hãn tính nóng nảy, hung ác, ít chuộng những việc cơ mưu trí xảo. Sau vì những việc Điền Bạc thành ra cũng có thay đổi tính nết, cũng có phần biết xem trọng văn sĩ. Nay nghe trình thì bảo:

- Vậy cho y vào!

Quân dẫn vào một ông lão râu tóc dài bạc trắng như mây. Ông lão xem ra phong độ trưởng giả, mắt nhìn như sao sáng. Tướng đi như mệnh quan lớn của triều đình. Điền Bạc thay Sứ quân ra đón ông lão.

Đến trước Sứ quân, ông lão vòng tay thi lễ, rồi bảo:

- Tôi là người ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên) vâng lệnh Tống Thái Tổ mật du Giao Châu. Vào gặp Sứ quân nói việc lớn?

Thật là bất ngờ, Sứ quân chợt thấy tâm cơ rung động. Người của Tống triều bất thần mật du phương Nam, tất có việc lớn, ngài cung kính hỏi:

- Lão đại phu là người của Thái Tổ sai đi công việc, chẳng hay là việc gì?

Nguyên, lúc bấy giờ quan Tri coi Ung Châu là Hầu Nhân Bảo cho người ráo riết thám sát tình hình nước Nam. Biết rõ nội tình nước Nam bất ổn, mấy lần trình sử về triều đình xin Thái Tổ cho xuất quân Nam chinh mà vẫn không được. Đến khi thấy binh tướng Hoa Lư trong một thời gian ngắn thu Đông diệt Tây, đánh dẹp các Sứ quân. Khiến cho thanh danh lẫy lừng, thì lại với dâng sớ về tình Tống đế rằng: “Nước Giao Chỉ nội loạn, nước sắp mất, xin đến bày tỏ tình trạng có thể lấy được Giao Chỉ”. Lư Đa Tốn thì đưa kế: “Nên xuất kì bất ý, đem quân tập kích, thế là sấm loang không kịp che tai. Nếu gọi Nhân Bảo về sợ mưu bị tiết lộ, thì Giao Chỉ biết mà phòng bị, không phải là kế vạn toàn”. Vua Tống cho là phải, đã xuống chiếu sai Tôn Toàn Hưng mang quân bộ, từ đường Ung Châu tiến vào nước ta. Lại sai Lưu Trừng mang quân thủy từ đường Quảng Châu tiến vào, hẹn ngày cùng đến.

Nhưng biên giới tin về cho Hầu Nhân Bảo, Nhân Bảo lại vội dâng sớ về Tống triều rằng: Binh tướng Hoa Lư một mặt dẹp các Sứ quân, nhưng lại dàn xếp đem quân chẹn giữ các nơi hiểm yếu. Xuất quân lúc này không được lợi, lại thêm Cổ Loa tuy tàn vong nhưng vẫn không có người nào dám đứng lên chỉ xử ngôi vua, danh nghĩa vẫn là triều đình nhà Ngô. Thành ra xuất quân lúc này không có lợi, nên chờ cơ hội khác thế nào Giao Châu cũng có loạn.

Vua Tống nghe lời tạm hoãn việc quân [→26] .

Ông lão kể việc triều đình nhà Tống cho Sứ quân Kiều Công Hãn nghe, rồi bảo:

- Nay, ta vâng lệnh Tống đế xuống Nam, chọn ông là người hùng liệt, giang sơn ở sát Cổ Loa. Vả lại nay chỉ còn lại hai Sứ quân, thì chỉ mình ông là đủ sức chống lại Đinh Bộ Lĩnh, giữ lấy ngôi chủ tể Giao Châu. Ông nên vâng lời Tống đế sửa soạn mọi việc sẽ có Tống binh giúp đỡ. Chỉ cần một điều là sau khi thay nhà Ngô, nhà vua nên dâng sớ thần phục nhà Tống ngay là được.

Sứ quân mừng như mở cờ trong bụng. Ngài chưa kịp nói thì “Trường Miên Quân” Điền Bạc lên tiếng:

- Thưa ngài, Tống đế anh hùng đánh đông dẹp Bắc, mở nước. Lại còn nghĩ đến cõi Giao Châu bé nhỏ chúng tôi thật là quý hóa. Chúng tôi xin tuân thánh ý dàn xếp mọi việc. Thưa ngài, nếu vậy, thì đức vương thượng có chỉ bảo gì cho chúng tôi phải ra binh thế nào chăng?

