Chương 5 BORROWED PLACE
Reng... reng...
Đang mơ màng, Stella nghe chuông điện thoại réo inh ỏi.
Reng... reng...
Cô lật người, dùng gối bịt tai lại. Cô không biết mình đã ngủ bao lâu, chỉ biết như vậy vẫn chưa đủ.
Reng... reng...
Không đếm xỉa tới tâm trạng của Stella, điện thoại cứ riết róng như đòi nợ.
“Liz... Liz ơi...” Stella gọi vú em. “Liz... Chị nghe điện thoại được không?”
Khi cao giọng hét, đầu óc Stella cũng tỉnh táo dần. Cô vẫn nhớ giấc mơ ban nãy. Trong mơ, cô đang cùng chồng và con trai xem một series khoa học viễn tưởng ở quê hương Anh. The Doctor, nhân vật chính của phim, bất ngờ nhảy từ trong vô tuyến ra, bàn chuyện nợ nần với chồng cô. The Doctor nói có thể mượn sức mạnh của người Sao Hỏa để giảm nợ cho nhà cô, đúng lúc ấy chuông cửa vang lên, các luật sư của chủ nợ đứng trước cửa nhà bấm chuông liên hồi.
Tất nhiên đó không phải chuông cửa, mà là tiếng điện thoại réo ầm ĩ.
Stella lơ mơ ngồi dậy, mở mắt nhìn đồng hồ báo thức để đầu giường. 12 giờ 46 phút trưa. Tuy không giỏi tính nhẩm, nhưng cô biết ngay mình mới ngủ hơn bốn tiếng một chút. Hôm qua Stella trực ca đêm, 7 giờ hơn mới về nhà, đến 8 rưỡi thì mệt quá nên thiếp đi luôn.
“Liz? Liz!” Cô vừa xuống giường vừa gọi. Giờ này Liz và con cô phải ở nhà chứ? Nhưng Stella gọi mãi mà ngoài phòng ngủ chẳng thấy ai đáp lại, chỉ có tiếng chuông điện thoại đơn điệu vang vọng khắp không gian.
“Chị ấy với Alfred ở trong phòng nên không nghe điện thoại kêu sao?” Stella nghĩ thầm. Thật ra cô thừa biết là không thể. Đóng cửa phòng ngủ mà cô còn nghe thấy, thì dù Liz ở trong phòng hay ngoài ban công cũng phải nhận ra. Cô biết mình hét lớn đến mấy cũng vô dụng, nếu Liz nghe được tiếng mình, thì không lý nào lại không nghe thấy tiếng chuông như gọi hồn kia.
Reng... reng...
Chẳng biết ai gọi mà dai như đỉa thế. Stella xỏ dép lê, mở cửa đi ra phòng khách. Đúng như cô đoán, ngoài này không một bóng người. Cô nhìn đồng hồ lần nữa, đồng hồ treo tường cũng chỉ 12 giờ 46 phút trưa, ánh nắng rạng rỡ xuyên qua ban công chiếu thẳng vào phòng. Stella khó chịu nhấc ống nghe, tiếng chuông ngưng bặt.
“A lô?” Cô bực bội nói, giọng đặc âm mũi vì ngái ngủ.
“Cô là người nhà của Alfred Hill?”
Đầu bên kia là một người đàn ông nói tiếng Anh lơ lớ, Stella nhận ra ngay giọng dân bản địa.
Nghe thấy tên con trai, Stella sực tỉnh, “Vâng?”
“Ở cư xá Nam Thị đường Princess Margaret?” Bên kia tiếp tục.
“Vâng... ơ? Al... Alfred có chuyện gì ư?” Stella căng thẳng hỏi lại. Vừa nhận ra con trai và vú em vắng nhà, rồi đột nhiên có người lạ gọi tới, không chừng thằng bé gặp tai nạn giao thông cũng nên. Sáng nay cô về nhà đúng lúc Liz đang chuẩn bị đưa Alfred đi học. Mặc dù chồng cô bảo, con đã mười tuổi rồi, đường đến trường mất có mười phút, nên dạy con tự lập, một mình đi học tan học, nhưng Stella không đồng tình, luôn cảnh giác với thành phố vừa xa lạ vừa bất đồng ngôn ngữ này, dặn dò Liz theo sát thằng bé. Alfred đang học lớp Bốn, nhà trường chia hai ca sáng chiều, con cô chỉ cần lên lớp buổi sáng, bình thường 12 rưỡi là về đến nhà. Vậy mà bây giờ chẳng thấy nó đâu, người đàn ông bên kia đầu dây còn xác nhận cả tên lẫn địa chỉ, Stella không thể không nghĩ theo chiều hướng xấu.
