Hồi Thứ Một Trăm Mười Tám Cùng đường, Nguyễn Khoan thọ tử
Định kế thu phục Phong Châu
Sứ quân Nguyễn Khoan lúc ấy đoạt được một cây giáo dài, ngài trút nỗi giận, nỗi uất hận vào cả tay giáo. Sứ quân giục ngựa đi đến đâu là binh Hoa Lư mất mạng đến đấy. Sứ quân như một hung thần mở một đường cứ phía Nam giục ngựa chạy xuống, ngài chẳng biết ngài định đi đâu. Sứ quân xuống Nam đúng vào lúc tướng Triệu Đồng Long đang kịch chiến với tướng Phúc Nghiệp Trình.
Vừa thấy Sứ quân một mình một ngựa chạy tới. Tướng Phúc Nghiệp Trình bủn rủn tay chân, như thế này thì đại sự hỏng mất rồi, ông kêu to lên:
- Chúa công, mau đi đường này!
Cùng với tiếng hô gọi Sứ quân, tướng Phúc Nghiệp Trình đưa thanh Yểm Nguyệt hổ Đầu đao thẳng ra phía trước, khiến cho tướng Triệu Đồng Long hoang mang. Không hiểu tướng Tam Đái định đánh thế nào, thì cây đao đã như một dải cầu vồng vắt ngang trời, đường đao đi vừa nhanh vừa như triền miên chẳng hết. Cùng với dải cầu vồng xuất hiện, con Ô Truy của Phúc Nghiệp Trình chuyển vó nhanh còn hơn cả gió cuốn băng băng tràn di đưa Sứ quân đi theo. Bây giờ thì tướng trẻ Triệu Đồng Long biết ai là Sứ quân Tam Đái, lập tức cũng giục ngựa hô quân đuổi theo. Ngựa trận của Triệu Đồng Long chẳng thể nào theo kịp con Ô Truy của Phúc Nghiệp Trình. Nhưng binh Hoa Lư dày đặc làm cho vó ngựa của Phúc Nghiệp Tình chẳng thể nào chạy nhanh được. Triệu Đồng Long lệnh cho quân mau mau đốt pháo hiệu, báo tin cho tất cả các tướng Hoa Lư biết. Pháo nổ ầm ầm dữ dội rung chuyển cả một vùng phía Nam phủ đường Tam Đái. Chúng binh Hoa Lư hò reo như đám thợ săn hò hét đuổi theo hai con mồi đang cố chạy ra phía Tây, nhằm hướng dòng Bạch Hạc.
Tiếng nổ của pháo hiệu thôi thúc lòng chúng binh Hoa Lư ở các mặt. Phó tướng thủy quân của Nghi Bá Tường là tướng Đào Long Vân vừa thúc quân lên bộ, mắt nhìn thấy lửa cháy rồi pháo hiệu nổ dữ dội, liền mang quân bộ chiến tràn tới. Đi chẳng lâu thấy một tướng cưỡi con ngựa sắc lông đen tuyền cao lớn. Tướng này xử cây đao lạ đi đến đâu binh Hoa Lư giãn ra tới đấy. Theo sau tướng dữ dội này là một người chẳng mặc chiến phục, lại mặc áo quần sang trọng như thể vua chúa, tay vung cây giáo cũng lại thật dữ dội. Tướng cầm đao lạ rõ ràng là cố che chở bảo vệ cho người ăn vận sang cả, thì Vân liền hô quân tràn tới chặn lại.
Phía sau, tướng Triệu Đồng Long cũng xốc tới. Phúc Nghiệp Trình thấy nguy liền giạt ngựa, ép ngựa của Sứ quân, cả hai quay trở lại phía Đông. Phúc Nghiệp Trình nghĩ rằng chỉ vượt qua được tướng mặt đẹp đang đuổi sau lưng là thoát được. Hơn là chạy về phía Tây vừa có binh tướng tràn tới, sông Bạch Hạc chắc là không thể qua được.
Thầy trò Sứ quân Nguyễn Khoan ra sức đánh phá cố vượt vòng vây. Hy vọng thoát thân chạy vào được vùng Tam Sơn, Cung Thương hay Bình Xuyên.
Triệu Đồng Long hợp quân với Đào Long Vân, Long bảo:
- Người cầm giáo chính là Sứ quân Nguyễn Khoan. Ông ta cùng đường không biết chạy ngả nào, ta không nên giết cố đuổi theo bắt sống!
Đào Long Vân cho là phải. Hai tướng cho quân cứ nổ pháo hiệu, vừa để làm cho Sứ quân khiếp hãi, vừa báo hiệu cho các mặt khác biết. Lại cho quân hò reo réo gọi Sứ quân Nguyễn Khoan mau mau đầu hàng. Sứ quân cùng tướng Phúc Nghiệp Trình thấy tướng Hoa Lư có ý không giao chiến mà chỉ đuổi theo thì trong lòng mừng lắm.
Nhưng, họa chẳng đến một, đang trong lúc khấp khởi mừng hi vọng chạy được vào vùng núi phía Đông, thì Sứ quân cùng với tướng Phúc Nghiệp Trình đã lại thấy bụi mờ trời đất. Át cả ánh trăng rằm ở ngay phía trước mặt. Một đạo quân ào tới, cờ hiệu dưới trăng tỏ rõ ràng là cờ hiệu Hoa Lư. Hai thầy trò chợt thấy mệt mỏi, ngựa cũng như chẳng muốn cất bước!
Binh trước mặt tràn tới, binh sau lưng áp sát. Pháo hiệu nổ liên miên chẳng dứt. Một tướng thúc quân vào trận tay cầm thanh gươm lạ nước thép xanh biếc. Thầy trò Sứ quân không biết đây là tướng cũ của Lữ Đường ngày trước ở Tế Giang, tên gọi là Lương Tích Lịch. Thanh gươm trong tay tướng này chính là thanh A Hồ Lục Cương Kiếm.
Bây giờ Lương Tích Lịch có tướng Quách Cước Đồng phụ tá, vâng lệnh đem quân lên trấn ở Tam Sơn. Đến khi được tin lại nghe pháo hiệu, nhìn lửa cháy. Liền cùng nhau kéo quân nhắm hướng Tây Bắc kéo đi. Vừa đến nơi đã gặp hai người đang tìm đường bỏ chạy. Phạm Hoàng Linh chẳng biết hai người này là ai liền giục ngựa đến chắn đường. Phúc Nghiệp Trình thấy không xong liền thúc Ô Truy xốc tới, thanh Yểm Nguyệt Hổ Đầu đao chém tới. Lương Tích Lịch hất ngược A Hồ Lục Cương kiếm gạt thanh đao ra, không để đao chặt trúng lưỡi gươm đúc bằng gang thép xanh biếc. Ngay lúc ấy Phúc Nghiệp Trình lại kêu to lên:
- Chúa công chạy mau đi, thuộc hạ cản chúng nó!
Sứ quân Nguyễn Khoan vội giục ngựa bỏ chạy, nhưng tướng Lương Tích Lịch đã nghe đủ cả, liền quát to:
- Nguyễn Khoan đừng chạy nữa! Đầu hàng đi!
Cùng với tiếng thét. Lịch xốc ngựa tới, thanh A Hồ Lục Cương kiếm chưa bao giờ lại dữ dội đến thế. Đánh lui Sứ quân trở lại, đồng thời đẩy giạt Phúc Nghiệp Trình ra một bên. Tiếp đến tướng Triệu Đồng Long lại xông vào làm cho Phúc Nghiệp Trình chẳng thể nào trợ giúp cho Sứ quân được nữa.
Phúc Nghiệp Trình trong lòng lo lắng vô cùng. Chưa biết phải làm sao thì đã lại thấy từ phía Nam binh kéo đến đuốc lửa rực trời. Nhìn ra lại cờ hiệu Hoa Lư phất phới dưới ánh trăng rằm đã sắp sang giờ Tý. Một tướng từ mé Đông xốc tới, tướng này chính là Quách Cước Đồng có tài vượt núi băng rừng được thiên hạ tặng danh hiệu Truy Phong Khách. Tướng cũ của Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du ngày trước. Đồng có tài giữa trận quăng dây bắt trói tướng địch cực giỏi, nay giữ trách nhiệm phụ quân cho Lương Tích Lịch. Bây giờ mang binh vào trận thấy Lịch đang tận lực áp đảo một người cầm cây giáo dài, người này ăn vận không phải là một chiến tướng nhưng cây giáo cũng lợi hại lắm. Thanh A Hồ Lục Cương kiếm của Lương Tích Lịch trong nhất thời chưa thể hạ ngay người này được. Nhìn ra mé bên thấy binh nào đang kéo tới thì Quách Cước Đồng lại tưởng là binh Tam Đái đến trợ chiến, liền kéo cuộn dây treo bên cọc yên chiến mã ra.