Lão trượng đáp:

- Phải, Tống đế anh hùng nhìn việc binh là trọng, cho nên có dặn: Đinh Bộ Lĩnh trước sau gì cũng sẽ lấy nốt Tam Đái, thế nào cũng từ Tam Đái xua quân lên Phong Châu. Vậy Sứ quân hãy đưa hết binh tướng xuống phía Nam. Lúc này Tam Đái sắp mở hội lớn, Sứ quân thờ ơ sơ hở dễ bị Hoa Lư đánh. Lúc ấy không kịp trở tay, binh Hoa Lư có thể thừa thắng lên Bắc. Vậy phải chặn kín phía Nam, phía Bắc Phong Châu sẽ có binh Tống triều bí mật xuống Giao Châu yểm trợ. Tống đế có dặn: Đợi khi nào Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Sứ quân Thái Bình, thì Sứ quân phải tiến binh ngay chặn Bộ Lĩnh. Sau đấy thì Tống binh mở đường để đưa Sứ quân về Cổ Loa.

Sứ quân Kiều Công Hãn mừng quá, các thuộc tướng cũng thấy hân hoan. Nhìn ra vẫn thấy Điền Bạc lim dim như đang ngủ gật. Ông lão nói xong, Sứ quân hỏi:

- Lúc này Cổ Loa suy vi, có lần Hoa Lư đi sát Cổ Loa mà chẳng dòm ngó. Lại cho một đạo quân trấn ở Bắc Cung Thương, ngăn chặn giữa đường Tam Đái lên Phong Châu. Nếu ta mang binh xuống Nam liệu có xảy chiến tranh không?

- Đinh Bộ Lĩnh vào Hồi Hồ, Quân sư của y bị bạo bệnh mất trí điên rồ mà chết. Y đã cho binh trở lại Hoa Lư rồi, như vậy đạo quân Bắc Cung Thương của y thế nào cũng được lệnh gấp lui về. Nếu như Sứ quân dàn hết quân xuống phía Nam, sức mạnh ấy đạo quân nào của Hoa Lư trấn ở Cung Thương dám đương cự? Vả chăng, như ta đã nói: Tống triều bí mật cho quân xuống yểm trợ cho Sứ quân ở phía Bắc Phong Châu. Nếu đạo quân Cung Thương của Hoa Lư động cựa là binh thiên quốc ra tay ngay!

Lão vừa nói xong, Điền Bạc mở hai mắt toan nói, thì quân trình vào: Tế tác phía Đông của ta theo dõi đạo quân Hoa Lư ở Bắc Cung Thương. Thấy đạo quân ấy bí mật rút đi lúc nào không hay rồi!

Ông lão vênh mặt, hỏi Sứ quân:

- Sứ quân thấy thế nào? Lời ta nói sai chăng? Hoa Lư quả nhiên biết thế yếu của mình đã lui rồi. Bây giờ Sứ quân xuất binh trấn giữ phía Nam được chưa?

Sứ quân mừng quá, quên cả thân phận mình chực đứng lên vòng tay vái tạ. May mà kịp kìm hãm, vui vẻ cung kính bảo:

- Bản sứ xin nghe lời! Ông lão ra về, dặn dò Sứ quân lần nữa, lại bảo:

- Bao nhiêu cử động của Sứ quân, triều Tống đều hay biết cả, không cần phải có liên lạc thêm dễ sinh dị nghị mai sau!

Từ đây chẳng ai còn thấy lão đâu.

Quân sư Điền Bạc lại như đang chìm trong giấc ngủ. Ông đã nghe hết những lời khách lạ nói, lại thêm tin tế tác mới trình vào về việc Hoa Lư bí mật rút kinh đi đâu. Quân sư thắc mắc nhiều lắm, ông thấy có nhiều điều không ổn! Nhưng một mặt vâng lệnh Sứ quân, các tướng dồn hết binh xuống phía Nam rặng Tam Đảo. Ở đấy ông bày trận gọi là “Thiên Địa Giao Hòa”. Ông thưa với Sứ quân:

- Vạn nhất nếu có điều gì sai lạc, có bất ngờ nào xảy ra, thì ta cũng vẫn còn một trận để chiến lâu dài với binh tướng Hoa Lư. Tất cả mọi tin tế tác của ta, ngay cả tế tác của triều Tống cũng đều nói là Quân sư Lê Thảo của Hoa Lư đã mạng vong, đấy là một điều mừng. Lê Thảo chết, ta đỡ một một phần mối lo. Nếu quả thật Chúa công đến ngày đại vận phát, ta thắng Hoa Lư, thì rõ ràng là trời sai Hoa Lư dọn dẹp đường cho quang đãng để Chúa công rộng đường đến Cổ Loa!

Sứ quân Kiều Công Hãn cảm thấy ngây ngất như người đang bay lượn trên mây. Ngài mừng đến không nói ra lời được. Trường Miên Quân Điền Bạc vốn ít nói, thế mà ngày hôm nay ông phải nói nhiều đến thế! Sứ quân mừng một, các thuộc hạ của Sứ quân mừng mười. Ngày mai mới thật là huy hoàng, sung sướng!

