Hồi Thứ Một Trăm Mười Chín Hỏa công Tam Đảo mở trời đất
Dao ngà kết thúc loạn Sứ quân
Phủ đường Phong Châu chiều hôm nay, chiều ngày Trùng Cửu, đông đủ các thuộc tướng còn ở lại với Sứ quân. Trên gương mặt người nào cũng tràn trề niềm vui. Từ sớm hôm nay Sứ quân đã đem hết thuộc hạ cùng vợ con lên ngọn đồi ở Phụng Trì để làm lễ Đăng Cao, rồi ở lại trên đồi vui vẻ hưởng một ngày yến tiệc. Cho đến lúc trời sắp sửa bắt đầu tối thì Sứ quân mới ra về. Như thế là lễ Đăng Cao đã xong, từ đây chỉ có phúc. Bao nhiêu họa hại đều sẽ lánh xa Sứ quân.
Trở lại phủ đường, Sứ quân Kiều Công Hãn được tin trình các nơi đều mở lễ tốt đẹp. Ngay cả đến các tướng trấn ở phía Nam cũng mở được lễ, không thấy bóng bình tướng Hoa Lư ở đâu. Sứ quân truyền chúng thuộc hạ sửa sang lại phủ đường.
Đến đầu giờ Tí đêm Trùng Cửu sang ngày mười tháng chín năm Đinh Mão (967). Sứ quân Kiều Công Hãn đất Phong Châu mặc áo vóc đại hồng tay rộng, đầu đội mũ Bình Thiên, chân đi giày Tảo Địa. Đem hết thảy các thuộc tướng còn lại, đông cả thảy khoảng sáu mươi người thuần là võ tướng vào đại sảnh. Sứ quân sai bày bàn dài ba thước sáu tấc gỗ ba la mật đỏ (gỗ mít già). Trên bàn không bày gì chỉ để một lư trầm, giữa bàn trịnh trọng để hộp đựng cây gươm báu bằng ngà của Tống đế trao làm tin. Sứ quân ngồi ghế lớn không bọc da hổ, mà lót nệm lông bạch yến, bọc gấm xanh thêu rồng phượng tranh viên ngọc lớn. Sảnh đường sáng rực, các tướng ông nào cũng thay đổi nhung y chiến tướng mới tinh, đẹp vô cùng.
Khai hội, Sứ quân truyền gióng ba hồi đại cổ, xen lẫn khánh đồng, trang nghiêm mà hùng vĩ.
Rồi ngài trịnh trọng bảo:
- Này các ông, từ khi ta khởi nghiệp trấn giữ một góc trời này đến nay. Chưa bao giờ mở lễ Đắng Cao Trùng Cửu lại vui như năm nay, ấy cũng vì nội đêm nay cả cõi Giao Châu được thấy khí thiêng của Trời Đất hội tụ cả về đây, hiển hiện việc thần kỳ. Mừng ta quang xuất lên ngôi báu trị vì phương trời Nam này!
Sứ quân mới nói đến đây, chúng thuộc tướng đã nhất tề hô to “Vạn tuế! Vạn tuế!”. Cả phủ đường ầm ầm, bá tánh nghe biết tin mừng từ mấy ngày nay cũng ra sức lễ hội. Khuya về đêm thế mà chẳng ai muốn đi ngủ, ai cũng muốn thức để chờ xem thiên tượng ra sao lúc bậc nhân thần xuất hiện lên ngôi báu. Vì vậy khi nghe trong phủ đường có tiếng hô lớn, thì bên ngoài bá tánh cũng hò reo tung hô theo.
Trong những tiếng động ầm ầm bên ngoài của bá tánh tung hô. Sứ quân gương mặt rạng rỡ, ngài đứng lên trịnh trọng mở chiếc hộp dài. Thanh gươm bằng ngà trắng muốt hiện rõ trên nền gấm đơn xanh mướt. Gươm báu của Tống đế gửi làm tin. Sứ quân hai tay nâng gươm, nghiêm trang như khấn lạy:
- Bẩm trình Trời Đất Tổ Tiên, chư liệt hiền thánh, đêm hôm nay bản sứ đợi mệnh trời. Nhận lệnh cai quản phương Nam, thiên tượng chứng minh trên cao, gươm ngà báu vật làm tin dưới thế. Xin Trời Đất hiển hiện điềm lành báo hiệu!
Sứ quân nâng gươm ngà lên ngang trán, các tướng vội đứng cả lên. Tiếng ghế xô đẩy rào rào chen lẫn những tiếng hò reo dữ dội bên ngoài. Tướng tuần phòng phủ đường Chung Quốc Thành chạy vào phủ phục giữa sảnh kêu to lên:
- Bẩm trình Chúa công, phía Đông có lửa sáng trời, chưa biết là việc gì!
Sứ quân rất bình tĩnh, ngài bảo:
- Nửa đêm phía Đông sáng rực, không phải là lửa cháy, đấy là mặt trời đã lặn lại hiện ra soi sáng cho thế gian biết việc ta lên ngôi!
Các tướng nghe Sứ quân bảo thế, lại nhất loạt tung hô “Vạn tuế!”. Sứ quân rất ung dung, ngài đặt gươm ngà vào trong hộp, rồi bước xuống ra ngoài để xem thiên tượng linh ứng. Các thuộc tướng vội vã chen nhau đi theo Sứ quân.
Ra đến ngoài, phủ đường sáng với trăng non lên từ sớm lúc này đã cao, phía trời Đông đỏ rực. Ráng mây cộm hiện rõ cả một vùng thật lớn. Sứ quân khoan khoái giơ tay vuốt chòm râu ngắn, bảo:
- Thật là điềm trời linh ứng vô cùng, xưa nay chưa hề có việc nửa đêm mặt trời lại mọc. Rõ là bậc nhân thần lúc chịu mệnh trời lên ngôi báu, có làm cho trời đất chuyển động khác thường thật!
Sứ quân vừa dứt lời, có người kêu to:
- Phía Tây trời cũng đỏ!
Sứ quân cả cười:
- Bốn phương đều rực rỡ mừng chân mệnh đế vương quang xuất! Lành vậy thay!
Rồi Sứ quân rộng bước trở lại đại sảnh, các thuộc tướng chưa bao giờ lại thấy gương mặt Sứ quân rạng rỡ đến thế!
Tướng quân Chung Quốc Thành tuy nghe Sứ quân bình tĩnh nói cười vui vẻ, các người khác hùa theo, riêng mình ông vẫn lo lắng. Ông không theo Sứ quân trở vào đại sảnh, lẳng lặng ra ngoài gọi quân hầu. Hai thầy trò lên ngựa đi thăm tình hình. Vừa ra khỏi phủ đường, tướng quân hồn vía lên mây, kinh hoàng suýt chút nữa thì ngã ngựa, gắng gượng lắm mới ngồi vững giữa cảnh hỗn loạn chưa bao giờ thấy. Trăm họ la hét bồng bế nhau chạy khắp nơi, giữ lại hỏi thì người ta bảo là: Quân doanh thủy trại phía Tây nằm ở bên sông Bạch Hạc đã bị binh tướng Hoa Lư thiêu rụi. Ở phía Đông lửa cũng ngút trời, soi tỏ đến từng cành lá bụi cây ở tận phủ đường này. Tiếng la hét kinh hoàng của bá tánh tuy cũng át được tiếng reo hò dù ở xa, nhưng những reo hò ấy vẫn dữ dội tỏ ra là đang có chiến trận lớn.
Tướng Chung Quốc Thành hấp tấp quay ngựa trở về, chẳng còn kịp báo trước. Thành như luồng gió ào vào đại sảnh miệng la:
- Có biến! Có biến! Quân Hoa Lư phá thủy trại rồi!
Sảnh đường chết lặng, thì lại có người chạy vội vào kêu to lên:
- Bẩm Chúa công, binh Hoa Lư đại phá trận phía Đông! Điền Bạc Quân sư nguy rồi!
Sảnh đường càng khiếp hãi, lại có người cuốn gió ào vào kêu to lên:
- Chúa công! Chúa công! Binh Hoa Lư chặn phía Nam, binh tướng của ta chết trận nhiều lắm, đầu hàng cả rồi!
Người vừa kêu là tướng Lý Mạnh Đạt. Tướng này là tay vũ dũng của Phong Châu, tính tình điềm đạm, biết suy nghĩ. Ông cùng các tướng khác theo đại tướng Đặng Nhất Hùng vâng lệnh Sứ quân xuống trần giữ mặt Nam cản không cho quân Hoa Lư có thể từ Tam Đái tiến lên. Bây giờ thoát được nguy hiểm, tướng Đạt mình đầy thương tích, máu me đầm đìa chạy vào sánh đường phủ đường Phong Châu báo tin, xong thì gục xuống. Sứ quân bây giờ như cái xác chết ngồi lặng trên ghế, đầu óc hoang mang trống rỗng.