Bên kia không trả lời thắc mắc của Stella, chỉ hỏi tiếp, “Cô là mẹ của Alfred Hill?”
“Vâng, đúng vậy. Alfred...”
“Cô yên tâm, nó không gặp tai nạn gì hết...”
Stella đang định thở phào, bên kia bất ngờ thốt ra một câu không ai ngờ tới.
“Nhưng con trai cô đang nằm trong tay tôi. Nếu muốn nó bình an trở về, cô phải chuẩn bị tiền chuộc.”
Stella vẫn chưa hiểu tình hình. “Muốn con trai lành lặn thì hãy nộp tiền chuộc” là lời thoại bắt cóc kinh điển trong phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng khi câu này xuất hiện ngoài đời thực, cô không tiêu hóa ngay được.
“Anh đang nói gì vậy?”
“Tôi nói là, Alfred Hill đang ở trong tay tôi, nếu không nhận được tiền, tôi sẽ giết nó. Cô mà báo cảnh sát, tôi cũng giết nó luôn.”
Một cơn ớn lạnh trỗi dậy từ đáy lòng. Stella cảm thấy da đầu tê rân rân, hít thở khó nhọc. Cuối cùng cô cũng hiểu lời đe dọa.
“Anh... anh nói Alfred đang ở trong tay anh?” Dứt lời, Stella quay đầu hét lên với căn phòng trống trải, “Liz! Alfred!”
“Đừng phí công vô ích. Tôi muốn nói chuyện với chồng cô, dù sao chuyện tiền nong vẫn phải do anh ta quyết định. Cô mau gọi anh ta về nhà đi, 2 rưỡi chiều tôi sẽ gọi lại. Đến lúc đó mà anh ta chưa có mặt thì đừng trách tôi không khách sáo.”
“Anh... anh... anh nói láo! Làm sao con tôi lại ở chỗ anh!” Stella cố kìm nén cơn run rẩy, hét vào ống nghe.
“Tốt nhất cô đừng chọc giận tôi. Tôi mà không vui thì chỉ khổ đứa con yêu quý của cô thôi.” Bên kia từ tốn nói, giọng đều đều. “Dĩ nhiên cô có thể không tin, nhưng mà thế thì đừng mong gặp lại con trai... À nhầm, đừng mong gặp lại con trai ‘còn sống’. Để bày tỏ thành ý, tôi có gửi đến cô món quà nhỏ ở chân cột đèn đường ngay trước cổng cư xá Nam Thị. Cô cứ lấy về xem rồi hẵng quyết định có nên liên lạc với chồng hay không.”
Nói đoạn, bên kia cúp máy. Tâm trí Stella trống rỗng, không hiểu đầu cua tai nheo gì. Cô bỏ ống nghe xuống, gọi toáng tên con. Cô chạy vào phòng trẻ, không thấy ai, lại chạy sang buồng vệ sinh, nhà kho, phòng làm việc, phòng khách, nhà bếp, phòng vú em, mọi nơi đều vắng tanh. Cả căn nhà rộng rãi chỉ có mình cô.
12 giờ 50 phút. Ngày thường, lúc này con cô đang ngồi ở chiếc bàn dài trong bếp, ăn bữa trưa do Liz nấu. Thằng bé khá hướng nội, ít cười với cả bố mẹ, nhưng ăn uống thì rất nhiệt tình. Vợ chồng Stella ở Hồng Kông sắp được ba năm nhưng vẫn không quen nổi món ăn Trung Quốc, ngược lại, con cô thích nghi nhanh chóng, còn đặc biệt mê món canh đậu phụ của Liz. Stella nhìn bàn ăn trống trơn, một dự cảm chẳng lành len lỏi trong lòng.
Là trò đùa quái ác chăng?
Đến giờ phút này, cô vẫn cho rằng mấy chuyện như “bắt cóc” không thể xảy ra với gia đình mình. Cô quay lại điện thoại, nhấc ống nghe lên, lật quyển danh bạ bên cạnh, tìm số điện thoại mà cô ít khi gọi.
“Phòng giáo vụ trường tiểu học Quốc tế Anh, Cửu Long Đường...” Cô lẩm nhẩm đọc tên rồi gọi đến số điện thoại viết bên dưới.
“Phòng giáo vụ trường tiểu học Quốc tế Anh xin nghe.” Một giọng nữ nói tiếng Anh rất chuẩn bắt máy.