Thế là sứ mạng của lão tướng lên phía Bắc sông Bạch Hạc đã xong. Lão tướng trở về mới hay Quân sư lâm bệnh nay đã khỏe mạnh, lại nghe về các quyết định của Sứ quân Nguyễn Khoan thì ông hồi hộp lắm. Trong cuộc đời làm tướng mang binh đối trận chiến với địch, thuần là những ầm ĩ, reo hò, máu và cái chết. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời ông mang lệnh vào chiến trường một mình. Không mang khí giới, nhưng sắp thắng một trận lớn. Có nằm mơ cũng chẳng bao giờ ông dám nghĩ tới!

Càng đến gần ngày Rằm tháng Tám, tức là ngày Lễ Hội Mừng Trăng của Tam Đái. Sứ quân Nguyễn Khoan, các thuộc hạ của ông càng như thêm bận rộn. Bá tánh triền miên suốt ngần ấy ngày được nghỉ ngơi, tài sản có bao nhiêu đem dốc hết ra mở lễ. Từ Sứ quân trở xuống các tướng văn võ, quân binh đều mệt nhoài với ăn chơi thâu đêm suốt sáng, với lễ hội. Trong mệt mỏi ấy chẳng ai lại không cảm thấy hài lòng!

Và hôm nay là sớm ngày Rằm, trăng mười bốn đêm vừa rồi rõ ràng là sáng hơn mọi năm. Trời đất cũng hớn hở mừng bậc nhân thần. Sứ quân, các thuộc tướng, trăm họ, ngay từ tinh mơ tự nhiên trong lòng thấy nôn nao, có điều lạ lớn lao hôm nay sẽ xuất hiện liên quan đến số phận của cả cõi Giao Châu: Vua mới ra đời! Vua mới ra đời như thế nào, không một ai được biết, phải đợi đến lúc trăng tròn chắc lúc ấy mới thấy việc lạ xuất hiện. Và chẳng ai lại không nóng lòng đợi đến nửa đêm hôm nay!

Từ lúc trời sắp ngả về chiều, trên sông Bạch Hạc suốt từ Mộng Thất Sơn ngược lên đến tận Ngã Ba Hạc, dòng sông nghẹt thuyền hội, cờ xí rợp trời. Ở xa nhìn đến, nếu không biết nơi ấy là dòng sông lớn, thì phải cho rằng nơi ấy là một vùng đất bao la, thiên hạ tụ tập về động quá. Phía Bắc rặng Tam Sơn ngược lên đến tận Cung Thương, bá tánh lẫn với những doanh trại binh sĩ ra vào tấp nập. Ai cũng áo quần tươm tất đẹp đẽ, binh sĩ không mang vũ khí. Có nhiều nơi doanh trại còn mở rộng cửa để cho người thân của binh tướng được tự do ra vào, cùng chung hưởng lễ mừng. Suốt từ ngày ngài Nguyễn Khoan xưng hùng, tụ tập thuộc hạ, xưng là Sứ quân chiếm giữ cả vùng Tam Đái này. Chưa bao giờ lại có cảnh lạ như chiều hôm nay. Chẳng còn một nơi nào lại chẳng có lễ hội. Trên các quan lộ lâu lâu lại thấy có đám rước các huyện lệnh các nơi kéo về phủ đường. Không một thuộc quan nào ở địa phương lại không muốn đến trước để Sứ quân thấy mình, đợi chờ để tung hô vua mới lên ngôi! Những đám rước dù quân tướng dẫn đường có trống giục chiêng khua hò hét dẹp đường cũng không làm ai tức giận hay sợ sệt.

Trẻ con áo quần đẹp tung tăng khắp nơi, tụ tập thành từng đám đông chừng chục đứa. Nắm tay nhau vừa nhảy vừa hát:

Trăng rằm lễ hội Mừng vua xuất thế Thái hòa an lạc Bình an bờ cõi

Hoa nở khắp nơi Lê dân hết khổ Hoàng thiên chứng giám Hậu thổ phù trì

Giao Châu mãi mãi Hạnh phúc ấm no

Hát hết câu cuối bầy trẻ hai đứa một ôm nhau quay vòng vòng, rồi lại nối tay nhau mà nhảy múa hát tiếp.