Đang trong lúc cả sảnh đường bối rối. Chẳng còn người nào lại còn có thể suy nghĩ tính toán hay có hành động gì cho đúng lúc ấy, thì lại có người chạy vào kêu to lên:
- Bẩm Chúa công, đại binh Tống triều đã tới!
Sứ quân cũng như hết thảy các thuộc tướng của ngài tưởng như vừa tỉnh giấc ngủ đang bị bóng đè khủng khiếp! Binh Triều đại Tống đã tới, như thế thì vạn sự sẽ được dàn xếp, chẳng còn có gì phải lo lắng nữa.
Sứ quân tỉnh cả người, ngài lớn giọng truyền:
- Truyền gióng trống, ta đi đón binh Tống đến cứu nguy! Sảnh đường như bừng dậy, các tướng chỉ vừa mới đây thôi rù ra như gà bị ngâm nước, bây giờ như cây non đâm chồi vào giữa ngày xuân. Ông nào cũng mạnh chân cuống quýt chen nhau chạy ra. Chẳng biết chạy ra để làm gì?
Trống gióng lên hùng dũng, ngay trong tiếng trống nghe cũng có hồn thật hể hả.
Sứ quân Kiều Công Hãn đứng nhìn các thuộc hạ lăng xăng, chính ngài cũng chưa biết phải làm gì. Bên ngoài nghe có nhiều tiếng ồn ào, có tiếng hô lớn:
- Vạn Thắng Vương tới, Kiều Công Hãn mau ra quỳ lạy!
Tiếng thét nghe còn hãi hùng hơn cả tiếng sét vừa đánh ngang tai, Sứ quân chết sững. Có người nắm ngay lấy tay Sứ quân kêu lên:
- Chúa công, mau đi thôi!
Người ấy một tay chộp lấy hộp gấm đựng con dao bằng ngà, một tay nắm chặt tay Sứ quân kéo ngài chạy lại hậu đường. Người ấy chính là tướng Chương Đại Quyển, người ở Trường Châu, huyện Vũ Tiên (nay là Thái Bình). Quyển vóc người tầm thước, có đọc sách, không giỏi về võ nghiệp, tính tình ngay thẳng, chính trực. Theo về Sứ quân chẳng đua đòi bè đảng, không nịnh bợ, cho nên Sứ quân tin giao cho trông nom sổ sách nhưng không bàn việc. Quyển nhiều lúc thấy đám thuộc hạ của Sứ quân lộng hành thì trong lòng buồn bực, nhưng không làm cách nào trình bày để Sứ quân biết được. Quyển hay đi lại với Điền Bạc, ngỏ nỗi lòng, lại có lần nói: “Chúa công dụng dưỡng những kẻ ấy, có khi mang họa...” Điền Bạc hiểu nhưng cũng chẳng làm sao được. Hai người hay than thở với nhau. Lúc Điền Bạc ra phía Đông lập trận, trước khi đi có dặn Chương Đại Quyển là: “Mai sau lỡ có xảy điều không may, chắc chỉ còn mình ông là người còn dám ở lại bên cạnh Chúa công.” Chính vì câu nói này mà Chương Đại Quyển kịp đem Sứ quân bỏ trốn, giữa lúc các thuộc tướng của Sứ quân kinh hoàng bỏ chạy tán loạn, quên cả Sứ quân.
Lúc đem Sứ quân đi trốn, Chương Đại Quyển còn đủ tỉnh táo để nghĩ: “Có thể mai sau nhờ vả được Bắc triều, con dao ngà làm tin là vật giúp ích nhiều cho Sứ quân.” Vì thế Quyển chỉ cướp con dao rồi đem Sứ quân đi ngay.
Khi ấy, vào khoảng cuối giờ Tí, đứng trên sườn núi cao Tam Đảo phía Nam. Trong đêm tối, Quân sư Lê Thảo nhận tin đầy đủ của tướng Nguyễn Bặc ở phía Bắc phủ đường Phong Châu. Đạo quân ở gần phủ đường nhất do Nguyễn Bặc thống lãnh tế tác của Bặc xin lệnh Quân sư từ đầu giờ Tí, và bây giờ ở tả dực của đạo quân giả dạng binh Tống triều nổi lửa hiệu cho các mặt biết mình tiến quân. Vì thế từ phủ đường mọi người đã trông thấy lửa cháy, và phía Tây tướng quân Nghi Bá Tường cai quản đạo quân đi đường thủy đúng hẹn cho đạo thủy quân rời bến.
Từ chiều, Tường lo lắng không biết phải làm sao để kéo quân từ cứ doanh Ngã Ba Hạc lên Bắc mà không lo bị lộ quân. Đến khi trời tối hẳn thì mặt sông mênh mông chợt mờ đi, sương sa như giải lụa xám che phủ tất cả, gió Bắc thổi xuống bỗng dừng lại. Tường mừng quá nhớ lại lời Quân sư nói: “Thời tiết sẽ giúp cho ông?”.
Cả đạo quân kéo lên đúng nơi đã chọn thì ẩn trong lau sậy bên bờ, lại nhờ sương mù che khuất thành ra được thật yên ổn kín đáo. Khi vừa thấy lửa cháy tức thì tướng Nghi Bá Tường cho lệnh một nghìn năm trăm quân giáp kỵ ào ạt bỏ nơi ẩn nấp tràn lên bộ. Chớp mắt vững vị trí là đến lượt tướng Lê Hoàn vào trận. Ông dẫn đạo quân toàn dùng dao ngắn, tung hoành như bầy cọp dữ đánh phá các doanh trại của quân thủy Phong Châu cất trên bờ. Lại thêm gươm báu Thụ Thiên trong tay tướng quân mở đường, chẳng mấy chốc đạo quân thủy lên bộ đã chiếm trọn doanh trại thủy quân Phong Châu chẳng khó khăn gì. Binh tướng trong thủy trại Phong Châu chẳng người nào sửa soạn trước phòng bị chiến tranh. Tất cả đua nhau với phủ đường và bá tánh khắp nơi mê man trong yến tiệc mừng, chờ lúc Sứ quân lên ngôi báu!
Lê Hoàn mở đường vừa xong, đến lượt tướng quân Hà Bảo Ninh đứng ở mũi chiếc thuyền lớn. Hai bên là hai thuyền nhỏ hơn, ba thuyền này thì thuyền lớn có Vương cùng nhiều tướng. Hai thuyền bên cũng chở toàn các tướng khác. Tổng cộng ba thuyền có đến hơn năm chục tướng đi theo Vương. Hà Bảo Ninh vận chiến phục màu đen, trong tay Ninh cầm con dao ngắn to bản, ánh thép long lanh trong lửa chiến trường. Ninh cho thuyền áp bờ thì cũng đúng lúc tướng Nghi Bá Tường đã được tin báo. Tường cho khinh soái thuyền tới ngay, lúc ấy mới biết là Ninh dùng ba thuyền để đưa Vương cùng các tướng tới.
Hà Bảo Ninh tung mình bay lên bờ trước, ông quan sát thật nhanh rồi mới cho quân bắc cầu để Vạn Thắng Vương rời thuyền. Vừa thấy Vương, chúng tướng cùng quân trên bộ hò reo đón mừng, hô “Vạn tuế!” rầm trời. Tế tác đi như thoi đưa đem tin đi các nơi, tướng quân Lê Hoàn đã được tin. Nhìn ra phía Đông thấy lửa cháy thì lập tức bảo tướng Nghi Bá Tường cho nổi lửa. Chẳng mấy chốc lửa chảy ngút trời dọc bờ sông ngược lên phía Bắc, và ông thúc quân mở đường, theo chân tế tác gấp tiến về phía phủ đường.
Bá tánh phía Tây phủ đường đã biết có việc gì xảy ra, không thấy binh Hoa Lư có hành động chém giết đột phá, lại nghe tin Vạn Thắng Vương đang tiến về phủ đường thì rủ nhau lũ lượt đi đón. Vì thế Vương không đi nhanh được. Tướng Hà Bảo Ninh lúc này đã lên ngựa, trong ánh lửa đuốc trông tướng quân như thần tướng. Ninh hò hét dẹp đường mà cũng không được, bá tánh nghẹt lối đi luôn mồm hô vang “vạn tuế” khiến Ninh có muốn nặng tay mở lối cũng không dám. Rồi Vương phải đích thân đi lên trước, các tướng vây quanh hộ tống, lúc ấy Ninh mới dẹp được đường đi.