Quách Cước Đồng là người lòng ngay dạ thẳng, tính tình chung thủy. Thấy binh sắp tới thì sợ có viện binh của Tam Đái, liền trổ tài quăng dây. Dây là sợi mây rừng được ngâm nước muối. Chế theo cách thức riêng của Đồng, đã cực dai lại thật mềm mại, không thua gì một sợi dây bằng vải, bằng lụa. Quách Cước Đồng đợi đúng lúc Sứ quân Nguyễn Khoan tránh một đường gươm, ngựa chạy ra ngoài vòng kiềm tỏa của gươm A Hồ, thì lập tức quăng sợi dây đi. Trong đêm tối, dưới ánh trăng vằng vặc, sợi dây mây mềm như dải lụa bay đi. Chẳng tướng nào đang trong lúc giao tranh lại có thể trông thấy được.
Vì thế, Sứ quân vừa tạt ngựa tránh đường gươm của tướng Lương Tích Lịch, thì bật ngửa. Có sức mạnh lạ lùng bỗng ôm chặt lấy ngài mà giật trở lại, sợi dây của Quách Cước Đồng đã trói được Sứ quân. Nhưng, cũng ngay lúc Sứ quân vừa tránh được đường gươm, thanh gươm A Hồ trong tay Lương Tích Lịch chuyển ngay lướt theo chém tới. Cứ bình thường, thì đường gươm khó chạm được vào lưng áo Sứ quân, nhưng lúc này sợi dây của Quách Cước Đồng lại trói chặt Sứ quân mà giật trở lại, thành ra đường gươm chém tới trúng ngay gò má bên trái Sứ quân. Bạt bay đi một phần mặt, thừa đà đi xuống chặt gãy xương đòn gánh của Sứ quân.
Sứ quân Nguyễn Khoan nhào xuống chẳng kêu được tiếng nào. Cùng lúc ấy, đạo binh phía Nam kéo tới. Đi đầu chính là tướng quân Lê Hoàn, gươm Thụ Thiên lăm lăm trong tay. Tiếp theo sau là Vạn Thắng Vương với cây đại phủ, vương vận chiến bào quen thuộc tay để trần, chung quanh vương là các tướng. Mới tới nơi, tất cả mọi người đều đã thấy hết sự việc.
Lê Hoàn bay ngựa tới, tướng quân Lương Tích Lịch hô to: “Vạn tuế Vạn Thắng Vương! Nguyễn Khoan đã chết!”. Bây giờ thì Quách Cước Đồng biết người vừa bị mình quăng dây bắt trói chính là Sứ quân Nguyễn Khoan của Tam Đái. Đồng vội xuống ngựa chạy lại, Sứ quân mặt mất một phần đầm đìa máu. Dưới ánh trăng vằng vặc, hai mắt Sứ quân lồ lộ vẫn mở to.
Đằng kia, tướng Phúc Nghiệp Trình trong một thoáng cực nhanh thấy Sứ quân lâm nguy chẳng kịp đến cứu, lại thêm bị tướng Triệu Đồng Long thừa cơ ráo riết áp đảo không cho thoát đi. Khi thấy Sứ quân trúng gươm nhào xuống thì ông cũng chẳng chần chờ quay ngược mũi cây Yểm Nguyệt Hổ Đầu đao đâm vào cổ. Triệu Đồng Long mắt sáng như sao, tay gươm lẹ còn hơn ánh chớp, vừa huơ lên chém tới tức thì Long uốn úp lòng bàn tay xoay gươm đánh bắn thanh đao đi, kịp cứu Phúc Nghiệp Trình.
Phúc Nghiệp Trình giạt ngựa cực nhanh tung mình bay khỏi lưng ngựa nhào tới ôm lấy Sứ quân. Nghiệp Trình gào lên:
- Chúa công! Chúa công!
Lương Tích Lịch cử ngay A Hồ Lục Cương kiếm toan chém xuống thì nghe tiếng quát to:
- Ngừng tay! Không được chém!
Tiếng quát át cả tiếng chúng quân hò reo ầm ầm. Lương Tích Lịch chuyển tay gươm rồi dừng ngựa. Một tướng cưỡi con ngựa cao lớn hiện đến như làn gió, chính là tướng quân Lê Hoàn. Hoàn kịp quát cứu mạng Phúc Nghiệp Trình.
Vạn Thắng Vương đã tới, ngài xuống ngựa ngay, các tướng cũng ào theo. Tướng quân Quách Cước Đồng đã thu hồi sợi dây. Vương hỏi:
- Sứ quân thế nào?
Tướng Phúc Nghiệp Trình nghẹn ngào:
- Chúa công! Thuộc hạ có tội!
Vương gật đầu, tướng Lê Hoàn kéo tướng Phúc Nghiệp Trình ra. Quân đặt cho Sứ quân nằm ngay ngắn trên mặt đất. Vương nhìn khuôn mặt Sứ quân bị vạt một góc má đầm đìa máu, ánh trăng làm cho màu máu như đen thẫm. Vương thốt lên:
- Sứ quân vội vàng quá! Phải chi đừng bỏ đi, đợi ta đến!
Vương truyền các tướng đem binh vào phủ đường. Vừa lúc ấy binh phía Bắc của Phạm Cự Lượng cũng kéo tới. Lượng vừa thấy Vương thì hô to lên: “Vạn tuế Vạn Thắng Vương!”, các tướng cũng hô theo. Chúng quân cũng lại hộ theo, cả một phía trời phía Đông phủ đường Tam Đái đuốc lửa sáng rực. Tiếng hô rầm rầm theo nhau hô đến tận phủ đường. Rồi vượt phủ đường ra đến tận bờ sông Bạch Hạc.
Các tướng vừa hộ tống đưa Vương về phủ đường Tam Đái, thì tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh như làn gió ào tới. Tướng quân dáo dác tìm rồi chạy ngay đến bên Cự Lượng, tướng quân bảo:
- Việc ở đây xong rồi. Quân sư bảo tướng quân mang quân về Công Thương ngay. Ẩn quân cho thật kín đợi trợ chiến cho đại binh ta kéo lên Phong Châu vào khoảng ngày 8 tháng sau!
Cự Lượng vui mừng, lập tức đem quân trở lại Cung Thương.
Vạn Thắng Vương vào phủ đường Tam Đái, phủ đụ các thuộc hạ cũ của Sứ quân Nguyễn Khoan. Lại bảo:
- Các ông ai cũng vì chủ, cho nên không có tội gì, từ đây phải dốc lòng lo việc trị an, giúp dân sinh sống. Có thế bao nhiêu tội lỗi xưa mới được tha cho. Tuy vậy, việc trị an mà lại có những phường giặc cướp, thì có khác nào như đưa thêm dao cho bọn đạo tặc, sắc phong cho phường cường sơn thảo khấu được công khai giết dân hại nước. Có khác gì đem thịt sống mà nuôi cọp dữ. Những phường giặc cướp ấy không tru diệt thì nước phải loạn, trăm họ phải lầm than điêu đứng!
Thế là Vương truyền đem Tịnh Nhật Đại Tăng, vốn là tướng cướp khoác áo nhà tu. Từng làm quá nhiều những việc tàn ác. Cùng với đám thuộc hạ của ông ta cả thảy mười chín tên, đưa ra chợ chém đầu răn chúng, nghiêm quốc pháp.
Vương để cho Hoa Lê vợ Sứ quân cùng gia đình họ hàng được tự do tùy ý muốn đến ở nơi nào cũng được. Hoa Lê lạy tạ Vương, xin cho tất cả mọi người trong gia đình dòng tộc được ở lại Tam Đái. Một mình về sống ở núi Lịch Sơn, huyện Sơn Dương. Vương thuận cho, lại chu cấp cho người trong gia đình Sứ quân được hưởng ruộng vườn, an nhàn sinh sống.
Vương cho lệnh hậu táng cho Sứ quân Nguyễn Khoan ở xã Vĩnh Mộ (hay Mụ) huyện An Lạc. Dân địa phương nói rằng thỉnh thoảng thấy có người vóc dáng to lớn mà thấp lùn hiện lên những buổi trăng tròn. Dân sợ cho là thần khí của Sứ quân hiển hiện, liền dựng miếu thờ, đến nay vẫn còn dấu tích.
