Chương 3 NGÀY DÀI NHẤT-THE LONGEST DAY
Đối với hầu hết người dân Hồng Kông, thứ Sáu ngày 6 tháng Sáu năm 1997 là một ngày hết sức bình thường.
Hai hôm trước trời mưa tầm tã, đài thiên văn phát báo động đỏ vì mưa lớn, hệ thống thoát nước quá tải gây ngập lụt trên nhiều tuyến phố, nhưng đến hôm nay mọi thứ đã được khôi phục. Thời tiết vẫn oi bức, dù trời âm u từ sáng sớm, thỉnh thoảng còn dầm dề thêm vài cơn mưa, thế mà nền nhiệt vẫn không có dấu hiệu giảm. Rạng sáng có một vụ cháy cư xá tại Tây Hoàn(29) đảo Hồng Kông, vào giờ cao điểm lại xảy ra vụ lật xe tải chở nguyên liệu hóa học tại đường Des Voeux Trung(30) dẫn đến tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng.
Nhưng đối với dân chúng, ngày 6 tháng Sáu cũng chỉ là một ngày thứ Sáu như bao thứ Sáu khác.
Còn với Quan Chấn Đạc, ngày này không hề bình thường. Hôm nay chính là ngày làm việc cuối cùng của ông.
Sau ba mươi hai năm trong ngành, giờ đây ở tuổi 50, chỉ huy cấp cao Quan Chấn Đạc đã sẵn sàng trút bỏ nhiệm vụ, về hưu trong vinh quang, bắt đầu từ ngày mai.
Đáng lẽ phải trung tuần tháng Bảy mới đến hạn, nhưng ông còn thừa nhiều phép quá, mà theo quy định của ngành, phải dùng hết phép trước khi rời chức vụ. Xòe tay ra đếm, ông được nghỉ hưu sớm đúng một tháng. Ông nghĩ thế lại hay, vì nếu nghỉ hưu sau ngày 1 tháng Bảy, ngành lại phải cấp thẻ cảnh sát và phù hiệu mới. Sau ngày 1 tháng Bảy, Hồng Kông chuyển giao chủ quyền xong, “Cảnh sát Hoàng gia Hồng Kông” sẽ đổi thành “Cảnh sát Hồng Kông”, hình vương miện trên phù hiệu sẽ thay bằng hoa dương tử kinh. Quan chẳng lưu luyến gì tước hiệu “Hoàng gia”, ông chỉ nghĩ dùng thẻ mới chưa được một tháng đã phải bỏ đi thì thật lãng phí.
Tám năm qua, Quan công tác tại CIB, đảm nhiệm chức vụ tổ trưởng tổ B. Công việc của tổ B là mổ xẻ tin tức, ví như săm soi hàng loạt băng giám sát để truy tìm bóng dáng nghi phạm, dò lượng băng nghe trộm thu thập cả mấy tháng trời chỉ để lọc ra một phút bằng chứng.
Thành viên tổ B ít gặp nguy hiểm hơn các đồng nghiệp khác, họ không phải kè kè theo dõi bọn lưu manh giắt vũ khí chết người như tổ D, cũng không phải cắm chốt ngay sát mục tiêu như các trinh sát tổ A để nghe lén ngày đêm và qua lại với đám chỉ điểm còn chưa rõ bạn thù, càng không cần làm nhiệm vụ bắt giữ trực tiếp như đội EU vốn có bề dày hoạt động hạng nhất trong ngành.
Nhưng tổ B phải chịu áp lực tinh thần lớn hơn bất cứ ai. Họ hiểu rằng, mỗi kết quả phân tích đều quyết định thành bại của nhiệm vụ. Trước kia từng có trường hợp vì thông tin sai, đánh giá thấp hỏa lực của tội phạm, khiến nhiều đồng chí hi sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ.
Làm việc ở tổ B phải hiểu rõ giá trị của mạng người. Chỉ một sơ suất nhỏ, dù là chi tiết vụn vặt nhất, cũng gây nên hậu quả khôn lường. Các anh em ở tuyến đầu có thể tùy cơ ứng biến, ra quyết định thay đổi cả vận mệnh trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, nhưng tổ B chỉ được chọn lựa trước khi sự việc xảy ra, hoặc kiểm điểm lỗi lầm sau khi kết thúc. Mà đó luôn là những lỗi lầm không thể cứu vãn.
Quan vừa yêu vừa ghét công việc này. CIB tạo điều kiện tối đa để ông phát huy sở trường. Là trung tâm tình báo của ngành cảnh sát, ông nắm giữ thông tin về mọi vụ án trên đất Hồng Kông. Khả năng quan sát thấu triệt của ông giúp các phòng ban khác có được tư liệu chuẩn xác hơn, giảm nguy cơ thất bại của nhiệm vụ, bảo đảm an toàn cho các đồng đội phải trực tiếp hành động. Tuy nhiên, Quan chẳng hề thích vị trí này, bởi ông chỉ có thể lấy thông tin từ tay người khác.
Trước khi gia nhập CIB, ông từng công tác tại Ban Điều tra Hình sự và tổ trọng án, được đích thân làm việc, tự mình tìm chứng cứ, thẩm vấn nhân chứng và nghi phạm, có được bằng chứng và lời khai đầu tiên. Còn trong tám năm ở CIB, không lúc nào ông không nghi ngờ về bản ghi âm khẩu cung mà các phòng ban khác gửi tới. Tại sao không truy hỏi vấn đề này? Tại sao đến hiện trường không khám xét chỗ kia?
“Phải chăng mình vẫn hợp điều tra trực tiếp hơn?”
Thi thoảng, Quan lại hồ nghi như vậy. Nhưng ông biết đấy chỉ là mong ước cá nhân, nhất là từ khi bước sang tuổi 45, độ nhạy bén trong công việc đã suy giảm hẳn. Điều tra truy bắt tội phạm ở tuyến đầu đồng nghĩa với việc đôi lúc phải đối mặt và ẩu đả trực diện, Quan biết rõ mình không còn đủ sức làm việc đó. Mà cấp bậc cũng không cho phép ông ra tuyến đầu.
Chỉ có cấp phụ tá và cấp thanh tra mới “cáng đáng” các nhiệm vụ tay chân. Cảnh sát cấp hiến ủy thì đảm đương trù liệu như vạch kế hoạch hành động, chỉ đạo cấp dưới. Quan cũng biết khi làm ở tổ B ông đã can thiệp quá sâu.
Mấy năm nay, ông cố hết sức để cấp dưới tự thân vận động, chỉ những lúc cần kíp mới tham gia, vạch ra lỗ hổng trong phân tích của họ. Có những manh mối hiển hiện ngay trước mắt, vậy mà cấp dưới nghe xong cứ ngơ ngơ ngác ngác, phải đến khi ông giải thích cặn kẽ, hoặc đợi kế hoạch kết thúc chứng minh cho dự đoán của ông, họ mới tâm phục khẩu phục.
Đây cũng là lý do khiến Quan quyết định nghỉ hưu ở tuổi 50.
Ông có thể làm việc tiếp năm năm nữa. Nhưng ông hiểu, mình ở lại sẽ cản trở sự tiến bộ và trưởng thành của cấp dưới.
CIB là hạt nhân của ngành cảnh sát, thành viên tổ B mà không làm việc độc lập sẽ gây trở ngại cho cả ngành.
“Đây là báo cáo của hải quan.”
9 rưỡi sáng, thanh tra Thái Cẩm Cương thuộc đội 1 tổ B đến báo cáo. Tổ B gồm bốn đội, mỗi đội có một thanh tra làm đội trưởng, thực thi nhiệm vụ do Quan phân công. Hôm nay đội 2 được nghỉ, đội 3 hỗ trợ Phòng Điều tra Tội phạm kinh tế phân tích một vụ giao dịch ngầm, đội 4 hợp tác với Phòng O, chuẩn bị càn quét gián điệp của các băng đảng xã hội đen Tây Cửu Long nằm vùng trong trường học. Đội 1 mới cùng hải quan phá đường dây buôn lậu, nhiệm vụ vừa kết thúc hai ngày trước.
“Tốt.” Quan gật gù hài lòng. Thái là đội trưởng lâu năm nhất ở tổ B. Quan nghỉ hưu rồi, anh sẽ được đề bạt làm tổ trưởng. Thái phù hợp với chức vụ này, anh quản lý nhân sự đâu ra đấy, hợp tác với các phòng ban khác cũng khá linh hoạt.