Tại phủ đường, cờ lớn nhỏ treo khắp nơi, những cột đuốc trồng lên khắp các nẻo. Lát nữa đây, ngần ấy cột đuốc sẽ cháy sáng, chắc là con kiến bò trong cỏ cũng trông rõ! Trong đại sảnh trần thiết phảng phất như đại điện nơi triều đình vua thiết triều. Sứ quân nghe theo ý kiến của nhiều người, ai cũng bảo là mình đã được thấy quang cảnh đại diện nơi vua thiết triều ở Cổ Loa, để chỉ vẽ cho Sứ quân bày thứ này ở chỗ này, thứ kia ở chỗ kia, ghế của vua ở nơi cao mấy bậc, các quan văn ở phía nào, võ tướng đứng ở đâu, nơi nào hoàng hậu ngự, chỗ nào quân đứng hầu! Đại sảnh thuần dùng nến sáp ong lọc trắng tinh, đốt không có khói, soi tỏ từng gầm ghế, từng góc phòng ở xa.

Gần cuối giờ Tuất, trăng đã lên cao. Lần thứ tư Sứ quân vào đại sảnh thử lại lần nữa cách đi lại, đứng ngồi, văn quan võ tướng lũ lượt theo sau cười nói. Ngài ngồi trên ghế cao nhất, hỉ hả nhìn xuống trăm tướng văn võ phía dưới, ghế bên dành cho “hoàng hậu” còn để trống. Sứ quân hỏi:

- Tất cả còn chỗ nào chưa vẹn toàn không? Xong cả rồi thì đúng khi vừa dứt giờ Tuất bước sang Hợi. Ta sẽ làm lễ bái trời đất khai hội!

Bên ngoài, nhiều tiếng trẻ con hát bài đồng dao nghe rõ mồn một. Sứ quân chợt hỏi:

- Trẻ con hát gì thế?

Tức thì văn sĩ mưu sĩ Hàn Đồng, vốn là kẻ gian giảo nịnh hót, theo phe với Tịnh Nhật Đại Tăng, tranh công lên tiếng:

- Bẩm Chúa công đại phúc, từ mấy ngày nay trẻ con khắp nơi tự nhiên hát bài hát không biết ai chỉ vẽ cho, nhưng cứ nghe lời lẽ trong bài hát ấy thì chắc là bá tánh bày ra để mừng Chúa công!

Sứ quân hớn hở:

- Bá tánh bày ra bài hát để con trẻ hát mừng ta như thế nào?

Các quan im lặng, ông nào cũng có nghe trẻ con hát nhiều lần bài hát ấy, chẳng ai để ý. Bây giờ Sứ quân hỏi thì ai cũng tiếc là mình chẳng để tâm suy nghĩ, lỡ mất một cơ hội để vui lòng Sứ quân! Không vui hơn cả là Tịnh Nhật Đại Tăng, ông xưa là một tướng cướp chẳng bao giờ biết đến sách vở chữ nghĩa là gì. Nay việc này ông không thể nào tranh hơn được với Hàn Đồng, nhưng nghe Sứ quân hỏi thì nói:

- Phải, con trẻ ngây thơ, nói toàn điều đúng, chẳng thế mà có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Chúng hát mừng Chúa cũng là đúng. Hàn học sĩ nên trình rõ để Chúa công ngự lãm!

Tịnh Nhật đem đến hai tiếng “ngự lãm” ra để nịnh mừng Sứ quân. Sứ quân mặt vuông phè khoan khoái lắm. Hàn Đồng thì được Tịnh Nhật nâng lên đến hai tiếng “học sĩ” thì cũng nở nang từng khúc ruột, bèn lên tiếng:

- Bẩm Chúa công, suốt từ hai ngày nay tôi để ý tìm nghĩa của bài đồng dao. Thường thì những bài hát ấy chẳng phải là vu vơ chẳng có ý nghĩa gì. Có khi nó rõ ràng ngay trước mắt mà không uyên thâm thì không hiểu được. Có khi nó mù mờ như lời báo trước của điềm trời thật vô cùng khó hiểu! Như trong bài hát con trẻ đang hát suốt mấy ngày nay, thì ý nghĩa thật rõ ràng. Chắc là để nói rõ về một việc thật hiển nhiên là Chúa công làm vua, có hoàng hậu!

Sứ quân hỏi vội:

- Ta làm vua, có hoàng hậu thế nào?

- Bẩm, bài đồng dao ấy câu mở đầu đã nói rõ là mừng hội trăng rằm, câu này thì ai cũng biết cả. Đến câu thứ hai, thì cũng rõ ràng: “Mừng vua xuất thế”. Vậy vua xuất hiện là vua nào? Bẩm tình Chúa công, hai câu tiếp theo Chúa công cứ lấy tiếng đầu của mỗi câu đem ghép lại, xem có phải là nói về Chúa công đấy hay không?