Người đời cũng kể rằng: Hoa Lê vào núi Lịch Sơn, núi này phong cảnh u nhã, đường đi lối lại thuận tiện. Trên đỉnh núi có phiến đá nhẵn lì, tục gọi là bàn cờ tiên. Lưng chừng núi có phiến đá giống cái thuyền, tục gọi là Vỏ Lúa. Hoa Lê khẩn hoang ở đây, đốn bỏ bớt cây hoang, cho trồng nhiều thứ cây ăn trái, để cho người đi rừng được hưởng những cây trái ấy. Về sau, cây ăn quả mọc nhiều trong vùng núi này, người qua lại tha hồ hái mà ăn, ăn bao nhiêu cũng được. Nhưng nếu tham lam đem về thì thế nào cũng lạc mất lối đi, loanh quanh trong rừng cho đến khi nào ăn hết số trái cây ấy thì mới lại tìm được lối ra. Người đời bảo là: Hoa Lê ban ơn cho người đi rừng được hưởng công đức của bà, nhưng không ai được nổi lòng tham. Thế là người đời kính sợ lập đền thờ phụng, đến nay dấu tích đền vẫn còn, gọi là đền Linh Từ, thờ thần núi ở đấy.
Việc phủ đường Tam Đái phải mất đến tám chín ngày mới tạm yên. Dân chúng nghe hiểu dụ của Vương thì yên lòng, tu sửa lại nhà cửa, lại làm ăn sinh sống trong cảnh an lạc thái bình.
Ngay khi đại binh của Vương vào phủ đường Tam Đái, trong quân xe riêng của Quân sư cũng đi theo. Vương lệnh cho tất cả các tướng không ai được tiết lộ việc Quân sư. Ngài hội chúng tướng lại bảo:
- Trước, kế của ta là lui về Hoa Lư, Quân sư đã qua đời, khiến cho Tam Đái tin mà thờ ơ. Cho nên ta lấy được Tam Đái dễ dàng. Nay, chiến trận náo động, tất Phong Châu không thể không suy nghĩ. Lại thêm Phong Châu có văn sĩ Quân sư Điền Bạc là người thận trọng, giỏi mưu kế. Phong Châu không thể không sửa soạn chống lại ta. Tướng tế sứ của ta cho hay: Phong Châu dốc hết binh xuống Nam đề phòng ngăn chặn ta, sợ ta sẽ từ Tam Đái kéo lên, đây là điều đúng. Nhưng, Điền Bạc vẫn cẩn thận đề phòng, từ lâu đã hiến kế thu thập sức lực thiên hạ, chiêu mộ binh tướng, đón nhận tất cả các đảng cướp ở khắp cõi bị binh tướng của ta truy nã. Vì thế lúc này Phong Châu binh đông tướng nhiều. Điền Bạc đem một cánh quân lớn lập trận ở phía Bắc Bình Xuyên, tựa lưng vào chân núi Tam Đảo làm thế cự phòng ta sau này. Vậy thì, để cho chiến kế của ta được hiệu quả, để cho cuộc chinh phục Sứ quân cuối cùng ở Giao Châu này được kết quả. Ngay từ bây giờ các tướng phải liên tục tỏ ra cho Phong Châu biết: Đại quân của ta hoàn toàn sẽ lên Phong Châu bằng đường bộ, nghĩa là giữ cho binh tướng Phong Châu hiện đang trấn giữ suốt một dải dài từ Cung Thương về phía Tây chạm dòng Bạch Hạc, chẳng khác nào như bức tường thành lớn chắn bước chân ta. Các tướng hãy dàn xếp, sửa soạn binh mã bộ, để cho Phong Châu hiểu là ta sẽ phá sập bức tường thành lớn lao ấy rồi tiến lên Bắc. Chiến kế lúc nào khởi sự mở trận các tướng sẽ có lệnh.
Các tướng vâng lệnh, đem binh trấn từ phía Bắc Cung Thương kéo dài sang phía Tây chạm Sông Bạch Hạc, đối diện với binh của Phong Châu. Hai quân trấn cách nhau chẳng quá nửa ngày đường quân hành, tình hình quả thật gay go sôi nổi! Tổng binh Hoa Lư trông nom đại binh này là tướng quân Đinh Liễn. Nghe lệnh Liễn còn có nhiều tướng cũ của các Sứ quân trước kia.
Quân sư ở trong đại doanh Tam Đái lại cho gọi các tướng còn lại bảo:
- Như thế, Vương đã dàn binh trấn giữ mặt Nam, lại cho phao đồn là đại quân của Hoa Lư sẽ phá tan các đạo trấn binh của Phong Châu để tiến lên phủ đường. Tế tác của ta cho hay: Mưu kế của ta ở Phong Châu đã thành, ta sẽ định ngày xuất chiến khởi trận. Còn lúc này, tướng quân Nghi Bá Tường đem hết thủy quân ngược dòng Bạch Hạc lên Phong Châu, dĩ nhiên là phải ẩn quân cho kín. Vững tin là ta không đưa thủy quân lên Bắc mà trấn cả lại ở Ngã Ba Hạc làm sức hậu phòng tiếp tế cho các đạo quân bộ. Tướng quân phải làm sao để chỉ trong một đêm là từ cứ doanh Mộng Thất Sơn có thể đã lên được đến Ngã Ba Hạc. Nghĩa là kịp đổ bộ để đánh vào phía Tây phủ đường Phong Châu.
Tướng quân Nghi Bá Tường thưa:
- Thưa Quân sư, đường sông từ cứ doanh Mộng Thất Sơn lên đến Ngã Ba Hạc không mấy xa. Nếu từ đây đến cuối năm ta xuất quân thì đường sông có thể được nhờ ở thời tiết sương nhiều để ẩn quân. Nhưng nếu để chậm thì lại bất lợi một phần ở gió Bắc thổi xuống.
Quân sư mỉm cười đáp:
- Tướng quân sẽ được thời tiết giúp đỡ! Hãy dùng khinh chiến thuyền để chở quân, xếp đặt cho quân lên bộ là vào trận được dễ dàng.
Nghi Bá Tường hỏi:
- Bẩm, Quân sư định cho bao nhiêu quân đi đường thủy?
- Tướng quân cho năm mươi thuyền ba mươi tay chèo, tổng cộng một nghìn rưỡi quân. Chọn những tay chiến giỏi, gan dạ, rồi đợi khi nào thấy phía Đông lửa cháy thì đưa quân lên bộ. Sẽ có tướng trông coi đạo quân ấy, tướng quân ở lại trên sông phòng trợ. Tế tác sẽ cho ông tin đều đều.
Nghi Bá Tường vâng lệnh. Quân sư quay sang tướng Trịnh Tú bảo:
- Tướng quân đem mười nghìn quân men theo phía Đông rặng Tam Đảo tiến lên, hội quân với ông Lưu Cơ. Làm sao cho đến ngày bảy tháng chín là phải trấn quân được ở sườn núi phía trên đại quân của Phong Châu, hiện đóng ở chân núi Tam Đảo, phía Bắc Bình Xuyên. Nhớ sức quân đem được bao nhiêu hỏa liệu thì cho đem càng nhiều càng tốt. Cùng đi với tướng quân có các ông Đỗ Mậu Đại, Chu Kỷ Toàn, Hồ Tường Thụy. Phải hết sức ẩn quân không để cho Điền Bạc nghi ngờ, thế nào ông ta cũng có tế tác đi lại canh phòng đấy.
Trịnh Tú cùng các tướng lĩnh mệnh đi điểm quân. Quân sư lại sai đóng năm mươi xe cho kéo theo quân. Dặn là khi nào có lệnh sẽ mở.
Quân sư gọi tướng Nguyễn Bặc bảo:
- Tướng quân mang mười nghìn binh lên phía Bắc, men theo chân rặng Tam Đảo phía Đông, vượt qua Tam Đảo rồi chuyển quân sang phía Tây. Phục ở rừng phía Bắc phủ đường Phong Châu, sửa soạn cho quân những cờ xí như cờ của binh Tống triều. Đợi khi phía Đông có chiến trận lớn ở chỗ chân núi Tam Đảo, thì phải gấp cho binh tiến xuống tiếp sức với binh phía Tây lấy phủ đường. Cùng đi với tướng quân có các ông Phạm Hạp, Đinh Điền. Phải nhớ, ở mặt này thế nào Điền Bạc cũng cho nhiều tế tác đi ngược lên Bắc để đón binh ngoài đến tiếp viện, vậy phải hết sức cẩn thận. Tế tác cũng sẽ đem tin đến cho các ông. Binh ông phải đi xa nhất, vậy ông sửa soạn lên đường ngay, nhanh thì khoảng ngày bảy tháng chín đã tới được nơi hẹn!