Phía trước, tướng quân Lê Hoàn kéo đạo quân đi từ xa đã thấy lửa đuốc cháy sáng rực ở phía Bắc phủ đường, phía Nam cũng lại thấy lửa cháy, có tiếng quân reo hò. Chưa bao giờ Lê Hoàn lại thấy cảnh cả bốn mặt đại binh Hoa Lư tiến đánh bao vây một nơi dữ dội đến thế này!
Đạo quân tiến vào phủ đường trước tất cả chính là đạo quân mang cờ hiệu Tống binh đánh lừa Sứ quân Kiều Công Hãn. Và tiếng thét là Vạn Thắng Vương đã tới Sứ quân mau mau ra lạy hàng, chính là tiếng thét của tướng quân Đinh Điền.
Cây côn đồng trong tay Đinh Điền theo cùng với tiếng thét đập tới đánh gãy ngay cây cột cờ lớn ngay phía bên phải cửa đại sảnh. Cây cột vật xuống thì đến lượt tướng quân Phạm Hạp tung mình lên thềm cửa đại sảnh. Thanh đoản đao to bản trong tay tướng quân phát ra một đường đúng lúc các tướng của Sứ quân nghe Sứ quân kêu lên mau mau ra đón Tống binh thì ùa ra. Thương thay hai tướng chạy ra trước lãnh ngay mũi đoản đao lia tới. Hai tướng trong tay chẳng có một tấc sắt, lại thêm trong lúc chẳng phòng bị gì. Đường đao đi hung mãnh quá chặt hai tướng đứt lìa ngang bụng, máu văng tung tóe. Các tướng kéo ra sau chưa hiểu sự tình thế nào, thì cây côn đồng của Kim Côn Tướng Đinh Điền đã đập tới. Lại nghe “bốc” một tiếng dữ dội thì một tướng nữa lại mạng vong. Các tướng hoảng loạn dồn cứng cả lại ở bên trong cửa sảnh đường.
Nhân lúc hỗn loạn này mà tướng Chương Đại Quyển kéo Sứ quân theo lối cửa ngách, lần được ra ngoài sau phủ đường.
Nhìn ra bốn phía, Quyển thấy đều có lửa cháy không gần thì xa. Biết là binh Hoa Lư bốn mặt cùng đánh tới không còn có sức nào cứu vãn được nữa, nhìn ra Quyển thấy Sứ quân gương mặt vốn xương xương với chòm râu thưa. Nay thì khuôn mặt ấy có vẻ hốc hác thất thần, Quyển thấy thương xót chủ mình quá!
Chương Đại Quyển đưa Sứ quân Kiều Công Hãn nương bóng đêm, giữa lúc trăm họ đang như điên cuồng hò reo khắp nơi. Liền thay đổi trang phục rồi hai thầy trò lặng lẽ lên ngựa đi về hướng Nam.
Khi Vương vào đến phủ đường, thì một côn một đao của hai tướng Hoa Lư đã sát phạt gần hết đám tướng của Sứ quân Kiều Công Hãn trong đại sảnh. Vương vội truyền các tướng ngừng tay chém giết. Lại trách sao nỡ giết nhiều người đến như thế, thì tướng Đinh Điền thưa:
- Bẩm trình Vương, đây toàn là những tên cướp rừng giặc núi. Bị binh tướng của Hoa Lư ta truy nã cùng đường thì theo về làm giặc chung với Kiều Công Hãn, chúng tránh chết ở xó rừng thì chết ở đây cũng là phải. Mạng sống của những tên giặc cướp này nào có đáng kể gì. Lẽ ra phải băm vằm chúng ra thì trăm họ mới hài lòng!
Vương cho lệnh tìm Sứ quân. Tìm chẳng thấy ở đâu, hỏi chẳng ai biết. Vương liền phát lệnh cho các tướng ở các nơi phải hết sức tìm xem Kiều Công Hãn ở đâu. Lại sai các tướng Triệu Đồng Long, Phạm Bảo Đức, và hai anh em sinh đôi Quan Liên Hoa, Quan Liên Đường là các tướng cũ của Bình Kiều, đem một nghìn quân gấp đi tra hỏi tìm tung tích Sứ quân.
Vương vừa ban lệnh xong, thì tin trình vào: Tướng quân Đinh Liễn đã đem đại quân lên, đưa các tướng vào lạy mừng Vương. Liễn nghe lệnh thì nói:
- Bẩm trình Vương, có lẽ Kiều Công Hãn đã xuống Nam. Cách đây chẳng lâu thấy có hai người, một hơi già có râu, một người trông có vẻ là văn sĩ, len lỏi đi ngược đường bá tánh, xem ra có vẻ vội vã. Cả hai đi về phía Đông Nam thì phải.
Vương liền truyền lệnh tin ngay cho tế sứ là tướng Mạc Sa Cảnh hay. Lại dặn là phải tìm cho được Sứ quân để trừ hậu họa. Ngay lúc ấy, Vương bảo tướng Nghi Bá Tường:
- Đại công của ông đi suốt từ Đằng Châu ngược dòng Xích Đằng, lên đến tận nơi đây trải mấy trăm dặm đường dài, bao nhiêu phen vào ra trận mạc, tới Phong Châu thì kể như đã xong. Vậy ông ở lại đây xử lý mọi việc, thu dọn chiến trường, vỗ an trăm họ, thu thập binh tướng lạc loài, làm hết thảy những việc trị an, để ta đem các tướng vào trận ngay mới được.
Rồi Vương sai tướng quân Lê Hoàn lĩnh cờ tiên phong. Vương mang hết thảy các tướng rời phủ đường Phong Châu. Kéo ra phía Đông tiếp chiến với các mặt quân Hoa Lư đang vào trận chiến với Điền Bạc.
Binh của Vương tới đúng vào lúc tướng quân Phạm Cự Lượng ở phía Tây quay về Đông đã vào sâu trong trận.
Lúc ấy, tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh cùng với Quân sư Lê Thảo còn đứng ở trên sườn núi. Đúng hẹn thấy lửa bật sáng ở phía Đông phủ đường, rồi phía Tây lửa ngụt trời. Gần như cùng lúc là lửa cháy ở phía Bắc, thì biết là các tướng đã mở trận, Quân sư bảo Mạc Sa Cảnh:
- Ông cho lệnh Trịnh Tú sẵn sàng, khi nào đại trận của Điền Bạc bắt đầu thì dụng hỏa công trước, rồi cứ theo hiệu lửa trên vách núi này mà tiến theo hướng chỉ rõ!
Mạc Sa Cảnh vâng lệnh, vội sai tế tác đi ngay.
Khoảng tàn giờ Tí sang đầu giờ Sửu, thì lại thấy ở phía Nam có đuốc lửa, rồi tin trình: Đại binh phía Nam đã kéo lên. Vương đã từ đạo binh thuyền của tướng Nghi Bá Tường lên bộ, các tướng đang mở đường về phủ đường.
Chẳng mấy chốc, lại được tin nói về tình hình ở phủ đường. Tin Sứ quân đã trốn thoát. Nhìn xuống phía dưới, vẫn không thấy có gì khác lạ. Rừng bao la vẫn đen kịt dưới ánh trăng khuya đêm Trùng Cửu sang ngày Mười. Quân sư bảo với Mạc Sa Cảnh:
- Lửa cháy khắp nơi, nhất định tin ở phủ đường đã tới thế mà Điền Bạc vẫn án binh bất động. Quả thật đáng nể!
Mạc Sa Cảnh hỏi:
- Bẩm Quân sư, tại sao Điền Bạc án binh bất động là đáng nể!
- Điền Bạc tất biết tình hình. Việc ông ta mang lại bình an ở đây thừa hiểu không phải là một sức mạnh có thể đảo ngược tình thế đánh tan được binh ta, để đưa Sứ quân Kiều Công Hãn về Cổ Loa được. Nhưng, nếu binh ta một mặt không giải quyết nhanh được phủ đường Phong Châu, làm cho chiến trận mở ra ở các nơi, Sứ quân an toàn cự chiến với binh ta đi xa cứ địa Hoa Lư, thì trận Trời Đất của Điền Bạc ở nơi này chính là nơi để làm ta bị hao binh tổn tướng thật lớn. Mặt khác, trận ở đây có thể chẹn đường từ Phong Châu tới Cổ Loa của ta, làm cho ta lúng túng với chiến trận các mặt. Thất bại ở nơi này ít ra ta cũng phải tạm lui về Tam Đái. Tới lúc ấy thì Điền Bạc sẽ thừa đà thắng trận xua quân xuống Nam đuổi ta, cùng một lúc đưa Sứ quân về lấy Cổ Loa! Nhưng, Điền Bạc quyết không biết sức ta ở Cổ Loa, lại không ngờ được binh Tống là ta lừa Sứ quân. Thành ra phủ đường phải mất, phủ đường mất, Điền Bạc phải được tin ngay, ông ta không động đậy ấy là định lừa ta từ Phong Châu về Cổ Loa thì sẽ bị một trận thật ác liệt. Cho dù cuối cùng Điền Bạc có tan trận thì cũng đã trả được nợ cho chủ, làm trọn được đạo của bề tôi trung thành!