“Xin chào, tôi là mẹ của cháu Alfred Hill lớp 4A.” Stella hỏi thẳng, “Cháu nhà tôi có phải vẫn đang ở trường không?”
“Chào chị Hill, hiện nay tất cả các lớp đều đã tan học. Tuần kiểm tra đã kết thúc, hôm nay là ngày ngoại khóa nên các em ra về từ 11 rưỡi. Em Alfred chưa về sao?”
“Vâng... đúng vậy.” Stella đắn đo, không biết nên trả lời thế nào.
“Xin chị đợi một lát, tôi sẽ gọi giáo viên chủ nhiệm.”
Trong lúc chờ đợi, Stella nhìn chằm chặp kim giây đồng hồ trong phòng khách. Dường như nó chạy chậm hơn bình thường, mười giây trôi qua mà ngỡ như mấy tiếng.
“Chào chị Hill. Tôi là cô Thẩm, chủ nhiệm lớp 4A.”
“Xin hỏi Alfred đã rời trường chưa?” Stella sốt ruột.
“Em ấy đã rời cổng trường từ 11 giờ 30 phút, chính mắt tôi trông thấy. Em ấy chưa về nhà sao?”
“Vẫn chưa.” Stella nói, giọng thoáng cay đắng, “Hay là đi chơi với bạn nhỉ? Cô có thấy cháu đi cùng bạn học khác không?”
“Tôi nhớ là có mấy em học sinh đến nói chuyện, chắc là rủ đi cùng, nhưng Alfred lắc đầu nên các em ấy lại đi trước...”
“Chị vú em thường đưa đón cháu không đến à?”
“Sao ạ? À, hình như có, mà cũng có thể là không...” Cô Thẩm ngừng một lát, cố hồi tưởng tình hình lúc đó, cổng trường giờ tan học lúc nhúc đông đúc, học sinh của mình còn nhớ được chứ nhớ người khác thì hơi khó. “Nếu Alfred chưa về, có khi nào là do vú em đưa đi đâu không?”
“Không, nếu thế chị ấy đã báo cho tôi, hoặc để giấy nhắn...” Vì tính chất công việc nên giờ giấc của Stella khác với vú em và con trai, có chuyện quan trọng đều ghi giấy nhớ để lại.
“Vậy sao... Chị đã lo lắng như thế, hay là báo cảnh sát đi?”
Nhớ tới lời đe dọa của tên đàn ông, Stella vội kêu lên, “Không không! Đừng... đừng chuyện bé xé ra to, dù sao cũng mới một tiếng. Tôi đoán cháu đi mua đồ với vú em hay gì đó thôi, làm phiền cô, thật ngại quá.”
“À, cũng có thể lắm. Nếu cần, chị cứ gọi tôi. Hôm nay tôi ở trường đến 6 giờ. Nhà chị ở...” Tiếng lật giấy sột soạt trong ống nghe, “... cư xá Nam Thị, gần trường, có chuyện gì xin hãy báo với tôi, tôi sẽ đến nơi trong vòng mười phút.”
Stella đoán cô Thẩm đang giở sổ liên lạc. Để tránh nhắc lại chuyện báo cảnh sát, cô nói thêm đôi câu, cảm ơn cô giáo rồi vội vàng cúp máy.
Đặt ống nghe xuống, Stella chỉ biết bàng hoàng. Cô hổ thẹn vì bản thân cứ mải mê với công việc mà ngày càng xa cách con trai, đến cả chuyện hôm nay có hoạt động ngoại khóa cũng không biết. Mặt khác, cô thấy xa lạ với tình cảnh phi thực tế này. Cô hoang mang không biết nên làm gì. Gọi điện thoại cho chồng? Hay gọi lại trường học, nhờ giáo viên giúp đỡ?
Cô nhớ lại giây phút bắt gặp con trai ở tiền sảnh sáng nay. Hình như Alfred vui vẻ hơn thường ngày. Nó luôn tỏ ra miễn cưỡng mỗi khi đi học, đôi lúc còn làm mình làm mẩy, nhưng hồi sáng lại đặc biệt phấn khích. Đúng như tên gọi, ngày ngoại khóa là ngày hội trường với các hoạt động vui chơi là chủ yếu. Học sinh không cần ngồi học bài trên lớp, mà được tham gia nhiều hoạt động phong phú ngoài sân hoặc trong phòng thể dục, như thi đấu thể thao, xem phim hay biểu diễn ca nhạc. Stella cứ tưởng con trai không có hứng thú với mấy thứ đó, nhưng nhớ đến má lúm đồng tiền của Alfred hồi sáng, cô không khỏi nghĩ mình vẫn chưa làm tròn trách nhiệm của người mẹ.