Nguyễn Bặc cùng các tướng vâng lệnh đi điểm quân ngay. Quân sư gọi tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh dặn dò mọi việc, rồi đợi các tướng đến xin lệnh xuất quân xong, thì Quân sư đi gặp Vương. Lại mật nghị với Vương rồi gọi tướng quân Hà Bảo Ninh đến dặn:
- Tướng quân hãy sửa soạn, cùng các tướng khác theo vương đi đường thủy lên Ngã Ba Hạc. Đợi hộ tống Vương vào phủ đường Phong Châu. Phải nhớ: Dù rằng đường đi không có trắc trở gì cũng vẫn phải hết sức thận trọng. Ta tin tưởng tướng quân! Tướng quân nhớ cho kỹ: Thủy trại Phong Châu thì vào khoảng nửa đêm ngày Trùng Cửu sang ngày Mười là đẹp nhất. Đợi phủ đường xong mọi việc, khoảng đầu giờ Thìn thì hãy rước Vương vào.
Hà Bảo Ninh vâng lệnh, lại thưa với Vương:
- Bẩm trình Vương, từ ngày tôi theo Sứ quân vương thân Ngô Xương Xí rồi được ngài Lê Hiền dặn, tới theo hầu Vương, thì Ninh tôi đã thấy vừng thái dương rực rỡ. Được Vương tin yêu quả thật Ninh tôi nghĩ: Cho dù tôi có phải xả thân bỏ mạng cũng vẫn thấy vui vẻ!
Vương cảm động, ngài ban lời khen Hà Bảo Ninh rồi bảo Ninh được toàn quyền sửa soạn mọi việc. Ninh cẩn thận đến nỗi chỉ bảo tướng Nghi Bá Tường là dành cho Ninh ba chiếc thuyền, một lớn hai nhỏ để vâng lệnh Quân sư dùng việc riêng. Xin Tường đừng để cho một người nào biết việc. Nghi Bá Tường vốn tính cẩn thận, theo lời Ninh cứ thế mà làm chẳng biết có việc gì.
Xong mọi mệnh lệnh cho các tướng. Quận sư bảo Mạc Sa Cảnh cho tế tác mở đường gấp vận chuyển lên cho tướng Phạm Cự Lượng thật nhiều hỏa liệu. Đợi khi lệnh đi rồi thì lại bảo Mạc Sa Cảnh cùng với Quân sư bí mật đi lên phía Bắc.
Ở phủ đường Phong Châu, từ khi binh lửa ngập Tam Đái thì tin dồn dập trình về. Cả Phong Châu kinh hãi, ai cũng biết là Tam Đái sẽ bị Hoa Lư đánh, nhưng không ai lại nghĩ là chỉ trong một đêm là chiến trận dã xong. Sứ quân Nguyễn Khoan đã mạng vong. Sứ quân vội triệu tập đại nghị, ngài bảo:
- Quả nhiên nghị luận của Điền quân sáng suốt, thế là Tam Đái mất, cả cõi chỉ còn mình ta. Quả thật Đinh Bộ Lĩnh có công lớn, y đã dọn sạch đường để ta có lối quang đãng đi về Cổ Loa! Điền quân lo xa, đem binh dàn trận ở chân núi Tam Đảo thế nào cũng uổng công. Thôi thì cũng xem như đấy là đạo quân để hộ tống cho ta về kinh đô mà thôi!
Các thuộc tướng nghe Sứ quân nói, bao nhiêu nỗi lo lắng suy nghĩ về việc Hoa Lư đã dứt xong Tam Đái đều bay đâu mất cả. Duy vẫn chỉ có Điền Bạc là lúc nào cũng lim dim như ngủ gật. Sứ quân hỏi:
- Điền quân, ông tính việc đã đúng, vậy bây giờ thế nào?
Điền Bạc chẳng vội vã, đưa tay chỉnh lại vành khăn văn sĩ vẫn ngay ngắn, đáp:
- Bẩm Chúa công, quả thật bây giờ chỉ còn mình ta đương đầu với Hoa Lư. Hoa Lư hay ta về Cổ Loa là lúc này đây! Bẩm, khó khăn của ta nhiều hơn là phía Hoa Lư…
Sứ quân hỏi ngay:
- Tại sao ta lại nhiều khó khăn hơn Hoa Lư?
- Bẩm, có hai khó khăn, ta phải thẳng thắn xem xét để có phương cách đối xử. Thứ nhất, binh tướng Hoa Lư ra vào chiến trận rất nhiều, vì thế rất thiện chiến, lại thâu gồm được nhiều tướng giỏi của khắp Giao Châu. Sức mạnh vượt xa binh của ta nhiều lắm. Thứ hai, Giao Châu ta từ nhiều năm nay hỗn loạn. Cổ Loa tuy vẫn còn vua nhưng triều đình có cũng như không cho nên các nơi nổi lên. Các Sứ quân xuất hiện muốn lập triều đại mới, nhưng suốt nhiều năm dài chẳng Sứ quân nào thu phục được Giao Châu. Cho đến lúc này thì Hoa Lư đã lấy gần hết trọn Giao Châu, thế của Hoa Lư vì vậy rất mạnh. Có thể họ Đinh thay cho họ Ngô là việc bình thường. Tuy nhiên, mới đây Tống triều lại cho một sứ xuống bàn định với Phong Châu ta một đại kế lấy Giao Châu. Giao Châu ta là nước nhỏ hệ thuộc vào đại quốc phương Bắc, an hay nguy của Giao Châu đời nào cũng tùy thuộc vào cách đối xử của triều đình Trung Hoa, nay cũng vậy. Tống triều vừa mới dựng lập, sức mạnh đang hăng. Tống đế lại nhìn xuống Giao Châu ta cũng là việc bình thường. Tống triều yểm trợ cho ta lấy Giao Châu, mở ra triều đại mới, đòi ta một điều là thần phục ngay nhà Tống. Chẳng đòi ta cũng phải xin thần phục, ấy là lẽ thường! Chỉ có một điều quan trọng, ấy là khi hai phía Hoa Lư Phong Châu mở chiến, Tống triều sẽ yểm trợ cho ta như thế nào?
Điền Bạc nói một hơi dài thật chậm chạp, nhiều lúc làm cho mọi người phải sốt ruột, nhưng những điều ông nói lại chẳng có gì là sai. Sứ quân Kiều Công Hãn bảo:
- Phải, ngày nọ mật sứ của Tống để chỉ nói là sẽ bí mật đưa quân xuống trợ chiến cho ta, nhưng không cho đi lại thông tin nhiều để tránh dị nghị về sau. Cho đến bây giờ ta cũng chưa được thêm tin gì, không biết thế nào?
Sứ quân lo lắng, cả nghị sảnh im lặng. Điền Bạc lại sửa vành khăn toan nói, quân vào trình tin: “Có người lạ đến xin được gặp Chúa Công”. Sứ quân Kiều Công Hãn bật hỏi:
- Tống sứ chăng?
Đúng thế, người lạ đến xin gặp Sứ quân Phong Châu tự xưng tên là “Cao Hải Triều”. Lại bảo là phó tả tướng của Thống Chế Tống Binh kinh lý việc Giao Châu, gấp đường vào Phong Châu báo tin cho Sứ quân. Phó Tả tướng nói:
- Tôi vâng lệnh Ngài Tôn Toàn Hưng gấp đường vào Giao Châu báo để Sứ quân biết: Đinh Bộ Lĩnh đem hết sức quân sắp sửa đánh lên Phong Châu, sức của y rất mạnh. Nhưng y ngu dốt lại dồn hết sức vào mặt phía Nam, lấy chỗ trống trải để tiến binh, thế là phạm vào điều cấm kị của người cầm quân. Vì thế ngài Thống Chế sai tôi xuống báo để Sứ quân rõ: Sứ quân dồn hết binh tướng xuống phía Nam, tiếng là để chặn Hoa Lư, thế nào Đinh Bộ Lĩnh cũng phải vội vàng chống đỡ. Lúc ấy Sứ quân hãy thật im lặng trở về phủ đường, đại binh của ngài Thống Chế cũng đã im lặng xuống phủ đường hộ tống để Sứ quân nhanh chân tiến tới Cổ Loa. Thế là Đinh Bộ Lĩnh bị lỡ bộ, giấc mộng của y là ngai vàng ở Cổ Loa. Y mang binh tướng vất vả đi khắp Giao Châu, cuối cùng lại hóa ra dọn đường đắp lối cho quang đãng, để Sứ quân bước tới ngôi vàng!