“Đội 1 hiện đang theo dõi thông tin về hai tên tàu ô(31) nhập cảnh trái phép bốn ngày trước.” Thái trình lên tập tài liệu khác, bên trong là hai tấm ảnh mờ, “Một chỉ điểm cho hay, chúng giấu súng trong người, có lẽ định hành động nhân lúc cảnh sát bận rộn giữa giai đoạn chuyển giao chủ quyền. Tìm hiểu lai lịch thì thấy hai tên này có tiền án trộm cắp, mục tiêu thường là tiệm đồng hồ hoặc cửa hàng vàng bạc trang sức, bước đầu có thể loại trừ khả năng tấn công khủng bố.”
“Chỉ hai người thôi thì bất thường quá.” Quan nhận xét.
“Vâng, hai người không ăn thua, nên bọn em đoán chủ mưu là kẻ khác, hoặc do tổ chức tội phạm ở đây chiêu mộ, hai tên này chỉ là lính đánh thuê. Chắc chúng chưa biết đã bị cảnh sát để mắt.”
“Có tin gì về sào huyệt của chúng không?”
“Có ạ, ở Sài Loan(32), khả năng cao là khu công nghiệp gần bến dỡ hàng.”
“Chưa tìm được địa điểm chính xác à?”
“Dạ chưa. Bên đó có nhiều nhà bỏ trống, dân cư rải rác, sàng lọc địa điểm khả nghi hơi mất thời gian.”
Quan xoa cằm một lúc rồi nói, “Mau lên, tôi sợ là chúng không chờ đến cuối tháng đâu.”
“Sếp cho rằng chúng định gây án trong hai tuần lễ này sao? Nhưng sau ngày 1 tháng Bảy mới là mùa du lịch cao điểm, khi ấy lượng tiền mặt trong các cửa hàng sẽ nhiều hơn bây giờ...”
“Số lượng người ít ỏi như vậy khiến tôi băn khoăn.” Quan nói, “Nếu một trong hai tên là thủ lĩnh, hắn không thể chỉ mang theo một thuộc hạ đến Hồng Kông, chí ít cũng phải có một tài xế và hai trợ thủ. Tội phạm ở đại lục sẽ không chờ vào được Hồng Kông rồi mới tìm tay sai. Nếu chúng chỉ là lính đánh thuê, thì thủ lĩnh phải là người bản địa, hắn sẽ không gọi hai tên tàu ô tới khi chưa tới lúc hành động hay chưa bài binh bố trận ổn thỏa. Chúng xuất hiện chứng tỏ đã gần thời điểm gây án rồi.”
“Sếp nói có lý.” Thái nghĩ ngợi một lúc rồi đáp, “Vậy để em liên lạc với tổ D, bảo họ điều một đội săn tin đến Sài Loan theo dõi.”
“Còn vụ nào đang xử lý nữa không?”
“Hết rồi... À không, còn vụ đạn axit(33). Nhưng tạm thời chưa có manh mối, e là phải chờ thủ phạm gây án lần nữa mới điều tra tiếp được.” Thái thở dài.
“Quả thật, vụ án kiểu này là khó giải quyết nhất...”
Nửa năm trước, ở phố Thông Thái(34), Vượng Giác xảy ra một vụ ném bình đựng chất lỏng có tính ăn mòn từ trên cao xuống đường. Thông Thái là phố chợ ngoài trời với vô vàn gian hàng bày bán quần áo, trang sức, đồ dùng... được mệnh danh Chợ Quý Bà(35).
Đây là khu mua sắm nổi tiếng dành cho khách du lịch, hai bên đường mọc san sát những ngôi nhà kiểu cũ, đậm chất Hồng Kông. Trang bị an ninh của các nhà này đều sơ sài, không ít nhà còn chẳng có cổng, mặc sức ra vào, nên mới bị tội phạm lợi dụng.
9 giờ tối, có người lẻn vào một tòa nhà năm, sáu tầng, trèo lên sân thượng, mở nắp bình đựng chất thông tắc cống ra rồi hắt xuống đường, làm chất lỏng bắn tung tóe. Hôm đó là cuối tuần, lại đúng lúc chợ đêm đông đúc sau giờ cơm tối, nên vô số chủ sạp và người đi đường bị thương.
Hai tháng sau, vào một tối thứ Bảy, đầu còn lại của khu chợ cũng xảy ra sự việc tương tự. Hai bình chất lỏng ăn mòn cùng nhãn hiệu rơi từ trên cao xuống, số người bị thương nhiều hơn cả vụ đầu tiên, có người còn bị bỏng nặng ở đầu, suýt nữa thì mù.
Tổ trọng án Sở cảnh sát Tây Cửu Long bắt tay vào điều tra, nhưng không xác định được đối tượng tình nghi, vì các tòa nhà lân cận có tận mấy cửa hàng kinh doanh trên tầng, sân thượng còn nối liền nhau, thủ phạm có thể di chuyển trên cao rồi tẩu thoát từ một tòa nhà cách xa hiện trường.
Sau vụ đầu tiên, cảnh sát kêu gọi người dân tăng cường an ninh, nhưng tiểu thương và cư dân sống rải rác trong các tòa nhà đều cho rằng để từ từ cũng được nên cứ trì hoãn mãi. Rốt cuộc hai tháng sau, vụ việc lại tái diễn.
CIB tiếp nhận yêu cầu của Ban Điều tra Hình sự Sở cảnh sát Tây Cửu Long, rà soát hình ảnh quay từ mấy chục camera trên đường và camera chống trộm của hơn trăm cửa hàng gần hiện trường, ráo riết truy lùng kẻ khả nghi. Sau hàng tá lần đối chiếu, sàng lọc, cảnh sát phát hiện một người đàn ông cao mét sáu, dáng người mập mạp, đội mũ lưỡi trai đen che khuất mặt xuất hiện trong băng ghi hình cả trước và sau khi hai vụ án xảy ra, nhưng không thể xác định người này có liên can không. Cảnh sát ra thông báo tìm hắn ta làm nhân chứng, nhưng không thu hoạch được gì.
May mắn thay, bốn tháng tiếp theo không xảy ra vụ nào tương tự. Có lẽ người đàn ông đội mũ kia chính là thủ phạm, biết mình bị lộ tung tích nên không dám làm càn. Hoặc có thể chủ sở hữu của các tòa nhà cuối cùng cũng bằng lòng bỏ tiền lắp cổng chung và thuê bảo vệ. Tóm lại, vụ việc đạn axit tạm lắng xuống.
Nhưng như thế lại khiến CIB không thể tiếp tục điều tra.
Quan đóng tài liệu, nói với Thái, “Tập trung xử lý hai tên tàu ô đi đã.”
“Em hiểu rồi.” Thái đứng dậy, ngay lập tức đổi giọng, “Sếp, có lẽ đây là lần cuối em báo cáo với anh.”
“Ừ, từ tuần sau sẽ đổi thành cậu ngồi vị trí này nghe người khác báo cáo.” Quan cười.
“Mấy năm nay, các anh em đều cảm kích vì được anh tận tình chỉ bảo, giúp chúng em học hỏi nhiều điều bổ ích.” Thái vừa nói vừa mở cửa phòng, vẫy tay ra bên ngoài, “Để bày tỏ lòng biết ơn, chúng em có thứ này cho anh.”
Quan khá bất ngờ khi thấy các thành viên đội 1 đều đứng ngoài cửa, một người hớn hở bước vào phòng, tay bưng bánh kem viết dòng chữ “Mừng sếp nghỉ hưu”, những người khác vỗ tay rào rào.
Người bưng bánh chính là Lạc Tiểu Minh mới gia nhập tổ B đầu năm nay. Từ ngày vào đây, cậu thường xuyên bị Quan sai bảo, giống như trợ lý riêng của tổ trưởng, nên các đồng nghiệp giao cho cậu “trọng trách bánh kem”.
“Ái chà, chịu chi thế.” Quan mỉm cười. “Thật ra tuần sau đã hẹn tất cả cùng đi ăn một bữa, đâu cần bánh trái làm gì.”
“Sếp yên tâm, cái bánh này bọn em sẽ cùng ăn, đảm bảo không bỏ phí chút kem nào.” Thái đùa. Anh hiểu tính tiết kiệm của sếp nên không mua bánh quá to, “Hôm nay anh nghỉ hưu, các đội khác còn làm nhiệm vụ nên không thể có mặt, nếu ngay cả bọn em cũng không tỏ chút tấm lòng thì bạc bẽo quá.”