Mạc Sa Cảnh đứng nghe, không hiểu như thế thì việc Quân sư xếp đặt trận thế các mặt, lại muốn dụng đến hỏa công ở nơi này, thì trận chiến sẽ ra sao? Liền hỏi:
- Bẩm Quân sư, như vậy thì Quân sư đã hiểu rõ tim gan của Điền Bạc. Liệu trận Trời Đất này của ông ta sẽ ra sao?
Lê Thảo lặng lẽ, rồi khẽ thở dài, bảo:
- Ta cố tránh chết chóc cũng không được! Ta không thể giữ cho binh tướng của ta chẳng bị thiệt một mạng nào, chiến tranh là phải có chết chóc. Chỉ hiềm một nỗi chết chóc đã nhiều quá rồi, mà đến trận Trời Đất này lại càng nhiều hơn nữa thì là điều chẳng phải là đáng sợ hay sao? Bính tướng của ta vào trận, tất có thiệt hại. Cứ xem trận với cách đối phó của ta, thì binh tướng của Điền Bạc trong trận Trời Đất này của ông ta tất phải thiệt nhiều lắm! Từ ngày ta bắt đầu ngồi bàn việc định kế giúp vương, mở đầu là năm Tân Hợi (951) chiến với Nam Tấn Vương, trải qua bao nhiêu biến đổi, vất vả khắp cõi Giao Châu. Binh tướng vào trận hơn mười năm trời, đến năm nay là Đinh Mão (967). Trận chiến với Phong Châu chỉ vì còn vướng Điền Bạc mà không thu phục được ông ta. Khiến cho bước cuối cùng đi đến Cổ Loa lại phải lót đường bằng xương máu nhiều đến thế này! Ngày nọ, Trời cao chắc đã muốn thu mệnh ta, Thần y ra tay làm trái ý trời. Ta nghĩ sau trận này thì tuổi thọ của ta chẳng còn là bao nhiêu nữa!
Mạc Sa Cảnh lặng lẽ đứng nghe, ông là người duy nhất nghe những lời tâm sự của Quân sư. Mạc Sa Cảnh không được biết ngày Quân sư tới với Động chúa Hoa Lư thì lúc ấy Quân sư là một thanh niên phong cách cùng với gương mặt đẹp tuyệt vời. Nay Quân sư đã là một người trung niên, khuôn mặt vẫn lồ lộ với những nét thanh tú đẹp thần tiên, tà áo văn sĩ bay theo gió núi lúc tiết trời sắp sang Đông. Cảnh thấy Quân sư có hơi gầy.
Cảnh nói:
- Bẩm Quân sư, trượng phu đứng trong trời đất, có kể gì đến vất vả với xương máu! Đại cuộc tồn quốc lâu dài hay vong quốc ngàn năm mới là điều đáng để tâm! Vả chăng, mệnh người là ở trời, thì mệnh của những con người dưới kia sắp hết cũng là do ở trời định cả! Thêm nữa, cả thiên hạ đều biết, đám người ấy toàn là giặc cướp nhân lúc nhiễu nhương hành hạ dân ta suốt hơn hai chục năm trời. Bây giờ có phải đến lúc phải chết để đền tội cũng là điều chậm lắm rồi. Chẳng có gì để chúng phải kêu ca, chẳng có gì phải thương tiếc những phường giặc nước ấy! Quân sư vì đại nghĩa của Hoa Lư mà ra tay, sao lại có thể quên đại nghĩa trường tồn của dân tộc, để tiếc bọn giặc nước được!
Quân sư nghe Mạc Sa Cảnh nói vẫn lặng lẽ. Hai người cứ đứng nhìn vào vùng rừng âm u đen tối ở dưới kia. Cho đến khi tế tác đến trình Mạc Sa Cảnh:
- Trình tướng quân, Vương đã vào phủ đường, gần trọn các tướng của Phong Châu ở phủ đường bị giết hết. Thêm việc bá tánh thừa cơ hội trả thù kéo dài đi phá phách nhà cửa của các thuộc hạ Sứ quân, nhiều người trong số các thuộc hạ ấy bị giết chẳng kể già trẻ hay gái trai! Vương đã phải xuống lệnh cho các tướng ngăn cản không cho dân chúng đánh giết nữa!
Quân sư càng lặng lẽ, tế tác trình tin xong thì quay gót bước đi. Quân sư ngửng mặt nhìn trời, rồi bảo:
- Sang giờ Sửu rồi!
Mạc Sa Cảnh chưa hiểu ý Quân sư, thì Lê Thảo giọng rắn rỏi bảo:
Tướng quân Mạc Sa Cảnh, ông hãy mang lệnh cho tướng Trịnh Tú mở trận, dọn đường để vương về Cổ Loa! Dặn ông ấy nhớ nhìn lên đây theo hiệu tiến lui!
Mạc Sa Cảnh chợt thấy như có tia gió lạnh luồn trong các đốt xương sống lưng, ông rùng mình xúc động lặng đi. Bao nhiêu lần Mạc Sa Cảnh mang lệnh của Vương, của Quân sư đi, bao nhiêu lần chứng kiến những việc chém giết. Thế mà lần nhận lệnh chém giết này ông lại thấy run rẩy, chỉ mới đây thôi giọng ông cứng như thép nguội luận về tội lỗi với chết chóc. Vậy mà nghe xong lệnh của Quân sư thì giọng ông nói như người đang bị rét run lẩy bẩy:
- Tuân... lệnh!
Mạc Sa Cảnh lập cập bước đi trên vách núi chỉ còn một mình Quân sư và hai người quân hầu.
Quân sư bảo hai người quân hầu:
- Các ngươi đem đuốc để sẵn, đánh lửa để sẵn. Nhớ phải kín đáo không được để cho bên ngoài thấy lửa, đợi lệnh!
Hai người quân vâng dạ chạy đi sửa soạn các bó đuốc đã đem lên đây từ trước. Hồi lâu xong việc, đến phục lệnh vẫn thấy Quân sư đứng im.
Thời gian nửa đêm đầy trăng thượng tuần trôi về phía Tây Nam, núi rừng lặng lẽ. Quân sư lại ngửng mặt nhìn trời, xem thiên văn để tính giờ. Cũng vừa lúc ấy ở mé Tây lửa bật cháy, đấy là binh của tướng quân Phạm Cự Lượng trấn Bắc Bình Xuyên, Cung Thương. Nhớ lời dặn đưa quân lên tiếp trận với quân phía Bắc. Lửa trận ở phía Tây vừa cháy thì các tướng Trịnh Tú, Đỗ Mậu Đại, Chu Kỷ Toàn, Hồ Tường Thụy đã nhận được lệnh và mở xong năm mươi xe nhỏ chở đồ bí mật gì ở bên trong. Các tướng hồi hộp, thì ra trong các xe ấy không có gì ngoài những miếng vải buồm thuyền lớn đi biển. Các tướng nhìn nhau không hiểu phải dùng vải buồm ấy làm gì, lục tìm thì trong một xe có lời dặn của Quân sư viết trên mảnh lụa trắng: “Sai Thần Gió mang hỏa liệu xuống trận Trời Đất của Điền Bạc”. Tướng quân Hồ Tường Thụy kêu to lên:
- Trời đất ơi! Quân sư lại sai lấy lửa ở lò bát quái của Thái Thượng Lão quân đốt trận của Điền Bạc!
Bây giờ thì các tướng đều nhớ lại trận lửa ở Tế Giang. Bốn tướng mừng quá vội cho quân gấp dùng các miếng vải buồm ấy sửa soạn để chở hỏa liệu đi. Lại nhớ chuyện ngày nọ Quân sư làm để đưa binh tướng từ núi cao xuống Siêu Loại. Các tướng sai quân mau mau buộc hỏa liệu vào các tấm vải buồm, lại cột thêm cả đá đủ nặng để khỏi bị gió cuốn đi.
Trên sườn núi, các tướng nương vào gió Bắc thổi chẳng mạnh. Sai quân thả các mảnh vải buồm ra cho bay vào trong thung lũng phía dưới. Trăng sáng giúp các tướng thấy được những mảnh vải buồm bay đi, hạ thấp xuống. Nhiều cái xuống dưới thấp thì bị gió thổi lật, chắc là bao nhiêu hỏa liệu đều bị đổ mất cả.