Sứ quân Kiều Công Hãn nghe Phó Tả tướng nói thì mừng quá, vâng dạ xin nhớ lời dặn. Lại thưa với phó Tủ tướng:
- Như vậy, tôi xin tướng quân trình về với ngài Tôn Toàn Hưng là ngài hãy tiến binh vào ngày Trùng Cửu sắp tới, ngày ấy Phong Châu tôi có hội lễ Đăng Cao. Khắp nơi mở lễ, binh của ngài tiến được dễ dàng chẳng ai biết!
Sứ quân lại trao cho phó Tả tướng Tống binh một lá cờ hiệu của Sứ quân thường treo ở phủ đường những lúc Sứ quân mở đại hội. Lá cờ lớn bằng cả sải tay người lớn, nền đỏ, thêu con kì lân chỉ vàng, hai mắt kì lân một bên là một ngôi sao, một bên là mặt trời rực rỡ. Ý nghĩa: “Hồng Thiên Lãnh, Kỳ Lân Hùng Sư Tụ Tinh Tinh Thái Dương Chỉ Đạo Quang Xuất Nam Phương”. Có nghĩa: Phương trời Hồng, Hùng Sư Kì Lân Quy tụ vầng thái dương với sao trời dẫn lối xuất hiện ở phương Nam. Trên lá cờ lại nạm ba mươi chín viên ngọc bích, ấy là biểu tượng năm Sứ quân nổi lên hùng cứ Phong Châu vào lúc ngài ba mươi chín tuổi. Đến nay thì ngài đã ngoài năm mươi, tuổi vừa đẹp để khởi đại nghiệp mở một triều đại mới.
Phó Tả tướng nhận cờ, nhớ lời dặn ra về ngay, không nhận dự tiệc mừng của Sứ quân Kiều Công Hãn.
Tướng sứ của Thống Chế Tổng binh Tôn Toàn Hưng lúc ấy còn ở mãi tận Tống triều, chưa hề có lệnh nào của Tống đế về việc xuống Giao Châu. Chẳng ai khác hơn chính là tướng quân Đinh Điền trong đạo đại binh của tướng Nguyễn Bặc đã lên trấn ở khoảng giữa rặng Tam Đảo phía Bắc Phong Châu. Tướng quân Đinh Điền theo lời dặn của soái tướng Nguyễn Bặc vào phủ đường Phong Châu, đã lấy được cờ lệnh của Sứ quân. May mà lúc ấy Điền Bạc vốn ít nói lại thêm tướng giả danh chỉ nói ít lời rồi cáo từ đi ngay, nói là để khỏi lộ hình tích cho nên không có nghi ngờ gì.
Đinh Điền mang cờ lệnh của Sứ quân về, cũng vừa lúc có Quân sư cùng với tướng Mạc Sa Cảnh tới. Hai người tới thật bí mật không một ai biết. Chỉ trừ có các tế tác một chuyến đợi lệnh của tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh. Quân sư đi theo quân của các tướng lên phía Bắc. Tướng Đinh Điền đón Quân sư vào doanh. Quân sư bảo:
- Như vậy, là ông Điền đã xong được nốt đoạn cuối mưu kế của ta. Hôm nay là mồng Tám, các nơi đều đã thi hành đúng mọi việc. Đại binh của Kiều Công Hãn đã dồn hết xuống Nam. Vậy chiều hôm nay ông Điền lại đi gặp Sứ quân Kiều Công Hãn, đưa tín vật của ta làm tin. Bảo là Tống binh đã xuống phía Bắc, qua Đại Từ, trấn ở phía Bắc Phong Châu. Đường binh tiến về phủ đường Phong Châu không quá nửa ngày đường. Vậy đúng đầu giờ Thìn ngày Mười thì đại quân Tống triều sẽ tới phủ đường. Nhắc lại ước hẹn trước để cho ông ta yên lòng, lại nhớ bảo ông ta: Mau mau cho lệnh Điền Bạc là hãy kín quân không cần khởi chiến vội, để cho Quân sư được kín đáo mau lẹ theo Tống binh về Phong Châu rồi sẽ có lệnh sau.
Quân sư đưa cho Đinh Điền một hộp bọc gấm. Trong có để một thanh gươm ngắn bằng ngà voi rừng Cách Lâm trắng muốt, cùng một vuông lụa vàng viết một chữ “Triệu” bằng son. Nét chữ do tay Quân sư viết cực đẹp. Quân sư bảo:
- Tướng quân trao hộp này cho Kiều Công Hãn, nói rằng đây là thanh gươm lệnh ngày trước của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lúc còn vất vả ngang dọc. Nay trao cho Sứ quân vừa để làm tin vừa để làm lệnh. Khi nào lên ngôi rồi thì dâng biểu về Tống triều xin sắc phong thần phục, phải gửi trả lại thanh gươm ngà này!
Các tướng nghe Quân sư nói thi vui vẻ quá. Thế là Đinh Điền lại ra đi, trao tin và tín vật cho Kiều Công Hãn. Hãn cực kì sung sướng, bảo các thuộc hạ:
- Như vậy, rõ ràng là ngôi Vương nước Giao Châu đã vào tay ta. Đại nghiệp chỉ một sớm một chiều nữa là xong!
Sứ quân muốn đem bạc vàng để ban tặng cho tướng Tống binh. Nhưng Đinh Điền lên mặt kiêu ngạo nói:
- Nơi chiến địa, người làm tướng nhà Tống ta, có bao giờ lại để cho vàng bạc vướng tay, một đấu ngọc chẳng bằng một đấu thóc cho ngựa trận của ta! Giao Châu giàu của được mấy hơi mà ngài muốn tặng ta châu ngọc? Thôi, hãy để lúc ngồi trên ngai vàng làm chủ nước Nam rồi hãy nói chuyện tạ ơn!
Sứ quân hướng về phương Bắc kính cẩn lạy một lạy để tạ ơn Tống đế.
Ngay sau đấy, Sứ quân cho kỵ sĩ căng cao cờ hiệu của ngài, hỏa tốc đi ra phía Đông gặp Quân sư Điền Bạc, lúc ấy đang xem xét lại trận “Thiên Địa Giao Hòa” của ông, đợi đánh quân Hoa Lư. Điền Bạc được tin lệnh của Sứ quân thì ngồi lặng ở tướng doanh, hai mắt lim dim như lại sắp ngủ gật. Hồi lâu, Điền Bạc mở mắt bảo các tướng:
- Này các ông, hôm nay là ngày mồng Tám, ngày mai thì Phong Châu ta có lệ mở hội Đăng Cao để cầu ơn trời. Ta mới tiếp tin lệnh của Chúa công bảo là Tống binh cho sứ đến nhắc ước hẹn trước, lại trao cho gươm báu của Thái Tổ nhà Tống. Hẹn đầu giờ Thìn ngày Mười thì đại binh Tống xuống phủ đường, đón Chúa công ta về Cổ Loa. Lại lệnh cho ta không khởi chiến để Chúa công được dễ dàng mau lẹ lên ngôi, làm cho Bộ Lĩnh hụt chân thất thế...
Nghe đến đây, các tướng thốt hô vang: “Vạn tuế Chúa công!”, khiến Điền Bạc sửng sốt. Nhưng ông lại ngẩn người rồi hai mắt lại lim dim. Các tướng sôi nổi trong lòng nhìn cảnh Điền Bạc lại sắp ngủ say thì ngạc nhiên. Tướng Quan Chính Hồng hỏi:
- Bẩm tiên sinh, việc vui mừng đến như vậy. Ngài sao lại chẳng được vui?
Quan Chính Hồng người ở Tân Yên, bên kia dòng Lục Đầu. Vốn là tay lái ngựa, đi lại khắp nơi, giỏi võ nghệ, tụ tập được nhiều bạn đồng nghiệp. Trên đường đưa ngựa đi bán ở các nơi thuận tiện thì cả bọn ra tay cướp bóc. Sau theo về Sứ quân Kiều Công Hãn lúc Sứ quân theo kế chiêu binh mãi mã của Điền Bạc để chống lại Hoa Lư.
Nghe Quan Chính Hồng hỏi, Điền Bạc chậm rãi bảo:
- Chúa công ta lên ngôi vua là điều ai chẳng mừng, chẳng vui. Duy trong việc này ta thấy có nhiều điều chẳng bình thường!