Trên từ Sứ quân, xuống đến các tướng văn võ, thảy đều chú hết tâm, lẩm nhẩm đọc. Rồi cả nghị sảnh bỗng “ồ” lên, tiếng kêu mừng vui lạ lùng. Hai chữ đầu ấy là “Thái Bình” tức là tên hiệu của Sứ quân. Vậy là bốn câu đầu đã nói rõ “Trăng rằm lễ hội, mừng vua Thái Bình xuất thế”. Sứ quân mừng quá đỗi, Hàn Đồng tiếp luôn:

- Bẩm Chúa công, bốn câu sau những chữ đầu nói rõ là “Hoa Lê Hoàng Hậu”, thật là đã rành rành?

Chẳng ai lại không lên tiếng tỏ sự vui mừng. Sảnh đường xôn xao lớn, thế nào thì sắp thấy có việc lạ để cả cõi được thấy đức vua mới xuất thế. Vua ấy chính là ngài Nguyễn Thái Bình, Sứ quân Tam Đái.

Nghị sảnh ồn ào, cả trăm cây bạch lạp sáp ong ngùn ngụt cháy, sáp ong tinh lọc không khói bốc mùi thơm. Sứ quân vui quá đỗi, ngài bảo:

- Bài đồng dao ấy, không biết trẻ con lấy ở đâu ra nhỉ?

Câu hỏi này, thì Tịnh Nhật Đại Tăng trả lời được. Cho nên ngài cướp lời nói ngay, kẻo để chậm lỡ có người khác nói mất! Tịnh Nhật thưa:

- Bẩm tình Chúa công, những bài đồng dao thường thường là do người trong trăm họ nhìn thấy thời thế, hiểu được cơ trời nói ra. Cũng lại có khi thần thánh theo lệnh Trời mà cho những bài đồng dao xuất hiện, chỉ cho con trẻ ngây thơ biết để loan truyền trong thiên hạ. Nay, đồng dao đã nói thế, thì hiển nhiên là chỉ lát nữa đây, cùng lắm là đến nửa đêm trăng rằm này, là ta thấy được việc lạ thiêng liêng của trời đất!

Sảnh đường rực rỡ vô cùng, ai cũng thấy nô nức trong lòng, mong đợi quá chừng. Mong đợi ra sao thì chẳng ai hiểu, chỉ thấy trong dạ nôn nao không thể nào kìm hãm niềm vui được.

Trong số các võ tướng, thì tướng Phúc Nghiệp Trình là người lo lắng nhiều đến an toàn của Tam Đái. Liên miên nhiều ngày bao nhiêu là tin lạ, nhiều đều dáng để người làm tướng phải lưu tâm. Ông nhiều lần đem những lo lắng của mình cùng với tướng Mai Thanh Đạt kín đáo đi bàn riêng với mưu sĩ Từ Duyên. Từ Duyên vốn là người đọc sách, không ưa việc kéo bè kết đảng để mưu những việc gian tham. Cho nên chỉ là một người được Sứ quân tin mà không yêu, nhưng những người ngay thẳng thì rất hiểu Từ Duyên.

Trong hội, Từ Duyên không thể lên lời, nhất là những lời ông muốn khuyên can Sứ quân nên thận trọng. Cho nên khi nghe hai tướng hỏi, ông đáp:

- Bao nhiêu tin tức đều nói toàn là những việc có lợi cho ta, toàn là những việc tốt đẹp. Giữa lúc Hoa Lư chỉ trong một thời gian ngắn là lấy xong nhiều nơi, lại vừa xong việc Hồi Hồ, thế mà đã lại vội vàng rút hết đi. Đinh Bộ Lĩnh trở lại Hoa Lư, rồi thì Lê Thảo đã chết. Tam Đái ta lễ hội tưng bừng thế này đến ngay như thời an lạc thái bình cũng không sánh bằng. Tôi thấy có nhiều điều nghi ngờ lắm! Tôi chỉ là thuộc cấp nhỏ bé, giúp ý kiến cho ông Mai Thanh Đạt ở chốn phủ đường này chứ chẳng thể thưa lời lên Sứ quân được. Hai ông nên cẩn thận!

Thế là tướng Phúc Nghiệp Trình nghe lời. Sửa soạn đi hội quân trấn giữ các nơi, tướng phòng canh phủ đường là Mai Thanh Đạt thì rời sảnh, lên ngựa đem theo thuộc hạ đi xem xét việc quanh phủ.

Mai Thanh Đạt đi chưa lâu đã vội chạy đi tìm Phúc Nghiệp nói cho hay: Dân chúng các nơi kéo về xem hội đông quá, giả sử có giặc trà trộn vào thì không làm sao ngăn chặn nổi. Phúc Nghiệp Trình nghe nói thì kinh hãi vội về bản doanh triệu tập chúng binh tướng. Nghiệp Trình làm sao triệu tập được binh tướng trong lúc này? Gần như chẳng còn binh tướng nào lại không đi dự hội, doanh trại trống không, chẳng nơi nào canh giữ. Tình hình hết sức nguy hiểm. Hai tướng bảo nhau gấp vào trình xin lệnh Sứ quân.