“Ha ha, được, vậy cảm ơn mọi người.” Quan gật đầu. “Nhưng bây giờ mới hơn 10 giờ, các cậu có nuốt nổi không?”
“Chúng em chưa ăn sáng đâu.” Một cấp dưới nhanh nhảu.
Thái bổ sung, “Tranh thủ báo cáo xong mới có thời gian rảnh, chờ đến buổi chiều mọi người đều phải làm việc thì khó tụ tập đông đủ lắm.”
“Sếp, chúc mừng anh nghỉ hưu!”
“Lúc nào rảnh sếp nhớ quay lại thăm chúng em nhé.”
“Mau mang dao ra đây để sếp cắt bánh...”
“Ồ, đang có chuyện gì thế?”
Câu hỏi vừa vang lên, trừ Quan Chấn Đạc, tất cả đều đông cứng lại vì sợ. Chỉ huy trưởng Tào Khôn mặc Âu phục phẳng phiu, đầu tóc chỉnh tề, mặt mày nghiêm nghị đang đứng sau họ. Tào hơn Quan bốn tuổi, là trưởng phòng CIB, tính tình thận trọng nghiêm túc, một ngày hai tư tiếng thì hết hai mươi ba tiếng nhăn mặt cau mày, đa số nhân viên CIB đều kính trọng và nể sợ ông.
Thái và đám cấp dưới không ngờ sếp lớn đột ngột ghé thăm văn phòng tổ B, ai nấy cuống quýt đứng nghiêm. Khổ thân Lạc, hai tay cầm bánh kem, nhất thời không biết đặt đâu, mà lại không thể không chào cấp trên.
“Anh có việc tìm tôi à?” Quan đứng dậy, ung dung giải thích, “Đúng lúc mấy cậu ấy chuẩn bị bánh kem mừng tôi về hưu.”
“Thế à... hay để lát nữa tôi quay lại?” Chỉ huy trưởng trỏ ra sau lưng mình.
“Không, không!” Thái rối rít, “Chúng em đi trước, mời sếp từ từ nói chuyện.”
Tào gật đầu ra chiều đương nhiên. Thành viên đội 1 lập tức rút lui khỏi văn phòng Quan, người đi sau cùng còn cẩn thận đóng cửa, không để phát ra một tiếng động nào.
Cấp dưới đi hết rồi, Quan mới cười nói, “Anh Khôn, anh làm họ sợ đấy.”
“Họ nhát gan đó thôi.” Tào nhún vai, ngồi xuống trước bàn làm việc. Tào quen biết Quan đã nhiều năm. Tuy lúc nào mặt cũng lạnh tanh, nhưng ông không bao giờ tỏ vẻ trịch thượng với bạn cũ, dù Quan là cấp dưới.
“Anh đích thân đến đây chắc có chuyện hệ trọng?”
CIB họp mỗi tuần một lần, tổ trưởng các tổ báo cáo với trưởng phòng và phó phòng, nhưng đều được tiến hành trong phòng họp. Hiếm khi Tào Khôn đích thân bước vào văn phòng tổ B như thế này.
“Hôm nay cậu về hưu, tất nhiên tôi phải đến rồi.” Dứt lời, Tào lục túi áo lấy một hộp nhỏ.
Quan mở hộp. Bên trong là chiếc bút mực màu bạc.
“Lớp già chúng ta vẫn thích dùng bút nhất, mặc dù bây giờ toàn gõ báo cáo trên máy tính.”
“A... Cảm ơn anh.” Quan nhận món quà, bụng bảo dạ bút viết được là được, chế tác tinh xảo thế này hơi lãng phí. Ông cười nói, “Thật ra nghỉ hưu rồi chắc sẽ ít khi động đến bút. Anh muốn tôi dùng để viết hồi kí à?”
Tào ngả người tới trước, nhìn thẳng vào mắt Quan, “Ngoài việc tặng quà lưu niệm, tôi còn đến để xác nhận lại nguyện vọng của cậu.”
Quan cười trừ, lắc đầu, “Anh Khôn, anh biết tôi quyết ý ra đi mà, nói nữa cũng vô ích.”
“Không cân nhắc lại thật à? Trong ngành này, xét về kinh nghiệm, tài năng, quan hệ, cậu vẫn là số một. Năm sau tôi đi rồi, CIB chẳng còn ai đủ khả năng lãnh đạo. Đạc, cậu còn sung sức, ngồi vào vị trí của tôi mà ‘quá độ’ thêm năm năm nữa đi, anh Nhất cũng rất mong đấy.”
Sau khi về hưu, cảnh sát Hồng Kông vẫn có thể làm việc tiếp theo hình thức hợp đồng. Thời gian hợp đồng tối đa là bốn kì, mỗi kì kéo dài hai năm rưỡi, hết hợp đồng sẽ nhận được một khoản gọi là tiền thanh lý. Dù hình thức này là hợp pháp, cảnh sát bình thường cũng khó có cơ hội “quá độ” khi đã đến tuổi 55, nhưng cảnh sát cấp cao cỡ hiến ủy thì khác, bởi họ có những kinh nghiệm khó bề thay thế.
Quan biết năm sau Tào sẽ về hưu. Gia đình ông đã chuyển sang Anh sinh sống, bản thân ông cũng được cấp quyền cư trú tại Anh từ lâu, chỉ tội gắn bó với ngành nên mãi chưa chịu đi. Khá nhiều người Hồng Kông lo ngại về tình hình xã hội sau ngày chuyển giao chủ quyền, nên thu xếp di cư ra nước ngoài.
Tuy chính phủ Anh đã phủ quyết đề án cấp quốc tịch Anh cho toàn bộ dân Hồng Kông, song đề phòng công chức Hồng Kông di cư quá nhiều làm suy giảm khả năng hoạt động của bộ máy quản lý, họ đã đặc biệt đề ra chính sách “quyền cư trú tại Anh”, sẵn sàng tiếp nhận công chức đủ tư cách bất cứ lúc nào, để người ta yên tâm ở lại Hồng Kông làm việc. Gia đình của các công chức này thường di cư sang Anh hoặc các nước thuộc Liên hiệp Anh trước, con cái họ cũng ra nước ngoài du học, sau đấy mới dần dần an cư lạc nghiệp.
“Thôi, dành cơ hội cho người khác đi.” Quan khước từ, “Tiểu Lưu cũng ổn, lại trẻ hơn tôi. Ngành có cho tôi làm hợp đồng thêm năm năm thì cuối cùng vẫn phải đối mặt với vấn đề nhân lực. Chi bằng cứ giải quyết sớm, để bọn trẻ vừa làm vừa học.”
“Tiểu Lưu khá đấy, nhưng làm việc cảm tính quá.”
Tiểu Lưu tức Lưu Lễ Thuần, tổ trưởng tổ A CIB.
“Cậu cũng biết mà, người nắm CIB ở Bộ chỉ huy cần có một cái đầu lạnh, mắt nhìn sáu phương, tai nghe tám hướng. Còn Tiểu Lưu, thật ra cậu ấy hợp làm việc dưới sở hơn...”
“Anh Khôn, đừng mất công nữa. Tôi chỉ ham phân tích suy luận, anh bảo tôi lo mấy việc hành chính kế hoạch thì sao tôi chịu nổi, việc này anh phải biết rõ nhất chứ. Tôi lên chỉ huy cấp cao mà vẫn làm tổ trưởng cũng là ý của anh mà.”
Trong CIB, tổ trưởng thường là chỉ huy, còn chỉ huy cấp cao đúng ra phải làm phó phòng. Nhiều năm trước, Quan được thăng chỉ huy cấp cao, song vẫn đảm nhiệm chức vụ tổ trưởng là do Tào Khôn cố tình sắp xếp dựa vào năng lực cá nhân.
“Chà, tôi thua cậu rồi.” Tào cau mày theo thói quen, “Vậy cậu muốn nghe phương án 2 không?”
“Phương án 2?”
“Vẫn làm hợp đồng, nhưng không phải chức vụ của tôi.”
“Thái thì sao? Cậu ấy đã chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận công việc của tôi rồi...”
“Không, tôi không bảo cậu tiếp tục làm tổ trưởng tổ B.” Tào từ tốn nói, “Tôi đã bàn với trị sự Hồng, muốn cậu ở lại phục vụ ngành với tư cách cố vấn đặc biệt. Trên danh nghĩa, cậu vẫn thuộc CIB, nhưng có thể tự do hỗ trợ điều tra bất kì vụ án nào. Dĩ nhiên cậu chỉ được can thiệp khi phòng ban phụ trách vụ án đó nhờ vả, chứ chúng tôi không muốn nhúng tay vào công việc nội bộ của cảnh sát các khu vực, gây sức ép lên tinh thần anh em đâu.”