Tướng Trịnh Tú kêu lên:
- Ông Thụy, mau mau bắn tên lửa!
Hồ Tường Thụy giật mình, vội hạ cung, đặt ngọn tên đầu quấn vải tẩm hỏa liệu. Tường châm đầu tên vào lửa rồi giương cung phóng mũi tên đi. Tên vạch một đường kéo hút xuống dưới xa, nhỏ dần như sợi chỉ thì lửa một cụm bùng lên. Thoáng lát lửa cháy nhiều nơi, rồi lan rộng. Trên sườn núi cao, chúng quân hò reo. Các tướng tiếp tay với quân càng ra sức thả hỏa liệu đi. Bây giờ lửa cháy ở dưới sâu hút gió mạnh, nhiều tấm hỏa liệu bị thổi lật ngay, làm cho cả một vùng thung lũng như đang có trận mưa lửa ập xuống. Trong cảnh lửa cháy rừng bị thiêu ấy, các tướng Hoa Lư còn nghe rõ tiếng reo hò trong trận của Điền Bạc.
Tướng Trịnh Tú bảo:
- Quân sư dặn thả lửa xong rồi thì đem quân xuống phá trận, vậy ta mau mau xuống núi!
Thế là ba mặt binh Hoa Lư vào trận, chỉ còn có mặt phía Đông là chưa thấy có động tĩnh gì.
Ở trong trận, gần nửa đêm ngày Trùng Cửu, Điền Bạc bất thần nhận được thật nhiều tin lạ của tế tác. Vội hội với các tướng lần chót, ông bảo:
- Hơn hai chục năm Phong Châu ta từ ngày Sứ quân cát cứ một phương, chưa bao giờ có binh biến lớn. Ngày trước chỉ vì muốn mở rộng giang sơn ra ngoài thiên hạ mà Sứ quân sai ta xuống Tam Đái, làm cho cả một phương trời náo động. Đến nay, Hoa Lư gồm thâu thiên hạ, ngay từ đầu ta đã thấy sẽ có ngày hôm nay, muốn lập thế liên minh các Sứ quân cùng cự chiến Hoa Lư mà không được. Các Sứ quân được hưởng yên ổn chẳng ai nghĩ đến lúc nguy nan, thành ra tất cả đều lần lượt tự thân dốc lực đơn độc ứng chiến, lần lượt bị Hoa Lư thôn tính! Trước đây, khi Hoa Lư vào Hồi Hồ, khắp nơi đều bảo là Đinh Bộ Lĩnh mê sắc đẹp chẳng thiết đi đâu nữa. Lại thêm Quân sư Lê Thảo của ông ta lâm trọng bệnh chết rồi. Lễ táng khắp thiên hạ đều thấy cả, vậy mà Đinh Bộ Lĩnh lấy xong Hồi Hồ dễ dàng như trở bàn tay. Xua quân lên Tam Đái thế mạnh như chẻ trúc đập ngói, dao xuống là trúc vỡ, búa đập là ngói tan. Chẳng có sức mạnh nào chống lại được khiến Sứ quân Nguyễn Khoan chết thảm. Rồi Đinh Bộ Lĩnh lại dốc hết binh tướng dàn ra một dải suốt dọc Đông Tây. Cắt đôi hẳn Phong Châu Tam Đái, ai chẳng bảo là đại binh Hoa Lư sẽ từ phía Nam đánh ngược lên Phong Châu ta? Ấy vậy mà lại không phải!
Điền Bạc hai mắt bây giờ mở to, ông nói một hơi dài làm cho các tướng im lặng lắng nghe. Nói đến đây, cặp mắt Điền Bạc lại lim dim, văn sĩ sắp ngủ!
Ông thong thả tiếp:
- Ta không tận mắt chứng kiến mọi việc, nhưng cứ xem như đường Hoa Lư đi từ Hồi Hồ sang Hồi Hồ (?) rồi lên Tam Đái. Có nhiều điều làm ta không tin ở những tin tế tác của ta nói nữa! Thứ nhất, Đinh Bộ Lĩnh chí hướng vĩ đại, giấc mộng gồm thâu trọn giang sơn Giao Châu từ lúc bỏ Bố Hải Khẩu. Không tiếp nối sự nghiệp Sứ quân của ngài Trần Lãm, kéo về Hoa Lư nương vào con em đất nhà để khởi nghiệp, đã tỏ rõ hùng chí của Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh dù có dốt nát chẳng đọc sách, tính mê gái đẹp. Cũng không phải là không có sách thì ông ta không biết phép hành quân, chẳng phải gái đẹp dù là tiên trên trời xuống lại cột chân Bộ Lĩnh lại được. Vậy thì tế tác bảo là Bộ Lĩnh mê gái lui quân, là điều sai lạc. Ta chắc là bị trúng kế phao ngôn của Hoa Lư!
Điền Bạc hai mắt lim dim luận điều thứ nhất xong, thì dường như hai mi mắt của ông càng sụp xuống thêm nữa. Ông tiếp:
- Thứ hai, nếu đã có kế phao ngôn như thế, thì cái tin đi trước cái cảnh đại tang lễ Quân sư Lê Thảo nhất định lại là độc kế của Hoa Lư, để cho các nơi bê trễ việc quân, yên lòng chẳng chuẩn bị gì. Vì thế Kiều Thuận, Nguyễn Khoan mới không kịp chạy. Ta quyết chắc là Lê Thảo chưa chết, có thể là y chỉ bị đau ốm. Trong quân của Bộ Lĩnh được Thần y hiếm có dưới gầm trời này theo giúp, đời nào y lại để cho Lê Thảo chỉ đau ốm một trận là chết ngay được. Lê Thảo đã không chết, cho nên đại binh Hoa Lư mới dàn ra ở phía Nam Phong Châu! Bình thường, tất cả các tướng cầm quân trong hoàn cảnh như của Bộ Lĩnh sau khi lấy Tam Đái xong, thì xua quân ào ạt lên Bắc đánh Phong Châu là điều rất tự nhiên. Nhưng đại binh Hoa Lư dàn ra lại chậm chạp chẳng nhân cái thế “Đang đà đại thắng, thừa lúc gió cuốn” để tiến quân. Lại dùng dằng dàn xếp, đấy là điều thứ ba.
Bây giờ thì Điền Bạc nhắm hẳn hai mắt, ông nghĩ một chút rồi tiếp:
- Điều thứ bốn, Giao Châu ta hỗn loạn, nhưng triều đình vẫn còn danh nghĩa Cổ Loa. Hoa Lư đem quân chinh phạt khắp nơi nhưng khéo giữ cho cả Giao Châu chẳng rơi vào thế đại loạn khiến cho Tống triều có cớ xuống Nam. Tống triều không có cớ thì bất thần ta lại được một sứ của Tống triều đến hứa giúp. Nghe thì cũng có lý, nhưng xét cho cùng thì lại là mẹo lừa của Hoa Lư. Cho nên ta mới phải dốc hết sức tế tác vào việc lấy tin, ta đã được tin ở nhiều mặt. Trong đó có cả thủy binh Hoa Lư sẽ lên ngược dòng Bạch Hạc, giữa lúc Phong Châu ta tưng bừng lễ hội chẳng tướng nào đề phòng, tình hình thật nguy hiểm. Lại thêm việc binh Tống triều phía Bắc, hóa ra Chúa công ta bị lừa rồi. Đại kế này nhất định Lê Thảo đặt ra, bây giờ y ở đâu? Bây giờ Chúa công ta thế nào? Bao nhiêu đường tế tác đi về thông tin cho ta biết đều hết sức khó khăn. Đi mười may lắm chỉ lọt một, chẳng liên lạc được với Chúa công. Tin tức thiếu thốn nhưng ta cũng loáng thoáng thấy nguy cơ. May mà ta phòng bị trước, đem quân lập trận ở đây. Chưa biết binh tướng Hoa Lư sẽ phá trận ta như thế nào?
Đến đây thì tướng quân Thẩm Chu Bình lên tiếng:
- Thưa ngài, như vậy sao ta không bỏ trận. Dốc hết lực kéo đại quân về giải cứu cho phủ đường, chống lại Hoa Lư có được không?