Stella nhấc ống nghe lên, định gọi cho chồng thì bên tai lại như vang lên mấy lời cuối cùng của tên đàn ông.
“Tôi có gửi đến cô món quà nhỏ ở chân cột đèn đường ngay trước cổng cư xá Nam Thị. Cô cứ lấy về xem rồi hẵng quyết định có nên liên lạc với chồng hay không.”
Mặc dù đã quay được hai số, Stella vẫn đặt ống nghe xuống và đi ra ban công. Ban công nhà cô nhìn thẳng ra cổng chính cư xá, bên dưới là bãi đỗ xe ngoài trời, vườn hoa, hàng rào và đường cái. Dưới chân cột đèn đặt thứ gì thì cô sẽ thấy ngay.
Vừa bước ra, ánh nắng chói chang khiến Stella không mở nổi mắt, mấy giây sau mới nhìn quen. Cô vịn vào lan can, nhoài người cẩn thận quan sát từng cột đèn trên phố. Trông thấy cột đèn thứ hai bên phải ngoài hàng rào cổng chính, cô thảng thốt.
Dưới chân cột đèn có một thùng các tông màu cà phê.
Ban đầu Stella còn thoáng nghĩ “Chỉ là trò đùa tai quái mà thôi”, nhưng cái thùng kia đã quét sạch suy nghĩ đó. Cư xá Nam Thị thuộc khu dân cư cao cấp của Cửu Long Đường, phố xá luôn gọn gàng sạch sẽ, không có quán hàng rong cũng chẳng có công nhân. Suốt ba năm sống ở đây, cô chưa từng thấy ai để đồ đạc linh tinh trên đường. Stella vội xỏ giày, chạy thẳng ra ngoài, cửa cũng không kịp khóa. Cô bấm nút thang máy, nó ì ạch không phản ứng, cô đành chạy xuống bằng thang bộ. Nhà Stella ở tầng bảy, cô bước một lần mấy bậc, chưa đây một phút đã ra đến đường cái.
Quần áo xộc xệch, tóc tai rối bù, cô hổn hà hổn hển chạy qua sảnh lớn, qua cặp mắt tò mò của bảo vệ. Ra đến cột đèn, cô đứng nhìn thùng các tông nọ. Mỗi chiều tầm 20 đến 30 cm, đựng vừa một quả bóng cao su cỡ nhỏ. Nắp thùng chỉ cài hờ chứ không dán băng dính. Stella quan sát thật kĩ, bốn mặt trống trơn không ghi chữ.
Hai tay cô run rẩy nhấc thùng lên, nhẹ bất ngờ, cứ như thùng rỗng. Stella bớt cảnh giác, đánh bạo nâng thùng bàng tay trái, tay phải mở nắp.
Trong thùng đựng một vật chẳng có gì đáng sợ với người bình thường, nhưng Stella thoắt thấy đã thất kinh. Đập vào mắt cô là chiếc áo màu lục nhạt lấm lem, còn lốm đốm vài giọt máu.
Đồng phục tiểu học của trường Quốc tế Anh.
Đặt trên áo đồng phục nhăn nhúm là lọn tóc hung đỏ dài 5 cm buộc chặt bằng dây chun.
Giống hệt màu tóc của Stella.
Từ mặt mũi đến tính cách, Alfred Hill đều giống bố, chỉ có màu tóc là di truyền từ mẹ, giữ lại đặc điểm của dòng máu người Celt(63).
Graham bỏ dở công việc, lòng thấp thỏm suốt quãng đường lái xe về nhà.
Anh biết rõ vợ mình vốn điềm tĩnh, là một y tá luôn tỉnh táo ứng phó dù gặp phải ca cấp cứu nguy kịch đến đâu, nên khi nghe vợ gọi điện, khóc sướt mướt rằng con trai gặp bất trắc, kêu anh về nhà ngay, anh biết tình hình vô cùng nghiêm trọng.
Anh xin nghỉ phép nửa ngày, chứ bình thường, nhất định anh sẽ ưu tiên công việc, tạm trấn an vợ qua điện thoại rồi chờ tan ca mới về nhà xử lý.
Graham là người đầy trách nhiệm, vừa hay, nghề nghiệp của anh lại cần tinh thần trách nhiệm đó.
Hiện anh đang làm trưởng ban điều tra của ICAC.