“Hả?” Dù suy luận siêu phàm, Quan cũng không ngờ cấp trên lại đặc cách đến thế. Trị sự Hồng mà Tào Khôn nhắc đến chính là trị sự trưởng cấp cao Hồng Gia Thành, cục trưởng cục Hình sự và Bảo an, cơ quan mẹ của CIB và Phòng Điều tra Tội phạm ma túy. Hồng Gia Thành mới 41 tuổi, có bằng đại học, vào ngành đã là thanh tra, chứ không như Tào và Quan lóp ngóp đi lên từ cảnh viên nấc thấp nhất.
“Đây là biện pháp tối ưu mà chúng tôi nghĩ ra. Tôi không muốn ép cậu, nhưng mong cậu nghĩ cho kĩ. Mọi người đều chưa biết sau năm nay sẽ phải đối mặt với những thách thức gì, kinh nghiệm của cậu thể nào cũng có ích.”
Quan trầm ngâm, lời đề nghị này có sức hấp dẫn kì lạ. Nhưng ông đã dứt khoát rời ngành, nên chưa thể đưa ra quyết định ngay. Được quay lại tuyến đầu điều tra mà không cần lo nghĩ đến gánh nặng sức khỏe, đây có lẽ là giải pháp sáng sủa nhất. Tuy nhiên Quan là người suy nghĩ thấu đáo, cũng giống như khi phân tích thông tin, không bao giờ vội vàng đi đến kết luận.
“Tôi sẽ... cân nhắc.” Quan đáp, “Khi nào tôi cần trả lời?”
“Trước trung tuần tháng Bảy, cậu cứ thong thả.” Tào đứng dậy, “Ngày nghỉ hưu của cậu vốn là giữa tháng Bảy mà, cho tôi đáp án trước lúc đó là được.”
Quan tiễn Tào ra đến cửa.
Tào nói, “Dù cậu có đồng ý hay không, tôi vẫn muốn nói với cậu câu này. Chúc mừng cậu nghỉ hưu! Hai ta đều biết, làm cảnh sát mà được bình yên về hưu thì đúng là việc đáng mừng.”
“Vâng, anh nói phải. Cảm ơn anh!” Quan bắt tay Tào, mở cửa phòng.
Các thành viên tổ B đang vùi đầu làm việc, người gọi điện thoại với vẻ mặt nặng nề, người lật tài liệu xoành xoạch. Tào đi rồi, Quan cứ tưởng cấp dưới sẽ bỏ cái vẻ cố tỏ ra nghiêm túc đó. Nhưng nhìn kĩ, ông lại thấy bầu không khí căng thẳng này không phải giả vờ cho cấp trên xem.
“Sếp, có án.” Thấy Tào ra về, Thái hớt hải báo với Quan, “Ban nãy có tin từ Sở cảnh sát Đảo Hồng Kông, vừa xảy ra một vụ đạn axit nữa. Tổ trọng án dưới ấy đang tức tốc đến hiện trường xem xét. Trời ạ, chúng ta vừa nói không có manh mối để điều tra xong, ai ngờ có luôn...”
“Đảo Hồng Kông?” Quan nhíu mày, “Không phải Vượng Giác à?”
“Gần đấy, lần này là phố chợ Graham(36) khu Trung Hoàn.” Thái đáp. “Tạm thời chưa biết là cùng thủ phạm với hai vụ ở Vượng Giác hay do kẻ khác bắt chước. Em đã cử người đi tra hỏi tường tận. Ngoài ra các anh em cũng đang sắp xếp lại tài liệu cũ, chỉ cần chứng cứ mới được đưa đến là chúng ta có thể đối chiếu phân tích luôn.”
“Tốt, có tiến triển gì thì cho tôi biết. Nếu xác định là cùng nghi phạm, chúng ta cần báo ngay với tổ trọng án Tây Cửu Long.” Quan vỗ vai Thái rồi quay về phòng. Ông ngồi xuống ghế, tự nhủ bất kể diễn biến ra sao cũng phải để Thái chủ động chỉ đạo phá án, đằng nào từ mai ông cũng không còn ở đây nữa.
Tuy quyết định không can thiệp, nhưng Quan vẫn để mở cửa phòng, vừa xét duyệt báo cáo vừa nghe ngóng tình hình điều tra.
Qua tiếng nói chuyện điện thoại và tiếng trao đổi đan xen, ông được biết, 10 giờ 5 phút sáng nay, có kẻ đã ném bốn bình đựng chất thông tắc đường ống từ sân thượng một tòa nhà cao tầng kiểu cũ xuống dãy hàng giao giữa phố Graham và phố Wellington.
Phố chợ Graham là khu chợ ngoài trời có lịch sử lâu đời, bán cả thực phẩm tươi sống lẫn đồ dùng sinh hoạt, cư dân gần đó thường xuyên lui tới, khách du lịch cũng hay ghé thăm. Vì là ban sáng, đúng lúc người dân tấp nập đến mua thức ăn, nên vụ tấn công lần này khiến 32 người bị thương, trong đó có 3 ca rất nặng, hóa chất dây lên mặt và đầu. Quan hiểu, 32 chưa phải là số chốt. Vụ án nào cũng thế, số lượng thương vong ban đầu hầu như không chính xác, còn phải chờ bệnh viện chứng thực danh sách người bị thương nữa. Hiện giờ báo cáo là 32, có khi cuối cùng lại thành hơn 40.
Nửa tiếng sau, Thái gõ cửa phòng tổ trưởng, mặt mày nhăn nhó.
“Sao thế, có người bị thương không qua khỏi à?” Quan hỏi.
“Không, không ạ. Chúng em vừa nhận được báo cáo về trường hợp khẩn cấp khác còn rắc rối hơn. Một tù nhân đã chớp thời cơ gây rối và trốn thoát khi được đưa đến bệnh viện kiểm tra.”
“Ở đâu? Bệnh viện Queen Mary?”
Bệnh viện Queen Mary nằm trên đường Bạc Phù Lâm(37) ở đảo Hồng Kông, là nơi khám chữa bệnh cho tù nhân nhà tù Stanley.
“Vâng, vâng, Queen Mary.” Thái lắp ba lắp bắp. “Nhưng vấn đề không phải ở đâu, mà là ai. Kẻ vượt ngục là Thạch Bản Thiêm.”
Quan bất giác thất thần. Tám năm trước, từ những ngày mới gia nhập CIB, tổ trưởng Quan đã tham gia kế hoạch truy lùng hai anh em Thạch Bản Thiêm và Thạch Bản Thắng, hai cái tên đứng đầu danh sách truy nã khi ấy. Thiêm là anh, lắm mưu nhiều kế, gian trá xảo quyệt. Thắng là em, giết người không chớp mắt. Năm đó, Thắng bị bắn chết trong lúc vây bắt, nhưng Thiêm thì không rõ tung tích.
Một tháng sau, cảnh sát tìm ra nơi ẩn náu của Thiêm và bắt giữ hắn.
Và người có công tóm cổ Thiêm từ hàng loạt thông tin tản mát, chính là Quan Chấn Đạc.
Suốt một tiếng kể từ lúc Thái báo cáo với Quan chuyện Thiêm vượt ngục, tâm trạng các thành viên tổ B CIB lên xuống như ngồi tàu lượn.
Ban đầu, tổ B chỉ tình cờ biết tin. Để có thêm thông tin về vụ đạn axit, Thái cử người đến một trạm điều phối, còn gọi là “đài truyền hình”, lấy biên bản báo án, đúng lúc gặp yêu cầu hỗ trợ khẩn cấp của Ban Cải tạo(38), mới hay Thiêm đã trốn khỏi bệnh viện Queen Mary. Người phụ trách đài truyền hình hết sức căng thẳng, lập tức báo cho tất cả các đội EU, cơ động và tuần tra tới hỗ trợ, hi vọng chặn đầu đối tượng trước khi hắn biến mất trong biển người. Kết quả, hành động lần này vừa thành công, lại vừa thất bại.