Hai ông vừa vào đến cửa phủ, đã nghe tiếng hò reo như sóng biển động. Trống giục tưởng trời đang ụp xuống. Hai tướng kinh hoàng thét lớn:

- Có biến! Có biến!

Bên trong phủ đường, Sứ quân cũng như hết thảy các tướng đều nghe thấy bên ngoài ầm ầm. Lại tưởng là chúng dân hò reo mừng lễ hội, nhưng đến khi tiếng trống trận giục vang vang thì hồn vía lên mây. Lúc nghe hô “có biến” thì chẳng ai bảo ai, tất cả đều chen lấn nhau chạy ra ngoài. Chẳng biết chạy đi đâu để làm gì?

Lúc ấy, hai bên bờ Bạch Hạc chúng dân đông nghẹt, khắp nơi quanh phủ đường chẳng nơi đâu lại không có người chen chúc. Tất cả chờ đợi lúc Sứ quân cho lệnh khai hội, lại nghe nói kỳ lễ hội trăng rằm năm nay Sứ quân cho làm lớn lắm. Ngài sắp lên ngôi vua vì thế lễ hội phải cho xứng đáng. Bá tánh rủ nhau đi xem lễ vua ra, một đời người mấy ai được thấy những việc lớn lao như thế!

Đến lúc về khuya, vừa bước sang đầu giờ Hợi, thì bỗng nhiên lửa bật cháy ở chợ Vĩnh Mộ. Mới đầu ai cũng nghĩ là lửa lệnh bắt đầu, nhưng rồi người xô nhau chạy la hét thì mới biết là cháy chợ! Cùng lúc ấy, trên sông hàng trăm thuyền trang hoàng dự lễ nhiều cái cũng bốc cháy, rồi tiếng hò reo hớn hở, trống giục ran ran. Binh tướng lạ từ dưới sông tràn lên bờ, khắp mặt náo loạn. Chớp mắt nơi nào cũng thấy binh tướng lạ xuất hiện. Bá tánh kêu trời kêu đất đi xem hội lớn, hóa ra vướng vòng binh lửa. Chưa ở đâu lại có cảnh điên cuồng hoảng loạn đến như thế này!

Binh Hoa Lư từ Tam Sơn do tướng cũ của Lữ Đường là Lương Tích Lịch cai quản, có thêm tướng Quách Cước Đồng phụ tá giám quân. Hai tướng được thủy quân của tướng Nghi Bà Tường đưa đến từ trước, đúng hẹn được lệnh thì thúc quân bỏ Tam Sơn tiến lên hướng Tây Bắc. Hai tướng đã nghiêm lệnh cho quân không được chém giết dân chúng, không được đốt phá nhà cửa của dân, phải hết sức tránh gây thiệt hại cho dân. Binh tiến như vũ bão, trên đường đi chẳng phải vất vả chống cự với binh nào, nhưng lại phải thận trọng tránh dân!

Ở phía Nam Tam Đái, sát dòng Bạch Hạc chỗ dòng sông uốn khúc. Tướng Triệu Đồng Long theo quan thủy của tướng Nghi Bá Tường nấp vào lau lách lên bờ, đến khi nghe tế tác đến trình: Hồi Hồ đã xong, lệnh đổ bộ, thì Triệu Đằng Long cho quân hết sức lặng lẽ lên bờ, lại nương vào địa thế hoang vu, ẩn vào lau sậy, đợi có lệnh mới. Triệu Đồng Long là tướng trẻ, mặt đẹp, rất giỏi, tính tình điềm tĩnh biết suy nghĩ. Nay vâng lệnh mang trọng binh trấn giữ một nơi để vào trận thì sung sướng lắm. Đến quân xuất phát, binh đông mười nghìn mà đi không gây ồn ào. Tế tác dẫn đường cho Long trẩy quân, nhắm phía Nam phủ đường Tam Đái xốc tới.

Khi binh của Triệu Đồng Long tới sát phía nam phủ đường, thì ở má Tây thủy binh của tướng Nghi Bá Tường do phó tướng Đào Long Vân cai quản cũng đã lên bộ tràn tới. Triệu Đồng Long cho lệnh nổi lửa đốt chợ Vĩnh Mộ, nổ pháo hiệu để các mặt vào trận. Thế là cả vùng phủ đường Tam Đái, chớp mát chìm trong hỗn loạn.