Lời bàn của đại tướng quân họ Thẩm nghe rất phải, các tướng đều hưởng ứng. Điền Bạc đáp:
- Binh ta ở đây được hơn hai chục nghìn, tướng đông hai mươi hai ông, nhìn thì thấy mạnh. Nhưng nếu đường trường tranh đua với Hoa Lư thì chẳng thấm vào đâu! Lúc này, Hoa Lư binh có thể cả chục vạn, tướng thu thập của ngần ấy Sứ quân cũng phải hơn trăm, sức mạnh đủ để Tống triều cũng phải e dè. Ta làm sao địch lại được! Ta lập trận ở đây, trước là để vừa giữ, vừa trợ chiến cho phủ đường khi binh Hoa Lư từ Nam tiến lên. Nay thì không phải Hoa Lư tiến binh như thế, có thể là có cả đường sông mãi tận phía Tây, có thể có cả từ phía Đông tràn tới. Đạo quân của Hoa Lư ở phía Đông tế tác của ta bảo là rút về cùng lúc Bộ Lĩnh bỏ về Hồi Hồ để trở lại Hoa Lư. Ta nghi là vẫn còn ẩn nấp đâu đó! Nếu quả thật có binh Tống triều xuống giúp, thì lúc ấy ta chẳng cần phải về phủ đường. Còn nếu không có thì ta rời trận ở đây để về phủ đường sẽ mau chết hơn nữa!
Các tướng nghe Điền Bạc nói, ông nào cũng vừa thấy lo lắng vừa sợ hãi. Có người hỏi:
- Như thế, thì trận của ngài lập ở đây chiến được với binh tướng Hoa Lư như thế nào?
Người vừa hỏi, là tướng Lâm Huy Chung, hiệu là Bạch Hổ tướng. Người cũ của Sứ quân Nguyễn Khoan ngày xưa trúng kế Điền Bạc theo về với Phong Châu. Nghe hỏi, Điền Bạc đáp:
- Trận của ta đông hai vạn binh, chia làm ba phần ứng với ba thế “Thiên Địa Nhân” gọi là trận “Thiên Địa Hòa Giao”. Trong đó Con Người đứng ở giữa trời với đất, vận dụng đến sự giao hòa của trời cao đất thấp, làm cho vạn vật sinh sôi nẩy nở mãi chẳng hết. Ba phần trận thì chỉ hai phần Thiên và Địa chuyển động, tức là phần sát phạt. Có thể nương vào thế yểm trợ của phần “Nhân” ở giữa tuy rằng nhỏ mà hóa ra chẳng bao giờ tận cùng. Trận hai vạn binh có thể hủy diệt binh dịch từ ngoài vào động gấp mười lần.
Đến lượt tướng Thẩm Chu Bình lại hỏi:
- Thưa Quân sư, như thế đã có phép giữ trận thì tất phải có phép phá trận. Binh ngoài vào sai lạc bị thiệt hại lớn, nếu muốn phá trận thì phải thế nào?
Điền Bạc từ tốn giảng:
- Trận bày ra là nương theo vào địa hình địa thế mà thành, trên sông nước trận phải khác với trên bộ, trận lập nơi núi rừng tất có những lợi hay hại của nó. Người lập trận phải biết chọn cái lợi nào là chủ chốt cho trận. Như ở đây, ta chọn rừng nơi chân núi Tam Đảo phía Nam, thế đất hơi trũng. Nếu có thì giờ thì khơi thêm đường dẫn nước từ sông phía Đông đổ vào, thì nơi này là nơi mở trận giao tranh binh ngoài không vượt qua được. Lúc ấy ta có lợi là rời trận thì tiến ngay đến Cổ Loa được. Chúa công ta nếu không có gì trắc trở thì sau trận này đi về Cổ Loa chẳng khó khăn. Còn như nếu binh ngoài muốn phá trận, phải biết ứng theo mùa, thời tiết trong năm để tìm cửa trận mà vào. Vào đúng cửa rồi, lại phải biết đi lại tiến thoái theo cái lẽ tuần hoàn của trời đất, hết lên lại xuống, vơi rồi lại đầy, làm cho hai thế trời là dương đất là âm hòa hợp được nhịp nhàng. Lúc ấy con người ở giữa mới cương cường đủ khả năng khiến cho nảy sinh ra hết thảy mọi sự ở đời. Lúc binh tướng vào cửa trận, mùa nào thì sẽ thấy thời tiết ứng ngay, sai là biết ngay. Hỗn loạn của âm dương hay trời đất tất sinh ra hỗn loạn trong năng lực của con người, lúc ấy cái chết sẽ hiện ra.
Điền Bạc giảng trận, các tướng nghe thì nghe rồi thấy dường như toàn là những lý lẽ giảng giải về sự chuyển vần của âm dương trong trời đất. Chứ chẳng thấy đâu là chiến trận chém giết cả! Bỗng tướng Quản Bật Tường buột miệng hỏi:
- Bẩm ngài, tôi đi lại trên giang hồ có nghe nói nhiều binh gia dựng trận cực nhiệm màu. Nếu biết phép phá trận thì lúc ấy trận lại là cái họa cho người lập trận. Vậy trận Trời Đất của tiên sinh có cách nào phá được như thế không?
Quản Bật Tường là người chuyên chú theo con đường tu tiên, mê man thờ lạy Lão Tử. Vì thế chu du khắp thiên hạ mong tìm được thần tiên, hay tìm được vào hang động của thần tiên rồi xin ở lại. Thần tiên đâu chẳng thấy chỉ thấy biết bao nhiêu việc lạ trên thế gian. Con đường tu tiên gặp toàn những việc trần tục cản bước, lâu ngày thành chán đời. Vì thế họ Quản hay có tinh thần hài hước, nhiều khi thản nhiên nói ra cả những điều thiên hạ thường kiêng kị. Xem thường mọi việc ở thế gian, chu du thiên hạ mãi rồi rốt cuộc đến dưới trướng Sứ quân. Sứ quân muốn sai bảo việc gì cũng chẳng bao giờ phản đối, ai làm gì sai hay phải cũng xem là chuyện bình thường tự nhiên chẳng có gì phải quan tâm. Nay nghe Điền Bạc nói về tình hình, thời thế, trận mạc, nghe như trong chuyện thần tiên thì cái tính hài hước tự nhiên làm cho Quản buột miệng hỏi như thế.
Điền Bạc nghe hỏi, hai mắt lại lim dim, ngồi thẳng lưng trên ghế chẳng phải trả lời ngay. Lát sau ông mới đáp:
- Phía Đông ta, Cổ Loa đang sắp đổ hẳn, vì thế ta không lo mặt ấy. Phía Nam trước có một đạo quân của Hoa Lư chắn đường thì cũng đã rút cả đi rồi. Phía Bắc là sau lưng ta là rặng núi cao làm chỗ tựa cho ta, trận của ta tuy lập ở nơi thấp nhưng không có gì phải lo địch từ trên cao đánh xuống. Đường nước cũng xa xôi địch không thể khơi dòng dẫn nước dìm ta được. Như vậy, thì trận của ta có thể vững vàng được không lo địch phá. Muốn phá trận của ta, trước hết địch phải huy động ít ra là mười vạn binh, liên tiếp ngày đêm phá trận. Đốn hạ cho hết cả khu rừng này, bạt núi cho lui lại thật xa. Cho đến lúc này, cũng sắp sang giờ Tý, ngày Trùng Cửu sắp qua, ngày Mười bắt đầu. Cứ theo như Chúa công ta nói thì lúc này ở phủ đường đang đợi việc lạ trời đất, ở đây ta loáng thoáng được tin có điều lạ, ấy là: Dường như Hoa Lư đã không lui binh mà lại tiến binh thì phải! Phía Bắc, Tống triều đưa tín vật hẹn ước với Chúa công ta, có khi cũng lại là điều không có thật!
Điền Bạc nói đến đây, thì tướng Thẩm Chu Bình lại thốt lên:
- Thưa tiên sinh, như vậy thì có phải là Phong Châu ta đang bị nguy khốn không?
- Tôi không được biết đích xác mọi việc, nhưng có điều tôi chắc là Quân sư Lê Thảo của Hoa Lư nhất định chưa chết. Mọi xếp đặt của Hoa Lư vẫn rõ ràng là có những cách xếp đặt quen thuộc của Lê Thảo!
Câu nói của Điền Bạc làm cho hết thảy các tướng của Phong Châu đang ngồi hội với Điền Bạc ở doanh trận Trời Đất phải rùng mình! Nếu đúng như thế, thì Phong Châu khó vững, trận Trời Đất cùng lại sắp tan đến nơi! Chợt tướng Thanh Diện Ma Vương Lý Sùng Bang gầm lên:
- Hoa Lư hung hăng, Lê Thảo gian ác. Ta có chết thì chúng cũng phải chết cả!
Cùng với tiếng gầm của Lý Sùng Bang, quân chạy vào hổn hển kêu lên:
- Bẩm trình đại tướng, lửa cháy ở phía Tây. Tế tác vừa đến báo: Binh Hoa Tư từ cứ doanh thủy binh tiến lấy phủ đường rồi!
Điền Bạc mở choàng hai mắt. Lý Sùng Bang đứng chết lặng, tướng doanh lặng lẽ chẳng ai có lời nói nào. Chỉ nghe thấy tiếng chân quân trình tin rồi chạy ra.