Theo lời kể của người báo án, Thiêm nhảy lên chiếc Honda Civic trắng đỗ gần tòa nhà cấp cứu của bệnh viện Queen Mary, dùng hết tốc lực tông vào hàng rào làm cảnh của bệnh viện, rồi theo đường Bạc Phù Lâm chạy thẳng về hướng Bắc. Vì buổi sáng Tây Hoàn xảy ra hỏa hoạn, ở Trung Hoàn lại có tai nạn giao thông, nên xe tuần tra gặp không ít trở ngại, trạm điều phối đã cố gắng điều động nhân sự, song vẫn lực bất tòng tâm.
11 giờ, Thái nhận được báo cáo sơ bộ về tình hình trên rồi truyền đạt lại với Quan. Anh không biết rằng, cùng lúc đó, xe số hai của EU đã phát hiện xe mục tiêu tại Tây Mid-Levels. Nhận chỉ thị từ trạm điều phối, xe số hai nhanh chóng đến nút giao giữa đường Bạc Phù Lâm và đường Hill để lập rào chắn, khám xét những xe khả nghi. Nhưng chưa kịp bố trí xong thì xe mục tiêu đã lao thẳng tới, tông nát bảng cảnh báo. Xe số hai tức tốc đuổi theo, bám sát từ đường Bạc Phù Lâm vòng sang đường Bonham, tình hình hết sức cam go. Xe mục tiêu chạy gần đến đường Honiton thì bất ngờ đâm vào cột đèn đường do tránh xe chở hàng đối diện, bởi vậy EU mới đuổi kịp.
Đây chính là mở đầu của chuỗi rắc rối. Năm người ngồi trên xe cảnh sát không ngờ đối tượng mang vũ khí hạng nặng. Họ còn chưa xuống xe đã bị tấn công dồn dập bằng súng máy. Tức thì, đội trưởng rút khẩu MP5 và Remington 870 ra bắn trả. Trước đây, EU chỉ được cấp súng lục tiêu chuẩn, đối đầu với bọn tội phạm ngang ngược hở ra là dùng vũ khí tự động thì chỉ có nước chịu thiệt. Đầu những năm 1990, để đảm bảo cân bằng lực lượng, cảnh sát đã trang bị thêm cho xe EU súng MP5, Remington và áo chống đạn phòng những lúc cần kíp.
Chỉ chớp mắt, con đường biến thành chiến trường chìm trong làn đạn, hai phe cùng tiến thoái lưỡng nan. Nhưng phía cảnh sát được nữ thần may mắn phù hộ, một xe EU khác kịp thời tới chi viện, tạo thành thế gọng kìm. Mưa đạn bủa vây dữ dội khiến ba tội phạm mất mạng, cảnh sát ngăn cản thành công vụ nổi loạn. Lần này chỉ có năm dân thường và cảnh sát bị thương, quả đúng là trong cái rủi có cái may. Nhưng mười lăm phút sau, khi điều tra viên hình sự đến hiện trường tiếp nhận vụ án, thì sự thật kinh hoàng mới lộ diện.
Trong ba tội phạm chết vì trúng đạn, không hề có Thiêm.
Giữa lúc đấu súng hỗn loạn, mấy tên tội phạm cùng lao ra khỏi xe, cảnh sát không chắc liệu có tên nào dùng kế ve sầu thoát xác, thừa cơ ai nấy chú ý vào kẻ bắn súng mà cải trang thành dân thường rồi tháo chạy từ phía bên kia xe không. Cũng có khả năng Thiêm đã tẩu thoát trước cả khi chiếc xe đâm vào rào chắn, đổi xe khác hoặc dùng phương tiện giao thông công cộng, nghênh ngang hòa vào dòng người nườm nượp trên phố.
“Phòng O đã chính thức tiếp nhận vụ án. Chúng ta vừa nhận được yêu cầu phân tích thông tin.”
Đúng 12 giờ trưa, Thái mở cuộc họp khẩn, chỉ đạo phương hướng điều tra cho cấp dưới. Mới một tiếng trôi qua mà tin tức dồn dập đổ về, đầu tiên là Thiêm bỏ trốn, tiếp theo là tội phạm mất mạng vì đấu súng với cảnh sát, rồi trong mấy cái xác lại không có Thiêm.
Đối với CIB, nắm bắt thông tin là nhiệm vụ tối quan trọng, vì các đồng nghiệp nơi tuyến đầu chỉ thấy phần nào sự việc, người xem xét toàn cảnh phải là CIB ở vị trí trung tâm. CIB cần gấp rút tổng hợp tin tức từ tất cả các bên, làm rõ từng manh mối rồi phán đoán chân tướng sự việc. Như trong vụ lần này, chậm trễ phút nào là Thiêm có thêm phút ấy để lẩn trốn, phạm vi tìm kiếm theo đó cũng tăng lên từng trăm mét một.
Trong phòng họp, ngoài thành viên tổ B còn có đội trưởng đội theo dõi số hai của tổ D và đại diện Phòng O. Mỗi khi phối hợp hành động, tổ B không chỉ đảm trách phân tích thông tin, mà còn cần hỗ trợ các phòng ban khác để đường dây tin tức luôn thông suốt. Quan ngồi cạnh Thái, mặc dù quyết định để anh toàn quyền xử lý, nhưng hôm nay ông vẫn là tổ trưởng nên không thể vắng mặt.
Thật ra, cả tổ B đều mong Quan nêu ý kiến. Không chỉ vì tài phá án xuất sắc, mà còn vì ông là người duy nhất trong tổ từng chạm trán Thiêm. Quan không trực tiếp gặp mặt, nhưng lại nắm rõ tính cách hắn như lòng bàn tay.
“Thạch Bản Thiêm, 42 tuổi, tám năm trước lãnh án tù hai mươi năm vì tội bắt cóc và cướp có vũ trang.” Thái vừa nói vừa bấm nút máy chiếu, phát hình ảnh của Thiêm, “Từ năm 1985 đến năm 1989, hắn và em trai, Thạch Bản Thắng, được liệt vào đâu bảng danh sách truy nã. Khác với Thắng trực tiếp ra tay, Thiêm đứng sau làm quân sư, là đầu não vạch kế hoạch, chọn mục tiêu, quyết định thời gian và địa điểm hành động. Trong vụ bắt cóc tống tiền doanh nhân Lý Dụ Long năm 1988, người âm thầm đàm phán và vơ vét 400 triệu tiền chuộc từ người nhà Lý Dụ Long cũng chính là Thiêm. Hắn không phải loại tội phạm vung dao bắn súng, vũ khí của hắn là đầu óc và miệng lưỡi.”
Mà loại này là khó đối phó nhất, Quan nghĩ thầm. Hình ảnh phát từ máy chiếu do Ban Cải tạo cung cấp, mới chụp tháng trước.
Kí ức của Quan chỉ lưu lại hình ảnh Thiêm cách đây tám năm, nhưng phạm nhân trong ảnh không khác mấy so với ấn tượng của ông, vẫn là khuôn mặt chữ điền, đôi môi mỏng lét, trán hẹp, đeo kính gọng đen. Có điều, giờ hắn gầy gò hơn một chút, đuôi mắt thêm vài nếp nhăn, mái tóc cạo mỏng lấm tấm điểm bạc. Xem ra, cuộc sống trong tù khiến hắn già đi trông thấy.
“9 giờ sáng nay tại nhà tù Stanley, Thiêm tự nhiên kêu đau bụng, bác sĩ của nhà tù tiêm cho hắn một mũi giảm đau nhưng một tiếng sau vẫn không công hiệu, Ban Cải tạo đành áp giải Thiêm đến bệnh viện Queen Mary để khám chuyên sâu.” Thái đảo mắt một vòng quanh phòng. “Vì Thiêm có biểu hiện tốt trong thời gian chịu án, nên Ban Cải tạo chỉ dùng biện pháp áp giải bình thường, cử hai quản giáo trông chừng. Thiêm cũng chỉ đeo một bộ còng tay.”
Mọi người đều hiểu ngụ ý của Thái. Anh em Thiêm là ung nhọt xã hội, khiến cảnh sát đau đầu suốt mấy năm trời. Cả ngành cảnh sát không ai tin tên cặn bã đó cải tà quy chính. Thấy hắn có biểu hiện tốt mà lơi lỏng cảnh giác, đây rõ ràng là trách nhiệm của Ban Cải tạo. Cảnh sát Hồng Kông luôn giúp đỡ Ban áp giải tù nhân phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Nếu Ban yêu cầu, cảnh sát nhất định đảm bảo quá trình áp giải diễn ra thuận lợi. Như thế, Thiêm tuyệt đối không có cơ hội trốn thoát.