Ở phía Bắc, tướng quân Phạm Cự Lượng được tế tác liên miên trình tin. Chẳng còn việc gì ở phủ đường Tam Đái tướng quân lại không biết, đến khi được lệnh xuất quân thì tướng quân mang hết binh vào trận. Tướng quân vào trận chậm nhất vì đường xa, và lệnh chỉ được đưa đi lúc ba mặt quân đã vây phủ đường. Tướng quân còn phải đợi tin tế tác cho biết về tình hình của Phong Châu, do đó đến chậm hơn ba mặt kia là vì vậy!

Tướng trẻ Triệu Đồng Long sai trương cao cờ hiệu Hoa Lư, rồi hô quân tràn tới. Vừa lúc tướng Phúc Nghiệp Trình một mình một ngựa đi ra xem xét tình hình. Thế là hai tướng chẳng nói chẳng rằng, cuốn lấy nhau mà đâm chém.

Cùng lúc ấy, Phòng Đường tướng là Mai Thanh Đạt đã kịp thấy sự việc quay ngay trở lại phủ đường và hô có biến!

Sứ quân kinh hoàng, các tuớng lại còn kinh hoàng hơn cả Sứ quân. Chẳng ông nào đem khí giới, trong lúc nguy ngập nhìn ra đã thấy Tinh Nhật Đại Tăng trút bỏ áo nhà tu, thì các tướng chợt hiểu ra. Chẳng ai bảo ai, ông nào cũng vội cởi bỏ nhung phục đại lễ để dễ bề lẩn trốn!

Mưu sĩ Từ Duyên của Phòng Đường tướng chẳng nói một lời, chạy đến nắm tay Sứ quân kêu lên:

- Chúa công mau theo tôi!

Từ Duyên kéo Sứ quân chạy ra ngoài, nhìn quanh chẳng thấy có tướng nào cả. Chỉ thấy vương vãi khắp nơi nhung phục của các tướng! Từ Duyên vừa đưa được Sứ quân ra ngoài, thì bên trong đại sảnh đã bốc cháy. Nhiều người còn chưa ra được, tiếng la hét kêu gào mới thật là thê thảm. Ngoài kia, dân chúng hoảng loạn một, thì trong phủ đường cảnh hoảng loạn còn gấp mười lần. May nhờ được hỗn loạn ấy mà Từ Duyên đưa được Sứ quân chạy ra ngoài, lẫn vào với bá tánh rồi cứ theo dòng người hết chạy ra Đông lại quay về Tây, rồi lại đổ xuống Nam, quay lên Bắc. Đi đâu cũng thấy một cảnh như nhau, ở đâu cũng thấy la hét và binh Hoa Lư khắp nẻo.

Từ Duyên tinh ý, thấy phía Bắc có vẻ yên ổn hơn cả, liền đưa Sứ quân chạy ra phía ấy. Lúc này hai thầy trò đã kiếm được ngựa. Từ Duyên nói với Sứ quân:

- Chúa công mau mau tạm cởi bỏ áo, để giặc không biết!

Từ Duyên nói đến ba bốn lần Sứ quân mới nghe ra. Ông lập cập toan cởi áo rồi bỗng nhiên lại bảo:

- Ta không phải cởi áo! Bậc đế vương cho dù lâm nạn cũng vẫn phải đủ phong độ! Ta biết, chỉ lát nữa thôi là giặc tan, mệnh trời đã giao vào tay ta?

Từ Duyên ngán ngẩm, ông đành dẫn Sứ quân vẹt đường chạy ra. Dọc đường có người trông thấy biết là Sứ quân thì kêu to lên:

- Sứ quân! Sứ quân! Hôm nay ngài lên ngôi vua!

Lửa đuốc khắp nơi, bây giờ trở thành đại họa. Bá tánh xô nhau lấn chạy, khiến cho đuốc lửa gây hỏa hoạn, chẳng mấy chốc cả vùng phủ đường Tam Đái chẳng phải vì binh biến mà tan hoang, lại tan hoang vì lửa đuốc mừng lễ hội. Thêm những quân lưu manh trộm cướp thừa cơ châm thêm lửa đốt chẳng kể là nhà dân hay nhà chức dịch của phủ Sứ quân, chợ búa, cầu kè...

Lúc Sứ quân chạy ra phía Bắc, đi đã được xa xa. Quay lại thấy cả phủ đường ngút lửa, tiếng hò reo của binh sĩ lẫn tiếng kêu la còn ầm ầm. Sứ quân như đã tỉnh ra tự dưng hai hàng nước mắt tuôn rơi. Sứ quân bảo Từ Duyên:

- Hóa ra mắc mưu Hoa Lư. Hôm nay là ngày sự nghiệp của ta tan nát chứ không phải là ngày ta lên ngôi vua!