Tin dồn dập trình vào, cuối cùng thì Điền Bạc bảo:
- Các ông mau mau trở lại trận, ai giữ nơi nào thì cứ vững ở nơi ấy!
Các tướng chưa kịp đứng lên, đã thấy quân nhào vào kêu to:
- Bẩm trình, mưa lửa ập xuống trận ta, khắp nơi cháy cả rồi!
Bây giờ thì cặp mắt Điền Bạc như rách toạc mở rộng, mưu sĩ Trường Miên Quân của Sứ quân Kiều Công Hãn thảng thốt kêu lên:
- Lê Thảo không chết! Lê Thảo chẳng bao giờ chết! Ta trúng kế Hoa Lư rồi!
Cùng với tiếng kêu của Điền Bạc, tiếng quân trong trận hò hét kinh hoàng. Điền Bạc bước ra, các tướng đi theo. Bên ngoài, rừng cây dày đặc che chở cho trận Trời Đất. Ba thế trận Thiên Địa Nhân chẳng còn đâu nữa, chỉ có một biển lửa. Lửa cháy chẳng phải là kín đặc các nơi, nhưng ở đâu cũng có lửa. Chẳng thấy binh tướng Hoa Lư ở đâu, nhưng Điền Bạc và các tướng thì còn thấy từ trên sườn núi cao lửa vẫn bay xuống, từ giữa trời cao lửa vẫn ập xuống.
Điền Bạc vội bảo các tướng mau mau thu quân rẽ sang phía Đông, các tướng nghe lời liền đi ngay. Lúc này lửa cháy đã bám được vào cành lá khô, mặt đất rừng lửa lem lém. Có nơi còn đi lại được, có chỗ lửa như dòng suối, dài chắn mất lối khiến quân tướng bối rối. Rồi binh tướng của Điền Bạc cũng đi ra được mé Đông. Điền Bạc dẫn các tướng chạy, ông bảo:
- May ta còn có lối thoát ra phía Đông! Hoa Lư không có quân ở đây, binh Cổ Loa ta không ngại!
Nhưng nỗi mừng của các tướng khi nghe Điền Bạc nói chẳng được bao lâu. Quân chỉ vừa mới cất bước chuyển hướng sang phía không lựa cháy, thì đã lại thấy lửa phụt sáng, tiếng quân reo hớn hở. Trong tiếng rít của lửa, trong tiếng quân reo hò nghe rõ: “Quân sư Lê Thảo sai binh tướng Hoa Lư đợi Điền Bạc ở đây lâu rồi!”.
Các tướng nghe tiếng reo hò thì rụng rời tay chân, hồn vía chẳng còn. Ở đây nhìn lên phía Bắc thấy rừng âm u chẳng có lửa cháy. Điền Bạc lại dẫn các tướng chạy lên. Đường đi len lỏi trong rừng rậm, ánh trăng cùng ánh lửa ở xa lấp loáng len lỏi qua cây lá. Cả đạo quân hỗn loạn ào ào vẹt rừng chạy.
Trên vách núi cao, Lê Thảo cùng mấy quân hầu nhìn xuống rừng lửa ở dưới. Tuy chẳng thấy rõ người nhưng cũng thấy cây rừng lay động, rõ ràng binh tướng Phong Châu chạy ra mé Đông. Rồi lửa hiệu trên vách núi khiến cho binh của tướng Lưu Cơ có binh tướng triều đình hỗ trợ, tức thì cho nổi lửa chặn Điền Bạc. Lại nhớ lời dặn hò reo uy hiếp tinh thần binh tướng Phong Châu.
Điền Bạc cùng hơn hai chục tướng kéo quân lên phía Bắc chưa được bao lâu, đã lại thấy lửa cháy bên mé Đông. Binh Hoa Lư dường như vẫn ráo riết theo sát bên cạnh sườn. Ở phía Tây, có tiếng quân reo, lại nghe có tiếng réo gọi Điền Bạc cùng các tướng Phong Châu mau mau nổi lửa làm hiệu, xin đầu hàng thì còn mạng sống!
Điền Bạc không thể nào hiểu được tình thế nữa. Dường như ông cùng cả đạo quân hai vạn người của ông di chuyển về nơi nào thì bình tướng Hoa Lư cũng biết trước mà đón đầu. Tiếng réo gọi hàng vẫn rầm rầm, binh tướng Hoa Lư đang rầm rập đi tìm binh tướng của ông. Như vậy thì binh Hoa Lư không bị lửa truy đuổi hay sao? Trận Trời Đất của Điền Bạc ngay từ đầu chỉ vì bất thần bị phóng hỏa làm cho quân tướng kinh hoàng hỗn loạn chẳng phát động được, lúc này chỉ còn có tìm đường trốn chạy. Dù Điền Bạc có muốn giữ cho quân khỏi hỗn loạn tan vỡ cũng không được. Chính các tướng lại là người kinh hoàng bỏ chạy trước!
Tướng quân Trịnh Tú mang quân vào trận, có tướng tế sứ Mạc Sa Cảnh vừa đi vừa kể vắn tắt cho nghe những điều Quân sư nói. Các tướng nô nức, tướng Tống Thừa Vu của Bình Kiều cũ bảo:
- Điền Bạc khôn mà hóa dại, tính khéo lại hóa vụng. Ông ta quên mất Hoa Lư ta giỏi nghề đốt lửa, lại đi lập trận ở dưới thấp, nhường chỗ cao cho Quân sư ta đứng mà chỉ hủy trận! Phen này Điền Bạc phải bạc mệnh trong trận này mất!
Rồi Tống Thừa Vu hai tay hai cây giản sắt to tướng hoa lên, hăm hở. Trịnh Tú thúc mười ngàn quân ùa vào rừng, cứ nhằm phía có lửa cháy mà kéo tới. Nhìn lên vách núi cao thấy ngọn lửa hiệu không rõ lắm, lúc chỉ sang Đông, lúc quay về Tây, có lúc lại chỉ xuống Nam. Cả tưởng lẫn binh đều xúc động trong lòng. Trên nơi cao kia Quân sư đang xét bước đi của cả đôi bên, đang đích thân dẫn đường cho các tướng đuổi theo Điền Bạc. Các tướng không thấy trận của Điền Bạc có chuyển động gì, mới đầu còn lấy làm lạ, cẩn thận dè chừng. Đến khi thấy quả thật được an toàn thì cả quân lẫn tướng ra sức vượt rừng đêm, quân ra sức hò reo réo gọi binh tướng Phong Châu đầu hàng.
Tướng quân Phạm Cự Lượng sau khi nổi lửa, lập tức mang quân vào trận, từ phía Nam đánh tới, thành lựa chọn đường không cho Điền Bạc có đường thoát xuống. Lượng cùng các tướng cứ nhằm rừng trước mặt tối đen ùa vào. Đi chưa bao lâu bỗng thấy lửa từ trên cao ập xuống cả một vùng bao la. Rừng cây tối đen hốt nhiên biến thành rừng lửa thì thoạt đầu kinh hãi dừng cả lại. Rồi tế tác đến cho hay Hoa Lư mở hỏa trận phá trận của Điền Bạc, thì cả đạo quân reo hò mừng rỡ. Kêu gọi Điền Bạc mau mau đầu hàng, làm cho bọn Điền Bạc kinh hãi chạy ra phía Đông là vì thế.
Điền Bạc cùng các tướng loanh quanh kéo cả đạo quân hỗn loạn chạy khắp nơi. Lửa đốt rừng bất thần thiêu binh Phong Châu làm chết mất nhiều quá. Nhiều người bị thương chẳng còn sức chạy cũng lại bị chết nốt. Trong tiếng lửa réo, gió thổi còn lẫn cả mùi thịt cháy khét lẹt làm nhiều người phải nôn mửa.
Trong lúc mười phần nguy cấp cả mười, chẳng còn lối chạy. Điền Bạc chợt được thần linh mặc khải, liền hô các tướng mau mau tìm đến nơi quân Hoa Lư thì thoát chết. Mới đầu binh tướng Phong Châu tưởng là Điền Bạc bảo tìm đến quân Hoa Lư để đầu hàng, nhưng khi nghe Điền Bạc giảng thì mới vỡ lẽ: Binh tướng Hoa Lư đi lại được, ấy là vì không bị lửa đốt. Tại sao quân Hoa Lư không bị lửa đốt thì không biết, nhưng cứ ở bên cạnh quân ấy thì tất cũng không bị lửa làm hại. Thế là các tướng Phong Châu mừng rỡ lẫn uất hận, hô quân tìm quân Hoa Lư mà xông tới.