Thái dùng bút dạ chỉ vào bản đồ treo bên cạnh màn hình, “Quản giáo và Thiêm đến bệnh viện Queen Mary lúc 10 giờ 35 phút. Khoảng hai mươi phút sau Thiêm nói muốn đi vệ sinh, mà tầng một tòa nhà cấp cứu đang chật cứng người bị thương trong vụ hỏa hoạn ở Tây Hoàn lúc rạng sáng, cộng thêm nạn nhân của vụ ném đạn axit ở Trung Hoàn và các bệnh nhân khác, nên quản giáo đưa Thiêm lên buồng vệ sinh tầng hai. Nhân lúc họ sơ ý, Thiêm nhảy từ cửa sổ xuống rồi tháo chạy, leo lên ô tô của đồng bọn, tông đổ hàng rào tự động ở cổng bệnh viện rồi thẳng đường Bạc Phù Lâm đến Tây Hoàn.”
“11 giờ 1 phút, xe số hai của EU phát hiện mục tiêu tại nút giao với đường Hill.” Thái di đầu bút lên phía trên bản đồ. “Đối tượng không dừng xe, nhưng đến đường Bonham thì gặp tai nạn gần trường King’s College(39). Khi biết xe số hai và đối tượng đang giao chiến bằng súng, xe số sáu mau chóng phóng từ phố Western sang chi viện, tạo thế gọng kìm dồn đối tượng vào giữa, ba tội phạm trúng đạn, tử vong tại chỗ.”
Thái bấm nút, chiếu lên ba tấm ảnh.
“Đáng tiếc, trong ba tội phạm nêu trên không có Thiêm. Hắn vẫn đang trên đường trốn chạy. Hiện đã xác định được danh tính ba tên này, đầu tiên là Chu Đạt Uy biệt danh Uy Còm, từng là đàn em của Thiêm, cách đây mười năm bị tống giam vì tội hành hung, năm năm trước đã ra tù. Còn lại là hai tên tàu ô vừa nhập cảnh được mấy hôm. Chúng ta đã nhận được tin chúng chuẩn bị gây án, đáng tiếc thông tin ít ỏi, không thể ngăn cản vụ việc từ sớm.”
Hai trong số ba tấm ảnh trên màn hình chính là ảnh trong báo cáo Thái trình lên Quan sáng nay. Đúng như ông dự đoán, chúng đã ra tay luôn chứ không chờ đến cuối tháng.
“Trên người chúng có một khẩu tiểu liên Skorpion Vz. 61, hai khẩu K54 và gần một trăm viên đạn. Tôi cho rằng số vũ khí này không chỉ được dùng trong vụ đào tẩu của Thiêm. Dựa trên hồ sơ phạm tội của Thiêm và hai tên tàu ô, có thể đoán ra chúng định cướp ngục rồi tiến hành một vụ cướp có vũ trang quy mô lớn. Tai nạn bất ngờ giúp chúng ta tranh thủ được kha khá thời gian để điều tra đồng đảng và kế hoạch của chúng. Nhưng, điểm rắc rối nhất hiện nay là chưa tìm ra tung tích Thiêm, chủ mưu tình nghi của vụ việc.”
Màn hình chuyển sang ảnh chụp hiện trường. Thân xe màu trắng chi chít vết đạn và máu, đủ thấy trận đấu súng ban nãy ác liệt thế nào.
“Trên người Uy Còm có chìa khóa xe khác, hẳn là để đánh tráo, chỉ tiếc chưa kịp đổi xe thì đã gặp tai nạn. Ngoài ra còn có bộ áo tù đã xé số hiệu và chiếc kính gọng đen gãy nát ở ghế sau, chắc chắn bây giờ Thiêm đã mặc trang phục mới và đeo kính áp tròng.” Thái đến bên cạnh bản đồ, “EU không thể xác định Thiêm lẻn đi trước hay trong cuộc đọ súng. Nếu hắn lẩn vào dòng người đi đường trong lúc đấu súng thì giờ có khả năng đang ở khu vực Tây Doanh Bàn(40).”
Thái dùng bút dạ khoanh tròn địa điểm đấu súng.
“Cảnh sát Tây Hoàn đang lùng sục và lấy lời khai của nhân chứng tại hiện trường. Tạm thời chưa rõ kết quả.” Anh dời bút xuống phía dưới, “Nhưng nếu Thiêm bỏ đi trước cuộc đấu súng thì sẽ khá rắc rối. Thời gian từ lúc xe rời bệnh viện đến khi xuất hiện ở đường Hill rơi vào tầm năm, sáu phút. Chúng ta không biết trong khoảng thời gian đó Thiêm có được kẻ nào khác tiếp ứng không. Theo hồ sơ, Thiêm là tên xảo quyệt, phạm nhân bình thường bỏ trốn đều đi cùng đồng đảng, riêng hắn có thể sẽ làm ngược lại, lấy đồng bọn làm mồi nhử để câu giờ cho mình. Như thế, khả năng cao nhất là hắn xuống xe ở đường Smithfield, sau đó hòa vào dòng người ở cuối khu vực Tây Hoàn. Ảnh của hắn đã được gửi đến tất cả các đơn vị, lưu ý tất cả các đội tuần tra. Mặt khác, hình ảnh liên quan cũng đã gửi cho truyền thông, hi vọng người dân cung cấp thêm tin tức.”
Quan thừa biết, trông chờ vào người dân không khác gì đơm đó ngọn tre. Thiêm không phải tội phạm bình thường, nếu hắn thực sự chuồn đi từ trước vụ đấu súng, thì trăm phần trăm là đã chuẩn bị đồ ngụy trang kĩ lưỡng để che giấu thân phận.
“Chúng ta vốn ở thế bị động, nhưng may mắn có thông tin sớm nên mới giành được thế chủ động.”
Thái quay lại trước màn hình máy chiếu, trỏ vào ảnh hai tên tội phạm từ đại lục sang.
“Theo tin trinh sát, hai tên này ẩn náu tại khu công nghiệp gần bến dỡ hàng ở Sài Loan. Nếu chúng đã là đồng bọn của Thiêm, chúng ta có lý do để tin rằng nơi ẩn náu đó cũng chính là sào huyệt của Thiêm. Hắn không thể ngờ đám Uy Còm lại bị cảnh sát bắn chết. Vụ tai nạn này đã tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta. Uy Còm phụ trách tiếp ứng, chứng tỏ gã đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch đào tẩu. Cái chết của gã và hai đồng bọn hẳn sẽ khiến Thiêm rối loạn. Thiêm ngồi tù nhiều năm, chưa chắc đã quen với thế giới bên ngoài, nên có lẽ chọn cách lấy tĩnh chế động, tạm thu mình trong sào huyệt để tránh sóng gió. Phiền các anh em tổ D sát sao khu vực Sài Loan 24/24, đặc biệt là phố Phong Nghiệp và phố Thường An(41).”
Đội trưởng đội theo dõi tổ D gật đầu.
“Các anh em Phòng O sẽ tiếp tục tìm manh mối từ ba tội phạm đã chết, thu hẹp phạm vi bằng những vật dụng trên người và dấu vết trên xe.” Thái ra hiệu với đại diện Phòng O rồi quay sang cấp dưới của mình, “Hạo, cậu đi thu thập chứng cứ với Phòng O. Quang Tử Hòa phân tích ghi chép về vụ án, tổng hợp lời khai của các đồng nghiệp tham gia đấu súng. Chú Ba liên lạc với tổ A xem có tai mắt nào biết nội tình không. Những người còn lại tìm manh mối trong băng ghi hình của tất cả các camera từ đường Bạc Phù Lâm đến đường Bonham. Tôi muốn biết trong năm phút trống đó Thiêm có khả năng xuống xe bỏ trốn hay không. Còn thắc mắc gì không?”
Không ai đặt câu hỏi.
“OK, bắt đầu hành động. Giải tán!”
Thái vừa dứt lời, cấp dưới liền tản đi làm việc. Mấy người có nhiệm vụ đặc biệt như Quang Tử Hòa thì vội vã chạy ra ngoài. Đội trưởng đội theo dõi tổ D nói vài câu với Thái rồi cầm tài liệu rời khỏi phòng họp. Đại diện Phòng O cũng trao đổi thêm mấy chi tiết rồi nhanh chóng rút đi, mặt mũi vô cùng nghiêm trọng. Chuẩn bị cho ngày chuyển giao chủ quyền, Phòng O đã có hàng đống nhiệm vụ phải xử lý nhằm ngăn chặn các vụ phạm tội có tổ chức, nay vì sự tắc trách của Ban Cải tạo mà lượng công việc lại tăng thêm, anh ta khó chịu cũng phải.