Sứ quân vừa than dứt lời, đi lại nghe ở phía Bắc ầm ầm tiếng vó ngựa phi, rõ ràng là lại có quân binh đang tràn xuống! Binh nào? Chắc chắn không phải binh của Tam Đái về cứu phủ tường, vì tuyệt nhiên chẳng có đạo binh nào của Tam Đái ở phía Bắc, như vậy thì nguy rồi! Từ Duyên nói nhanh:

- Chúa công, mau mau chạy ra mé Đông, binh Hoa Lư ở Cung Thương đang tràn xuống rồi!

Đúng thế, đấy là đạo quân trấn ở Cung Thương của tướng quân Phạm Cự Lượng. Sứ quân nghiến răng, ngài tần ngần không muốn quay ngựa, bảo:

- Ta ra mạn Đông để đi đâu? Hai lần trong đời ta bị trúng mưu lừa. Một lần làm trò cười cho cả thiên hạ. Có cây Hàng Yêu đao cũng bị mất về tay Điền Bạc, mất cây đao ấy ta đã linh cảm thấy có ngày nguy hiểm, ngày ấy đã đến rồi đây! Đi ra phía Đông được ích gì, quay lại giết cho hả giận rồi chết là hơn!

Từ Duyên kêu lên:

- Chúa công, sao ngài lại nói thế! Cùng lắm, ta theo về với Hoa Lư cũng còn được mà! Trước đã có Phạm Phòng Át, rồi mới đây lại có Ngô Nhật Khánh, sao Chúa công không làm như hai người ấy?

Sứ quân Nguyễn Khoan xuất thân không phải là danh gia, đi lại trong thiên hạ trong tay một cây đao quý Hàng Yêu. Ngài có tính rất đa nghi, lại hiếu sát lắm, lúc cùng đường thế này máu hảo hán giang hồ nổi lên. Sứ quân thà chịu chết.

Thế là ngài gầm lên:

- Từ Duyên, ta cảm ơn ông đưa ta đi. Thôi ông hãy chạy đi, ta ở lại đây đánh giết một trận cho thỏa rồi về trời thôi!

Từ Duyên không nỡ bỏ Sứ quân mà đi, nhìn ra đã thấy đuốc lửa binh Hoa Lư từ phía Cung Thương ào tới. Từ Duyên lại năn nỉ:

- Chúa công, vẫn còn kịp, để tôi chặn đường bảo quân Hoa Lư nghênh đón ngài!

Rồi Từ Duyên chẳng đợi lệnh Sứ quân, giục ngựa chạy ra chắn giữa lối binh tướng Hoa Lư đang tràn tới như giông bão.

Từ xa, tướng quân Phạm Cự Lượng đã thấy một người trụ ngựa chắn ngang đường. Chưa hiểu là người này muốn gì thì một mũi tên như xé gió từ phía sau bay tới. Một tay cung thủ nào đấy của binh Hoa Lư đã phóng đường tên đi, và trong ánh đuốc lửa chập choạng tướng quân Cự Lượng thấy người chặn ngựa trước đường đổ xuống. Cùng lúc, có bóng người nữa quay ngựa bỏ chạy vào bóng tối xuống phía Nam.

Tướng quân Phạm Cự Lượng giục ngựa chạy lại, ra hiệu cho quân dừng bước. Cả bọn vây quanh người vừa ngã ngựa. Cự Lượng thấy người này không phải là một võ tướng, người này chưa chết. Ông không biết đây có phải là Sứ quân Nguyễn Khoan không, ông vội xuống ngựa.

Phạm Cự Lượng không biết người này là ai mà lại chặn đường binh ông rồi bị bắn. Mũi tên trúng giữa ngực, máu theo chỗ tên cắm trào ra. Hai mắt Từ Duyên mở trừng trừng nhìn lên trời cao, lúc ấy trăng tròn sáng vằng vặc. Phạm Cự Lượng sai quân đỡ đầu Từ Duyên lên. Duyên pbều phào:

- Sứ quân chủ tôi..., ngài đi xuống Nam, ngài... muốn theo về Hoa Lư...

Phạm Cự Lượng nghe vậy, vội bảo:

- Ông tạm nghỉ, ta đi tìm Sứ quân ngay!

Cự Lượng sai quân mau mau săn sóc cho Từ Duyên, nhưng Từ Duyên là văn sĩ chịu không nổi với một mũi tên xuyên ngực. Ông chậm chậm nhũn người, đầu lả sang một bên. Văn sĩ trung tín Từ Duyên đã tắt thở, Cự Lượng thở dài, lại lên ngựa đuổi theo Sứ quân.

Chưa biết Cự Lượng có tìm được Sứ quân hay không? Xin xem hồi sau sẽ rõ.

—ooOoo—