Có người hỏi:
- Bẩm tiên sinh, binh Hoa Lư tụ cả lại phía Nam muốn tiến lên lấy Phong Châu ta, tôi thấy là một điều khó hiểu! Phía Tây ta, dòng Bạch Hạc đã bị Hoa Lư khống chế, có thể dùng đường sông để bất thần đánh úp ta. Phía Đông, rặng Tam Đảo từ Bắc xuống Nam bao nhiêu là hiểm địa thì tiên sinh đã trấn quân ở đấy là đúng. Sao không thấy có đề phòng gì ở mặt đường sông? Lại thêm, binh tướng Tống triều bí mật xuống Nam, nói là để giúp Chúa công ta lấy Cổ Loa trước Đinh Bộ Lĩnh, có thể cũng là được. Bắc phương chẳng đời nào lại không muốn lấy Giao Châu ta, vậy thì nay nếu lấy được dễ dàng nhờ tay Chúa công ta cũng lại là điều dễ hiểu. Duy có điều, ta chỉ nói đến ta mà chẳng nghe nói đến những cử động của Hoa Lư. Ngài thấy có điều gì bất thường không?
Điền Bạc mở choàng hai mắt nhìn người vừa nói, người này là Cổ Sa Nhân. Người ở đất đời Hùng Vương gọi là Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất Luy Lâu và Long Biên (nay là Bắc Ninh). Họ Cổ dòng dõi thế gia nhiều đời danh tiếng Mộc Đường nhưng không đời nào làm quan, đời nào cũng có một người thật giỏi. Dòng họ tự cho là “dòng rồng ẩn nghìn đời sau mới thức dậy”. Đến đời Sa Nhân thì vẫn chẳng thấy có chi nào phát. Sa Nhân sách đọc nghìn quyển, đi lại gần hết cõi, đến lúc Sứ quân mở kế “chiêu hiền đãi sĩ”, nghe Điền Bạc là người giỏi thì Cổ Sa Nhân theo về. Cổ Sa Nhân hình dung cổ quái, vóc dáng to lớn mà gầy, mặt dài trán gồ, hai mắt lồi như mắt kỳ lân, miệng rộng như miệng cá ngao, mũi ngắn mà lớn như mũi trâu, hai tai lớn mà bạt nhĩ. Tự cho những điều mình nói ra đều là những lời vàng ngọc quý giá, cho nên tự xưng hiệu là “Long Ngâm quái sĩ”. Ý nói mình là kẻ sĩ cổ quái nói ra là như rồng gầm.
Bây giờ trong hội nghe chủ tướng là mưu sĩ Điền Bạc của Sứ quân nói thì lên tiếng như vậy. Điền Bạc nói ngay:
- Đây là điều ta nghĩ! Chúa công cho hay. Tế tác đi lại như mắc cửi báo là: Từ Ngã Ba Hạc, Hoa Lư lấy làm cứ doanh tiếp tế quân lượng quân khí cho các đạo quân bộ chiến. Ta nghĩ: Hoa Lư xuất chinh, luôn luôn dùng thủy quân trợ chiến thật đắc lực cho quân bộ. Sao lần này lại không có động đậy gì để từ mặt sông đánh úp phủ đường ta? Tiếp đến, Tống binh vào phủ đường, lại có gươm báu làm tin. Khiến ta phải nghĩ: Có thật “con cọp dữ muốn xây tổ cho con dê con không?”. Nếu không, sao lại đưa gươm báu! Rồi đến lệnh của Chúa công bảo ta đừng xuất chiến khai trận, mà lặng lẽ yểm trợ cho ngài theo binh Tống về Cổ Loa. Việc lớn lao như vậy Hoa Lư có biết không, Cổ Loa có biết không? Nếu biết thì cả hai nơi phải làm gì? Không lẽ cả hai nơi ngồi im cho ta hành động!
Cổ Sa Nhân lại lên tiếng:
- Ngài nói thật đúng! Nhưng tôi nghĩ: Hoa Lư trông mong cả vào tay Đinh Bộ Lĩnh hùng liệt, sức mạnh như thần, ý chí vững như núi đá. Thế mà chỉ một cặp mắt của mĩ nhân ở Hồi Hồ cũng đủ làm cho y bủn rủn tay chân, tính lui binh về Hoa Lư để cho hết cơn run tay! Người giữ cho Đinh Bộ Lĩnh vững bền mãi mãi là thằng chăn trâu cắt cỏ hung dữ ngày xưa, là Quân sư Lê Thảo của y. Tên này gian ác đưa ra lắm mưu kế hiểm độc giết hại nhiều người đến nỗi, oan hồn ám ảnh đến hôn mê điên dại mà chết. Vì thế Bộ Lĩnh chẳng khác nào như người đá lớn chẳng có đầu óc. Y làm sao hiểu nổi tính toán của ngài. Lại thêm có Tống đế yểm trợ, thì thế nào Phong Châu cũng thành công!
Điền Bạc lại lim dim mắt, thẫn thờ bảo:
- Lê Thảo đến Tống triều cũng không dám coi thường. Y chết thật hay không mà sao Bộ Lĩnh vẫn lấy xong Tam Đái dễ dàng như thế, y có về Hoa Lư đâu! Như vậy, trong việc Tống đế yểm trợ, Hoa Lư có biết không? Có thật Lê Thảo đã chết rồi hay không?
Cổ Sa Nhân cười mà rằng:
- Ngài quên là tế tác của ta có mặt dự tang lễ lớn của Quân sư Hoa Lư Lê Thảo hay sao? Quan quách của Lê Thảo thì Đinh Bộ Lĩnh đã sai mười tướng năm nghìn quân gánh về Hoa Lư rồi. Sao lại bảo là y chưa chết được? Việc Bộ Lĩnh lấy Tam Đái, có khi là bộ hạ của y làm, chứ y thì không? Đến việc lớn của Phong Châu ta, tôi quả quyết là Đinh Bộ Lĩnh hay các tướng của y không thể nào cản nổi. Chúa công ta phải thành công!
Điền Bạc nghe Cổ Sa Nhân nói thì ông chẳng nói gì. Bao nhiêu là điều nghi ngờ ông chẳng mảy may tin lời của Cổ Sa Nhân, nhưng nghĩ đến lệnh của Sứ quân thì đành phải tuân theo. Uể oải lệnh cho các tướng giữ trận “Thiên Địa Giao Hòa” ai ở đâu cứ yên nơi ấy, nhưng không được bê trễ mọi việc. Có thể bất thần mở trận.
Bao nhiêu lo lắng, suy nghĩ của Điền Bạc quả thật không sai chút nào. Chỉ khốn một điều ông không biết là: Bao nhiêu tế tác đường xa của Phong Châu đều bị tế tác của Mạc Sa Cảnh khống chế hết. Tin đưa về phủ đường hay đến Điền Bạc đều là tin giả. Điền Bạc nghe tin nhưng vẫn không tin, trong lòng lo âu vô cùng.
Nếu Điền Bạc biết việc ở trên Tam Đái, thì chắc ông không còn lo âu nữa, mà chỉ còn có kinh hoàng!
Lúc ấy, Quân sư cùng tướng Mạc Sa Cảnh cải trang rồi bí mật lên núi cao, quan sát trận thế của Điền Bạc bày ở phía Bắc Bình Xuyên, chặn phía trên đạo binh của tướng Phạm Cự Lượng. Trời trong sáng, gió nhẹ miên man trên sườn núi cao, nhìn xuống cả một vùng bất ngát núi lô nhô ở phía Nam. Hai hướng Đông Tây rừng bạt ngàn chẳng thấy làng mạc ở đâu, nhưng có những khoảng thấy rõ là doanh trại binh. Quân sư cùng Mạc Sa Cảnh nheo mắt nhìn xem doanh trại như thế nào. Chỉ thấy thấp thoáng doanh trại ấy nép vào chân núi từ chân rặng Tam Đảo xuống đến rặng núi phía Bắc Bình Xuyên. Nhìn quá về phía Tây, rừng tuy rậm nhưng cũng vẫn thấy doanh trấn của binh Phạm Cự Lượng.
Quân sư chỉ cho Mạc Sa Cảnh xem rồi bảo:
- Doanh trấn phía Bắc Bình Xuyên của ông Lượng tuy ẩn kín trong rừng, nhưng nếu lên cao thì vẫn trông thấy. Không hiểu Điền Bạc có biết không?