“Sếp có nhận định nào không?”
Trong phòng họp chỉ còn lại Thái và Quan.
“Nhận định à... tạm thời thì chưa.” Quan nhún vai, “Nhưng ý kiến thì có.”
“Ý kiến gì ạ?”
“Tốt nhất cậu nên đi ăn trưa luôn. Nửa tiếng nữa lời khai và băng ghi hình gửi về, cậu sẽ không có thời gian nghỉ ngơi đâu, bận rộn đến tối luôn đấy.” Quan mỉm cười vỗ vai Thái. Thái đáp lại bằng điệu cười méo xệch rồi xuống căng tin mua hộp cơm theo lời tổ trưởng. Quan đưa mắt nhìn theo, khuôn mặt lộ rõ vẻ thoải mái, nhưng lòng lại ngổn ngang tâm sự.
Tám năm trước, em trai Thiêm là Thắng đã chết trong một vụ đấu súng. Số con tin vô tội thiệt mạng vì vụ đó lớn hơn lần này nhiều, một kí ức Quan chẳng bao giờ muốn nhớ lại.
Hôm nay, việc Thiêm vượt ngục không ngờ cũng dẫn đến một vụ đấu súng. Cứ như thể tám năm làm việc tại CIB của ông đều chọn đấu súng làm mốc, một cho mở đầu, một cho kết thúc.
Đúng là trùng hợp đến nực cười.
Hoặc giả, sự đời vốn do đấng tối cao âm thầm sắp đặt, mở đầu và kết thúc luôn có những ngẫu nhiên mà người phàm không sao lường được. Con người chỉ là hạt cát nhỏ bé bất lực trôi theo dòng chảy thời gian.
Khác ở chỗ, tám năm trước Quan có thể tự tay giải quyết vụ án, bắt được con cá lọt lưới Thạch Bản Thiêm, nhưng hôm nay thời gian của ông đã hết.
“Đành để thuận theo tự nhiên thôi.” Quan lẩm bẩm. Ông không tiện nhúng tay vào nữa, người phụ trách vụ này là Thái.
Thế nhưng, nếu chấp nhận đề nghị của Tào Khôn, kí hợp đồng làm việc với tư cách cố vấn, thì có thể tiếp tục truy bắt Thiêm. Suy nghĩ này chợt thoáng qua đầu Quan.
“Không, không. Quyết định luôn thì hấp tấp quá.” Ông tự nhủ.
1 giờ chiều, văn phòng CIB như bãi chiến trường. Bàn ai cũng chất đống hồ sơ vụ án và ghi chép khẩu cung cao như núi, bảng gắn đầy ảnh chụp hiện trường vụ đấu súng và tấm bản đồ phân vùng kẻ vẽ chằng chịt. Hầu hết thành viên tổ B đều đang dán mắt vào màn hình, kiểm tra lần lượt từng đoạn băng theo dõi.
Phạm vi tìm kiếm mở rộng đến khu nhà ở tư nhân chỉ Fu Fa Yuan và khu nhà ở xã hội Wah Fu phía Nam bệnh viện, vì có thể Thiêm xuống xe rồi bắt xe khác chạy theo hướng ngược lại. Thái nhắc cấp dưới kiểm tra cả camera giao thông mấy con đường ở khu vực đó luôn. Có điều, Thiêm đổi xe chỉ là giả thuyết, họ không biết phải chú tâm vào đâu, y như chó săn không biết mùi thỏ mò mẫm sục sạo hết chỗ này đến chỗ khác hòng tìm kiếm chút dấu vết mong manh.
Khi nhận được tin “có kẻ khả nghi tại Quan Long Lâu(42) ở Tây Hoàn”, cả văn phòng sôi sục. Người báo án nói, khoảng 12 rưỡi có thấy một người đàn ông dáng vẻ khả nghi ra vào nhà C cư xá Quan Long Lâu. Cảnh sát Tây Hoàn nhanh chóng điều động nhân lực, súng đạn sẵn sàng. Quan Long Lâu có hơn hai nghìn căn hộ và hơn mười nghìn nhân khẩu, muốn lục soát toàn bộ không phải chuyện dễ dàng, chưa kể bọn Uy Còm đã vũ trang thì tất nhiên Thiêm cũng có vũ khí, nên cảnh sát càng phải thận trọng. Kể cả Thiêm không thuộc “phái thực chiến”, cảnh sát vẫn không dám hành động tùy tiện.
“Tin tức về Quan Long Lâu có thể chỉ là nhầm lẫn. Các cậu vẫn phải tập trung tinh thần, tiếp tục truy tìm tung tích tên khốn đó.” Thái ra lệnh. Đã hơn một tiếng kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm, kết quả điều tra gần như bằng không. Các anh em tìm được bóng dáng chiếc Honda Civic trắng trong camera giám sát tại trạm xăng gần đường Pokheld, nhưng lộ trình ba phút từ bệnh viện Queen Mary đến đường Pokheld vẫn là một khoảng trống, không rõ Thiêm có rời xe trong lúc đó không. Hiện trường vụ đấu súng cũng không có manh mối hữu ích để xác định trước khi xảy ra tai nạn trên xe có ba hay bốn người.
Chó chết thật, xem ra lại thành trường kì chiến đấu rồi, Thái chửi thầm. Anh ngoảnh đầu định hỏi người phụ trách phân tích lời khai nhân chứng xem có phát hiện được gì không, thì thấy Quan đang đứng trước bảng họp, tay cầm cốc cà phê, mắt nhìn chăm chú mấy tấm ảnh chụp hiện trường đấu súng.
“Tên này,” ông trỏ tên tội phạm trúng đạn ở ngực. “Kiểu tóc không giống trong ảnh.”
Thái liếc qua, là ảnh một trong hai tên tàu ô mà anh nộp lên Quan sáng nay.
“Vâng... Nhưng chắc chắn là cùng một người. Anh xem, trừ kiểu tóc ra thì mặt mũi, thân hình, thậm chí vết sẹo trên gò má trái đều trùng khớp.” Thái trỏ người trong hai tấm ảnh. Mấy hôm trước gã còn rẽ ngôi 3:7, sang hôm nay đã để tóc cúi cua.
“Quả thật, sinh đôi cũng không thể có vết sẹo giống hệt nhau trên mặt.” Quan vừa nói vừa nhấp ngụm cà phê.
Thái nghi ngại nhìn tổ trưởng, không hiểu sao ông lại nói vậy. Anh chưa kịp hỏi thì Lạc đã ôm một chồng tài liệu bước đến.
“Leader! Phòng O vừa gửi khẩu cung của quản giáo trông chừng Thiêm hôm nay.” Lạc nói.
“OK... Không phải tôi bảo Hạo đi theo Phòng O thu thập chứng cứ à?”
“Anh Hạo bận quá nên em làm giúp.”
Thái mỉm cười chua chát, “Tiểu Minh, cậu ‘trên vai có móc’ rồi, không cần nghe Hạo sai bảo đâu.”
Tháng trước, Lạc qua kì sát hạch, lên bậc Cảnh viên. Cấp hiệu trên vai Cảnh viên là ba chữ V, tiếng lóng là “móc (câu)”, nên Cảnh viên còn được gọi là “ba móc”. Dù cấp bậc cao hơn Hạo, nhưng Lạc mới gia nhập CIB được nửa năm, lại kém Hạo mười tuổi, hơn nữa chưa bù khú làm thân với đồng nghiệp sau giờ tan sở bao giờ, nên Hạo cứ thế cậy già lên mặt, không coi Lạc ra gì.
“Tôi muốn biết hai quản giáo kia sơ sẩy thế nào lại để Thiêm chạy thoát.” Quan đột nhiên nói.
“Sếp, chuyện này quan trọng lắm sao?” Thái gặng hỏi. “Giờ đâu phải lúc truy cứu trách nhiệm, huống chi Ban Cải tạo cũng có hình thức kỉ luật nội bộ...”
“Tôi chỉ tò mò thôi.” Quan nói xong liền mở tập tài liệu trên tay Lạc.