Chạy trốn thì không có lối thoát, chứ tìm đến thì lại chẳng khó. Hai bên gặp nhau là binh tướng Phong Châu chẳng nói chẳng rằng ùa tới ra sức đánh chém.
Đi đầu quân Phong Châu chính là đại tướng Thẩm Chu Bình. Các tướng Phong Châu xốc tới đúng lúc tướng Trịnh Tú đem các tướng xốc tới. Hai bên xông vào nhau đánh nhầu.
Các tướng hai bên vừa đụng gươm đụng giáo với nhau được vài hiệp, thì ở phía Nam lại thấy có quân kéo tới. Đi đầu là tướng quân Phạm Cự Lượng, cây đao trong tay Lượng tung hoàng dữ dội, ra sức đâm chém binh sĩ Phong Châu. Hai bên Lượng, phía sau Lượng, còn các tướng khác nữa. Cả bọn nhất tề xông tới chém giết chẳng kể là binh hay tướng của Phong Châu.
Lửa bây giờ như vòng đai lớn bọc lấy quân đôi bên vào trong. Bên trong vòng lửa vĩ đại, binh tướng hai bên ra sức chém giết nhau, nhưng thua thiệt về phía Phong Châu đã thấy rõ. Điền Bạc dù mang theo hơn hai chục tướng với hai vạn quân. Tưởng ra trận đủ sức để đánh chặn binh địch đông gấp mười, không ngờ bị lửa làm cho ngay từ đầu thế trận bị tan nát, hỗn loạn. Nhiều binh sĩ bị chết khiến chúng quân tướng chẳng còn lòng dạ nào cự chiến nữa. Đến khi các tướng nghe lời Điền Bạc tìm đến chỗ binh tướng Hoa Lư để mong thoát lửa. Rồi giao tranh trong tinh thần khiếp sợ chỉ muốn tìm lối thoát thân, thì trận của Điền Bạc chẳng còn gì nữa. Điền Bạc giữa trận có Thẩm Chu Bình đi bên cạnh. Ông mở rộng mắt nhìn cảnh chiến trường, trong lòng tính toán những bước phải có để cố đem đạo quân ra khỏi thế nguy mà không được. Bây giờ ông lạc lõng trong đám quân nhà, khăn văn sĩ tuột dâu mất, dải tóc dài bạc tung ra. Ông giơ tay vấn lại mái tóc dài, búi tóc to ở trên đỉnh đầu hơi lùi lại phía sau. Ông cài cây trâm bạc to bằng ngón tay dài cả gang xuyên qua búi tóc. Điền Bạc hiên ngang cho ngựa tiến lên xông vào giữa đám các tướng đang ra sức đâm chém nhau.
Điền Bạc lên tiếng, giọng oai nghiêm:
- Các tướng ngừng tay! Điền Bạc muốn nói ít lời!
Có tiếng quát lớn:
- Tên ngủ nhiều ngu xuẩn kia, lúc này còn muốn nói gì nữa! Xuống ngựa đầu hàng!
Cùng với tiếng quát, con ngựa của Điền Bạc gục xuống quăng ông ngã sóng xoài. Có người toan xông tới thì lại có tiếng thét:
- Ngừng tay, không được giết!
Người vừa thét, chính là Trịnh Tú. Cùng với tiếng thét, tay gươm của Hoa Lư Đệ Nhất kiếm đã bay ra kịp cản một đường đao dữ dội của tướng quân Phạm Cự Lượng. Chính Lượng quát rồi bay ngựa tới một đao chém chết tươi ngựa của Điền Bạc rồi thuận đà đao toan giết luôn Điền Bạc.
Trịnh Tú chắn trước ngựa Phạm Cự Lượng, ông thét to:
- Các tướng Phong Châu, mau ngừng tay thì còn mạng!
Nhìn ra, Điền Bạc thấy các tướng của ông thua thiệt đủ đường. Đã ít hơn tướng Hoa Lư, lại ở vào cảnh thất thế như thế này thì chỉ còn đường đầu hàng mà thôi. Ông lên tiếng:
- Các tướng Phong Châu, ngừng tay đi!
Phong độ Điền Bạc vẫn ung dung, đởm lược của kẻ sĩ, ngủ chiều nơi trận tiền làm cho tướng của cả đôi bên đều phải nể nang. Các tướng đã ngừng tay hô quân đoạn chiến. Tướng quân Mạc Sa Cảnh lập tức sai tế tác, gấp đường báo tin cho các nơi biết.
Trận chiến vừa ngừng chưa được bao lâu. Tướng quân Trịnh Tú nhìn lên sườn núi cao thấy rõ: Một vệt dài đuốc chỉ về hướng Tây. Tướng quân hiểu lệnh, truyền quân nổi trống hiệu thu quân, rồi bảo:
- Trên vách núi cao, lệnh của Quân sư bảo ta trở lại phủ đường phục mệnh!
Điền Bạc lên tiếng trước tất cả, ông hỏi:
- Quân sư Lê Thảo vẫn được mạnh khỏe đấy chứ?
Tướng Trịnh Tú giọng vui vẻ đáp:
- Tôi thay Quân sư Lê Thảo cảm ơn lời thăm hỏi của ngài. Quân sư Hoa Lư chúng tôi lúc nào cũng mạnh khỏe!
Điền Bạc cả cười, có lẽ đây là lần đầu tiên các tướng Phong Châu thấy Điền Bạc cười, mà lại cười lớn tiếng. Cười rồi ông hướng lên sườn núi nơi Trịnh Tú chỉ cho mọi người xem lửa hiệu của Quân sư Lê Thảo, bảo:
- Điền Bạc tôi nghe danh ngài từ gần hai chục năm nay, bây giờ đã được gặp ngài! Thỏa lòng rồi, chẳng có gì phải thắc mắc nữa, quả nhiên tôi nghĩ đúng!
Các tướng chẳng hiểu Điền Bạc nói gì, còn đang ngẩn người thì Điền Bạc đã lẹ tay rút chiếc trâm bạc cài búi tóc. Ông quyết liệt đâm ngọn trâm vào giữa cổ. Các tướng chẳng ông nào kịp trở tay, chỉ thấy Thẩm Chu Bình kêu lên thảm thiết:
- Tiên sinh! Điền Bạc!
Tướng quân nhào tới ôm lấy Điền Bạc. Các tướng xúm cả lại. Trong tay Phúc Nghiệp Trình khuôn mặt tròn với nước da mai mái của văn sĩ Điền Bạc thật bình thản. Tay ông còn nắm chắc cây trâm xuyên suốt cổ. Hai mắt Điền Bạc mở lớn vẫn còn nhìn lên phía sườn núi cao. Ông chậm chậm tắt thở, và cặp mắt lại chậm chậm khép lại. Trường Miên Quân lần này thì ngủ vĩnh viễn!
Lúc các tướng thu lại được hết các đạo quân, thì đã sắp sang đầu giờ Dần. Chiến trận với lửa cháy gần trọn đêm, rừng ngút khói.
Tế tác đến đưa tin: “Tiền quân của Vạn Thắng Vương do tướng Lê Hoàn đi đầu đã ra khỏi doanh, đang hướng tới nơi này”. Các tướng đóng quân lại ngay nơi cửa rừng, chờ đón Vương.
Trên vách núi cao, Quân sư Lê Thảo đứng xem trận, sai hai người quân hầu chuyển hiệu lửa chỉ đường cho các tướng biết lối đi trong trận nơi nào không bị lửa đốt. Tế tác liên miên đưa tin lên để Quân sư biết. Đến lúc binh tướng đôi bên gặp nhau rồi giao chiến thì Quân sư suy nghĩ nhiều lắm. Ông chưa biết nên làm cách nào để kế hỏa công không làm hại binh tướng nhà, thì đã thấy trận chiến lắng xuống. Bao nhiêu lay động của cây rừng gần như ngưng hẳn. Quân sư còn đang ngạc nhiên thì tế tác đã đến trình: “Trong trận, Điền Bạc bảo các tướng Phong Châu ngừng tay chịu hàng”. Quân sư nghe trình cả mừng, như vậy là con người duy nhất trong đám tay chân của các Sứ quân ông nể nang quý trọng đã chấm dứt được thảm họa tận sát. Quân sư ra lệnh cho quân đưa hiệu lửa bảo các tướng thu quân trở về doanh phủ đường Phong Châu.
Hiệu vừa truyền đi, đã lại thấy tế tác cuốn gió chạy tới hổn hển trình:
- Bẩm trình Quân sư, Điền Bạc đã tự sát. Các tướng không kịp ngăn cản!
Quân sư lặng người, ông choáng váng trên vách núi nghe quan thuật lại đầy đủ mọi việc. Nghe xong Quân sư chẳng n?