Mạc Sa Cảnh nói:
- Bẩm Quân sư, tôi chắc là Điền Bạc không biết, vì không thấy ông ta có những hành động gì khác. Tế tác của ông ta vẫn đi về phủ đường rất tự nhiên. Theo như Quân sư thấy, thì Điền Bạc trấn binh ở đây thế nào?
Quân sư bảo:
- Trận chiến cuối cùng của Hoa Lư ta là lấy Phong Châu dứt hẳn cái nạn Sứ quân, ta tưởng dù thế nào chăng nữa cũng chẳng mấy khó khăn. Bây giờ đứng đây quan sát mới thấy là không phải! Điền Bạc không nhìn thấy thế lớn trong thiên hạ khiến cho máu đổ thịt rơi, một phần cũng chỉ vì ta đánh lừa Phong Châu về việc Tống đế trợ giúp, thành ra Điền Bạc mới hành động như thế này!
Mạc Sa Cảnh lặng lẽ nghe Quân sư nói, nhìn xuống cả một vùng rộng lớn. Cảnh không hiểu nguy hiểm đổ máu xương như thế nào, liền hỏi:
- Thưa Quân sư, như vậy thì Điền Bạc bày trận ra sao? Nếu như ta lấy xong Phong Châu rồi thì Điền Bạc có bày trận thế nào chăng nữa cũng có quan hệ gì. Ta dep trận ấy hay không cũng không cần thiết nữa!
Quân sư lắc đầu, bảo:
- Không phải thế! Binh ta giả danh là Tống binh đổ xuống cứu Phong Châu rồi đưa Kiều Công Hãn về Cổ Loa, cố ý đi nhanh hơn Hoa Lư một bước, việc ấy không khó khăn. Gần như binh tướng của Phong Châu dồn xuống phía Nam. Trận mở ra rộng từ Đông sang Tây, thế nào cũng phải có nhiều trận, nhưng khi Kiều Công Hãn đã bị bắt hay đầu hàng rồi thì binh tướng ở mặt Nam sẽ ngừng tay. Còn ở phía Bắc này Điền Bạc lại bày trận dữ, thêm đường đi lại thông tin hai mặt Nam Bắc bị tế tác cùng binh tướng của ta chặn mất hẳn. Thành ra Điền Bạc sẽ quyết liệt mở trận không nương tay. Một là trung thành với chủ cố mở trận để thắng ta giúp đưa chủ về Cổ Loa. Hai là phải cố tiêu diệt ta để sau khi chủ lên ngôi rồi thì được yên ổn, hoặc có thế mạnh mà chiêu hàng ta. Cả hai mặt ấy, lại thêm Điền Bạc bày trận như thế này nếu không khéo thì máu đổ nhiều lắm đây!
- Thưa Quân sư, đại cuộc đến chặng chót. Tôi nghĩ dù có phải tốn thêm ít máu xương nữa cũng là điều phải làm! Còn trận của Điền Bạc. Quân sư đã nhìn ra thế nào chưa?
- Từ khi nghe các tướng trình về, lại thêm các tin của tế tác ta hợp lại, ta đã nghi ngờ. Bây giờ đứng nơi cao này nhìn xuuống thấy rõ cả, thì điều ta nghĩ là đúng! Trước hết, ông Phạm Cự Lượng ở Bình Xuyên, Cung Thương, nói rằng: Binh Phong Châu dựa vào chân núi Tam Đảo lập trận. Lượng không hiểu là Điền Bạc bày trận thế nào, chỉ thấy “buổi sáng trận địa như có vẻ âm u tăm tối, buổi tối lại thấy như phảng phất ngày sắp bước vào lúc rạng đông”. Ở phía Bắc, ông Trịnh Tú trấn sau lưng trận của Điền Bạc, thì lại bảo rằng: “Không biết Điền Bạc bày trận ra sao. Chỉ thấy ban đêm dù trời có trăng cũng vẫn thấy trận địa tối đen như có màn đen phủ kín. Ban ngày dù trời có mây che mặt trời lúc bị khuất, thì trận địa vẫn rực rỡ sáng lạ lùng”. Tế tác của ta cũng nhận thấy như thế, lại nói rằng: Len lỏi vào rừng sâu, lại gần phía trận ở sát chân núi thì thấy ở đây khác hẳn hai đầu Bắc Nam. Trời đất vẫn bình thường như ngày thường, nghĩa là ngày thì sáng, đêm thì tối. Cứ như thế, thì Điền Bạc đã bày trận ngày xưa Hoàng Thái Công đời Trụ gọi là “Âm Dương Hợp Hội”, Khổng Minh đời Hán gọi là “Thái Âm Thái Dương huyền trận”. Ngày ta tới Phong Châu ở lại xem Phong Châu với Tam Đái cự chiến với nhau. Ta có nghe thiên hạ đồn là: “Văn sĩ Điền Bạc của Phong Châu biết bày trận gọi là Thiên Địa Giao Hòa trận, có thể biến ngày thành đêm, có thể chuyển đêm thành ngày”. Như thế thì lời các tướng của ta hợp với tin của tế tác là đúng. Nay đứng trên cao nhìn xuống, ông hãy chú ý sẽ thấy: Trận của Điền Bạc ẩn hiện trong cây rừng. Phần phía Bắc dựa mé chân núi thì doanh trại rõ ràng, ôm lấy cả vùng chân núi. Quá xuống phía Nam là trung trận thì như có gió thổi đều đều khiến cho từ trên cao này nhìn xuống thấy như phảng phất cây cỏ rung rinh lay động. Xuống hẳn phía Nam là mé rừng, lẽ ra trời phải sáng sủa, cây cối rõ ràng, thì ở đấy lại thấy cây như dày đặc, trời đất như đang ở vào lúc chạng vạng tối. Quả thật Điền Bạc đã bày trận Thiên Địa Giao Hòa! Chỉ một điều sai lầm lớn của Điền Bạc là tại sao ông ta lại bày trận ở một địa thế như thế này?
Mạc Sa Cảnh hỏi ngay:
- Bẩm Quân sư, địa thế bày trận của Điền Bạc sai lầm ra sao?
- Từ trên cao này nhìn xuống, ông thấy cả một vùng rộng lớn phía dưới kia. Tuy chẳng phải là nằm lọt trong một thung lũng, nhưng hai hướng Bắc Nam đều bị chắn hết. Thành ra trận nằm ở chỗ thấp tù hãm, dùng đến hỏa kế thì trận ra mây khói cả! Từ khi ở doanh Tam Đái nghe tin trình ta đã nghĩ ngay đến sự thể này. Cho nên mới bảo ông Trịnh Tú sửa soạn thật nhiều hỏa liệu là thế!
Quân sư nói xong lại đứng lặng nhìn. Dường như Quân sư trong đầu đang tính toán gấp rút lắm. Mạc Sa Cảnh nghe giảng thì gắng quan sát quang cảnh ở dưới xa, ông nghe nói thì như vậy. Trận Thiên Địa Giao Hòa ở dưới thấp thật, nhưng bảo rằng thấy rõ ràng như lời Quân sư nói thì chẳng thấy!
Mạc Sa Cảnh nhìn một hồi, rồi hỏi:
- Bẩm như thế, Quân sư đã thấy phải phá trận của Điền Bạc như thế nào chưa?
Quân sư không trả lời, vẫn ra vẻ suy nghĩ, hồi lâu mới nói:
- Ta sẽ cố gắng bảo cho Điền Bạc biết, nếu như ông ta nhất định không nghe thì không còn cách nào khác nữa, đành phải hủy diệt ác trận này đi. Nếu không di họa của nó có thể kéo dài cả trăm năm!
Mạc Sa Cảnh kinh hãi, làm sao mà một trận cho dù kinh trời động đất đến thế nào chăng nữa, cũng chỉ có thể sát hại binh tướng của cả đôi bên được hàng nghìn, hàng vạn mà thôi. Chứ sao lại đi lại đến cả trăm năm được là thế nào?!
Mạc Sa Cảnh hỏi:
- Bẩm Quân sư, liệu thì giờ ta còn kịp sửa soạn hay không? Quân sư có thể chỉ dạy cho tôi biết tai họa của trận ác nghiệt này như thế nào được không?
Quân sư khẽ thở dài, bảo:
- Thì giờ thì ta còn rộng rãi, ta ước đoán từ trước cho nên mới cử các tướng mang quân đi như thế. Tuy vậy trước ta nghĩ là có thể đưa quân vào phá trận, nay thì ta thấy không được! Nếu phải phá trận, thì thà ta phải chịu nhận khi trận tan người chết, dù có nặng nề cũng chỉ ở một bên mà thôi. Chẳng nên để cho binh tướng đại nghĩa của ta bị chết thảm! Thương thay, Điền Bạc lúc nào cũng ngủ gật sao lại mơ màng đến cảnh hung dữ này làm gì!