“Sếp...” Lạc ngập ngừng, chừng như đang đắn đo xem bỏ qua Thái để trả lời trực tiếp Quan có phải phép không, “Ngoài ghi chép bằng văn bản, Phòng O còn quay lại quá trình thẩm vấn. Băng ghi hình để trên bàn cháu, nếu sếp muốn xem...”
“A, thế càng tốt.” Quan đóng tập tài liệu, đưa mắt ra hiệu cho Lạc đi lấy băng ghi hình.
Thấy phản ứng của Quan, Thái lập tức đổi giọng, thận trọng hỏi lại, “Sếp cho rằng quá trình Thiêm đào tẩu có manh mối quan trọng ạ? Dù sao chúng ta cũng đã biết đại khái tình hình, bây giờ chủ yếu tập trung tìm kiếm...”
“Có thể có mà cũng có thể không.” Quan nhún vai. “Nhưng tôi khẳng định một điều, muốn đối phó với loại tội phạm có cái đầu đầy mưu sâu kế hiểm như Thiêm, thì không được bỏ qua bất kì chi tiết nào.”
Theo hướng nhìn của Quan, Thái dừng mắt tại ảnh chụp Thiêm gắn trên bảng họp.
“Đương nhiên,” Quan nói tiếp, “vụ này cậu toàn quyền xử lý, tôi không can dự. Nếu cậu cho rằng cử người quan sát chi tiết thẩm vấn về quá trình Thiêm trốn khỏi bệnh viện là mất công vô ích, tôi cũng không ý kiến.”
Lạc đã mang băng ghi hình đến.
Thái đảo mắt nhìn quanh, các nhân viên đang cắm đầu vào màn hình và tài liệu, bận đến tối mày tối mặt, anh đành nhượng bộ, “OK, sếp nói có lý. Nhưng họ không có thời gian, vậy nên đích thân em sẽ xem qua một lượt.”
Quan khẽ bĩu môi, xoay người chỉ vào phòng làm việc của mình, ý bảo Thái và Lạc cùng vào xem.
Thật ra Thái nghĩ tổ trưởng chỉ muốn xem hai quản giáo kia mặt mũi ra làm sao. Quan là người có công đầu trong việc bắt giữ Thiêm, có lẽ ông muốn biết hai kẻ ngốc nghếch nào khiến mình phải tiếc nuối trước khi về hưu.
“Mời anh cho biết tên, tuổi, chức vụ và đơn vị công tác.”
“Ngô Phương, 42 tuổi, quản giáo bậc một, công tác tại tổ hỗ trợ và áp giải tù nhân của Ban Cải tạo.”
“Hãy tường thuật lại tình hình công tác sáng nay, tức thứ Sáu ngày 6 tháng Sáu năm 1997.”
“Khoảng 10 giờ sáng, tôi nhận được chỉ thị áp giải một phạm nhân nam đến bệnh viện Queen Mary kiểm tra sức khỏe. Phạm mang số hiệu 241138, tên Thạch Bản Thiêm, chịu án tại nhà tù Stanley. Tôi và quản giáo bậc hai Thi Vĩnh Khang cùng trông chừng phạm. Xe cứu thương xuất phát lúc 10 giờ 5 phút, đến bệnh viện Queen Mary lúc 10 giờ 35 phút.”
“Chỉ có hai quản giáo phụ trách áp giải thôi sao?”
“Đúng vậy.”
“Nhìn vào tiền án tiền sự của Thiêm, có thể thấy hắn là một nhân vật nguy hiểm, tại sao không yêu cầu cảnh sát hỗ trợ?”
“241138 có biểu hiện tốt trong tù, hồ sơ mấy năm nay đều sạch sẽ, còn tích cực tham gia lao động, nhiều lần được tuyên dương. Chủ nhiệm Ban Cải tạo cho rằng chỉ cần dùng biện pháp áp giải thông thường là ổn.”
“Tại bệnh viện Queen Mary đã xảy ra chuyện gì?”
“241138 được đưa đến khoa Cấp cứu, theo chẩn đoán sơ bộ của phòng phân loại bệnh nhân, phạm được xếp vào loại bệnh không nguy cấp nên ra ngồi chờ bên trái sảnh, tôi với Khang đứng cạnh trông chừng. Trong lúc đợi, phạm luôn mồm kêu đau bụng, khoảng 10 giờ 50 phút thì nói muốn đi đại tiện. Hai chúng tôi bàn bạc rồi quyết định đưa phạm lên tầng hai.”
“Tại sao không dùng buồng vệ sinh ở sảnh tầng một?”
“Sáng nay bệnh nhân đến khoa Cấp cứu rất đông, người đi vệ sinh ra vào liên tục. Chúng tôi không muốn ảnh hưởng tới họ nên chọn buồng vệ sinh tầng hai. Để đề phòng phạm tiếp xúc với người thường, chúng tôi luôn canh chừng nghiêm ngặt, phạm muốn đi, chúng tôi cũng phải dọn trống buồng vệ sinh trước, đảm bảo bên trong không còn ai, cũng không có vật dụng gây sát thương mới cho phạm vào.”
“Khi lên tầng hai, các anh có kiểm tra buồng vệ sinh không?”
“Có. Tâng hai là khoa Công tác Y tế Xã hội, ít người. Chúng tôi chọn buồng vệ sinh bên trái cầu thang. Buồng đó có ba khoang riêng, Khang đứng ngoài trông chừng phạm, còn tôi vào kiểm tra. Bên trong có hai bình thủy tinh và một cây lau nhà. Tôi cho rằng những vật này có thể dùng làm vũ khí nên đã mang đi nơi khác. Ngoài ra, tôi xác nhận cả ba khoang đều trống. Khoang gần lối ra nhất khép hờ, treo biển ‘Đang sửa chữa’, tôi vẫn mở ra xem, không có người hay đồ vật nào khả nghi.”
“Cửa sổ thì sao? Lúc đó anh có nghĩ đến khả năng tù nhân chạy thoát qua đường cừa sổ không?
“Ừm... tôi có nghĩ đến. Cho nên tôi đã dùng những biện pháp thích hợp để ngăn chặn việc trốn thoát bằng cửa sổ, chỉ hiềm... đều không hiệu quả.”
“Biện pháp gì?”
“Kiểm tra xong xuôi, chúng tôi cùng áp giải phạm vào buồng vệ sinh. Tôi đứng trước cửa sổ đóng kín, còn Khang đứng sau lưng phạm. Phạm không có cơ hội thoát khỏi chúng tôi để chạy ra cửa sổ. Phạm kêu đeo còng tay hơi vướng víu, nên Khang mở còng tay trái rồi khóa vào tay vịn bồn cầu dành cho bệnh nhân đi lại khó khăn. Tôi cho phép phạm khép cửa một nửa. Tôi đứng ngay ngoài cửa để đảm bảo không có gì bất thường, còn Khang ra ngoài canh chừng, không để người khác vào.
“Vậy Thiêm trốn thoát bằng cách nào?”
“Phạm vào buồng vệ sinh chừng một phút thì bên ngoài có tiếng cãi cọ mãi không dứt. Tôi kiểm tra kĩ, thấy phạm đã bị khóa chắc vào tay vịn rồi mới ra ngoài hỗ trợ. Một người đàn ông tóc dài đang tranh cãi với Khang. Hình như anh ta tức giận vì chúng tôi cấm người dân dùng buồng vệ sinh. Anh ta chỉ trích chúng tôi không có quyền, còn cố xông vào bằng được, nên chúng tôi phải ngăn lại. Tôi quát bảo anh ta dừng lại, đồng thời giải thích rằng chúng tôi đang làm nhiệm vụ, có thể tố cáo anh ta tội cản trở người thi hành công vụ, anh ta mới chịu thôi, vừa chửi vừa rời đi theo lối cầu thang. Sự việc xảy ra chưa đến một phút, nhưng khi tôi quay vào thì phạm đã mở khóa còng bỏ trốn.”
“Mời anh kể chi tiết.”
“Khi quay lại buồng vệ sinh, tôi thấy cửa buồng để mở, bên trong không một bóng người, còng tay rơi ngay dưới cửa sổ mở toang. Tôi lao qua đó, thấy phạm đang chạy về phía một chiếc ô tô màu trắng đỗ đằng xa. Tôi nhoài người ra hét lên cảnh cáo, nhưng phạm không nghe, gần đó cũng không có cảnh sát hay bảo vệ của bệnh viện. Khang nghe tiếng tôi hét lớn liền xông vào, trèo lên bậu cửa sổ, bảo tôi đuổi theo bằng thang bộ, còn cậu ta sẽ nhảy t?