Mạc Sa Cảnh chưa hiểu mọi sự ra sao cả, nghe Quân sư nói cũng thấy động lòng. Rồi chợt cất giọng mạnh mẽ nói:
- Bẩm Quân sư, thắng được trận mà chỉ có ít người chết, đã đành là điều ai cũng mong ước. Còn như không thể được thì việc giết binh tướng địch là điều người làm tướng không thể đem lòng từ bi, đức ái sinh của nhà Phật ra để trì hoãn được! Bẩm Quân sư, từ khi ta tiến binh sang Đông, Điền Bạc vận động kế liên minh không được, thì hiến kế chiêu tập binh tướng, thu gần như trọn vẹn các đám giặc cướp về dưới trướng Sứ quân Kiều Công Hãn. Sửa soạn cho ngày hôm nay cự chống lại Hoa Lư, toan tính bày trận phá đại nghĩa của Hoa Lư. Chủ của ông ta lại mang đầu óc sẵn sàng đem cả giang sơn quỳ gối dâng ngoại bang, xin được làm tôi tớ thiên hạ. Chủ như vậy, thuộc hạ lại phần lớn là hạng trộm cướp, tội ác ngập đầu đáng bị đem chém đầu hết. Nay tụ tập lại cả một chỗ cũng là điều may cho ta, chẳng phải mất nhiều công sức đi tìm mà tiễu trừ bọn giặc cướp ấy! Vậy, thưa Quân sư, phá trận Trời Đất của Điền Bạc, có làm cho nhiều người như vậy phải chết cũng là một việc đang phải làm. Chẳng có gì phải ân hận là giết quá nhiều người!
Quân sư lặng lẽ nghe Mạc Sa Cảnh nói, trầm ngâm, rồi đáp:
- Ông là người hiểu ta! Ta đến với Hoa Lư chẳng phải là để được giết người. Tuy vậy trong ngần ấy năm theo Vạn Thắng Vương ta cũng đã làm cho nhiều mạng người phải mất. Nay phải ra tay lần nữa thôi cũng đành! Ông hiểu ta là được!
Mạc Sa Cảnh vui vẻ:
- Bẩm trình Quân sư, chẳng phải chỉ mình tôi hiểu lòng Quân sư. Tôi tin là không người nào của Hoa Lư ta lại không hiểu, rộng ra ngoài thiên hạ thì người cả cõi Giao Châu ta cũng hiểu về những cái chết của thời loạn lạc này là thế nào, đánh hay không đánh! Vậy, tôi xin được mạo muội tự nhận mình thay cho cả dân tộc này để bảo là hiểu hành động của Quân sư! Xin Quân sư ra lệnh!
Quân sư cảm động, hỏi Mạc Sa Cảnh:
- Tế tác của ông có biết Điền Bạc bày trận ở đây đông khoảng bao nhiêu binh tướng không?
Mạc Sa Cảnh lẩm nhẩm rồi đáp:
- Bẩm, tế tác của ta thấy: Điền Bạc đem binh tướng vào vùng này liên miên suốt gần nửa tháng trời, theo nhiều đường nhiều ngả, đông ước khoảng ba đến bốn chục ngàn người ngựa. Quân đông đến như vậy cho nên phần quân lương vận chuyển đều đều cho đến chiều hôm, rồi cũng có một chuyến nữa đông gần trăm ngựa!
Lê Thảo gật gù, bảo:
- Ống thấy chưa, Hoa Lư ta chưa bao giờ lại gặp phải một người cầm quân cự phách bằng Điền Bạc. Ông ta lo liệu đủ mọi mặt, nhất định là tính kế lâu dài. Một là lo phải chiến lâu với ta, hai là nếu chủ về được Cổ Loa thì đây là đạo hùng binh bảo vệ cho “vua Kiều Công Hãn” đây! Lợi hại thật! Cứ theo như ông nghĩ, thì với số quân đông như vậy, lương thực ấy, bình thường có thể dùng được trong bao nhiêu ngày?
- Bẩm, nếu sử dụng không cần dè sẻn, thì cũng phải được hai hay ba chục ngày là ít. Còn dè sẻn cẩn thận ra cũng phải được hai tháng ngoài!
Quân sư cười, bảo:
- Ông quả thật là nhà quản lý giỏi, bình thường thì như thế thật! Nhưng với Điền Bạc thì lại còn hơn thế nữa! Ông ta chọn vùng này mở trận là nhằm vào nhiều việc có lợi cho việc quân, ngoài việc lập trận. Ấy là vùng này dễ thu lương, dân cả năm nay cúng tế nên sẵn trâu bò để làm thịt. Địa phương lại có nhiều giống lúa gạo thơm ngon hơn bình thường, nhiều giống ngô cả trắng lẫn vàng. Rừng nhiều loại củ mài dùng làm lương thực rất tốt, lại thêm rừng nhiều mật ong, trái cây ăn được. Lương thực lúa gạo có hết, thì trái cây rừng với mật ong cũng có thể nuôi ngần ấy người cả nửa năm trời! Điền Bạc không phải là người cầm gươm lên ngựa, nhưng là người đọc sách. Tiếc thay ông ta không thấy mặt trời mà theo về!
Mạc Sa Cảnh lắng nghe, rồi tần ngần hỏi:
- Vậy sao Quân sư không tìm cách thu phục ông ta?
- Cứ xem như việc ngày xưa ông ta một mình tay không xuống Tam Đái phá nát nội bộ Tam Đái, gây náo động xuống đến phía Nam dòng Bạch Hạc. Cũng thấy ông ta thờ chủ trung thành, tất ông ta cũng biết Kiều Công Hãn là người thế nào. Nhưng cái đạo của kẻ sĩ đọc sách đã chót theo chủ thì giữ lòng trung dù có phải chết. Cho nên không thể thuyết phục ông ta bỏ chủ hay nộp chủ được đâu!
Mạc Sa Cảnh lại hỏi:
- Vậy, trong trận chiến này, Quân sư thấy Điền Bạc cũng phải chết?
- Ta chưa biết được! Nhưng ước lượng nhẹ thì cũng chết nửa số quân của ông ta! Ngần ấy con người bỏ mạng trong một trận đánh, có phải là điều để ta phải nghĩ ngợi hay chưa?!
Mạc Sa Cảnh như cố ý chặn không để Lê Thảo than thở gì thêm nữa, hỏi:
- Bẩm, Quân sư cần sửa soạn gì cho trận nữa không?
- Bây giờ, ông cho tế tác mang lệnh đến cho tướng quân Phạm Cự Lượng: Đem hết hỏa liệu kín đáo trải ở rừng phía Bắc Bình Xuyên, tức là chỗ ngăn cách hẳn giữa binh đôi bên. Binh của Điền Bạc trấn đến nơi nào thì phục hỏa trận giăng dài đến đấy. Đợi khi nào trận thế của Điền Bạc lung lay có vẻ muốn chạy xuống phía Nam thì cho nổi lửa đốt hỏa liệu đốt rừng cản địch. Còn quân nhà thì đưa hết lên phía Bắc rặng Bình Xuyên, đợi khi nào binh của Phong Châu từ phía Nam kéo lên, thì tràn xuống chặn lại, không cần phải chiến với binh của Điền Bạc.
Mạc Sa Cảnh ghi nhớ, Quân sư lại bảo:
- Ông đưa tin lệnh đến cho tướng quân Trịnh Tú. Đem binh xuống sát trận của Điền Bạc, mở các xe lấy đồ dùng, chuẩn bị đúng giữa đêm ngày chín bước sang ngày mười thì đổ lửa xuống toàn trận của Điền Bạc. Khi nào lửa cháy rồi thì cho quân sang phía Đông đợi binh tướng Điền Bạc chạy tới.
Mạc Sa Cảnh ghi nhớ lệnh ấy.
Quân sư bảo Cảnh đích thân đi các nơi xem xét, rồi sẽ gặp lại Quân sư sau. Cảnh vâng lệnh xuống núi ngay, đi được ít bước Cảnh thấy tâm cơ xao động. Dừng bước nhìn lại, thấy Lê Thảo vẫn đứng nhìn xuống cả một vùng bao la. Cảnh gấp bước xuống núi.
Chưa biết chiến trận thế nào? Xin xem hồi sau sẽ rõ.
—ooOoo—