Graham là người Anh, tên khai sinh là Graham Hill, tên tiếng Hoa là Hạ Gia Hãn. Hồi mới đến Hồng Kông, như bao người nước ngoài khác, anh cũng đặt cho mình một cái tên bản địa. Anh luôn cảm thấy chuyện này thật nực cười, rành rành là người ngoại quốc chữ Hán bẻ đôi không biết, thế mà lại dùng tên tiếng Hoa, trong khi người bản địa lót tót chạy theo trào lưu, đều đặt tên tiếng nước ngoài. Vú em Lương Lệ Bình nhà anh cũng vậy, lấy tên tiếng Anh là Liz, nhưng lại không biết đó là tên tắt của Elizabeth. Hồi Liz mới vào làm, anh thường gọi chị là Elizabeth, chị ngơ ngác không hiểu, phải giải thích mới xong.
Buồn cười hơn cả là, họ tên tiếng Hoa không có phiên âm tương đương với họ của anh, đành phiên “Hill” thành “Hạ”, nghe chẳng thấy điểm chung ở đâu. Một số đồng nghiệp gọi anh là “Mr. Hạ”, gọi hai vợ chồng là “Mr & Mrs Hạ”, vậy mà mỗi ngày anh lại phải gọi vú em người Hoa là Liz. Hồng Kông đúng là mảnh đất thuộc địa kì quặc, thực dân mỗi ngày một đồng hóa với dân bản xứ, còn dân bản xứ thì càng ngày càng ngoại lai trong cả lối sống lẫn văn hóa.
Vợ anh tên Stella, vì tên tiếng Hoa thường chỉ có một hoặc hai âm tiết, nên cô lấy cái tên “Thục Lan”, nghe không giống tên gốc lắm. Alfred con anh cũng vậy, lấy tên là “Nhã Phàn”. Tính ra tên “Gia Hãn” của anh lại phát âm giống tên gốc nhất. Người chọn tên cho nhà anh cam đoan rằng mấy cái tên này đều đẹp và mang ý nghĩa may mắn, Graham chẳng để tâm, anh không phải kẻ mê tín. Đối với anh, phong thủy thuật số của người Trung Hoa chỉ là những thứ không có căn cứ khoa học.
Con người muốn có hạnh phúc thì phải tự giành lấy bằng đôi tay mình.
Graham sinh năm 1938, thuở thơ ấu đã trải qua Chiến tranh Thế giới thứ hai, rồi trưởng thành trong thời kì u ám nhất của nước Anh. Sau khi tốt nghiệp, anh thi vào cảnh sát, công tác tại sở cảnh sát thủ đô, nhờ đồng nghiệp giới thiệu mà quen biết Stella. Hai người kết hôn, đến năm thứ ba thì Alfred chào đời, một cuộc sống hết sức bình thường của viên chức nước Anh. Graham đã nghĩ sẽ tiếp tục cuộc sống ấy, chăm chỉ làm việc đến tuổi nghỉ hưu, rồi cùng vợ tìm một thị trấn nhỏ ở ngoại ô an hưởng tuổi già, đến lễ tết thì vui đùa cùng con cháu. Nhưng anh đã nhầm.
Stella là y tá, kết hôn rồi vẫn đi làm. Nhưng sau khi có con, cô nghỉ việc, ở nhà chăm nom Alfred. Để gia đình có cuộc sống đủ đầy hơn và để bù vào khoản thu nhập của vợ, Graham đầu tư số tiền tích góp nhiều năm vào thị trường bất động sản. Là viên chức có lý lịch sạch đẹp, anh vay tiền ngân hàng để mua nhà rồi cho thuê lại mà không gặp trở ngại gì. Anh tính toán, nếu giá nhà tiếp tục tăng, thậm chí anh có thể nghỉ hưu sớm, cũng không phải trăn trở về học phí đại học cho con sau này.
Nhưng kinh tế nước Anh đột nhiên suy thoái.
Bốn năm trước, tức năm 1973, bất động sản Anh trượt dốc, nhiều ngân hàng tín dụng rơi vào vòng xoáy tài chính, có nguy cơ phá sản. Song song với khủng hoảng dầu mỏ là tình trạng suy thoái lạm phát và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, nền kinh tế không có hi vọng phục hồi trong thời gian ngắn. Do sơ suất, Graham không kịp bán mấy căn nhà trong tay, khách thuê bỏ trốn, anh không trả được nợ nên bị ngân hàng tịch thu nhà ở, toàn bộ tài sản bốc hơi chỉ trong một đêm, không những thế còn nợ ngân hàng một khoản lớn. Để trang trải nợ nần, vợ anh lại theo nghề cũ, nhưng do tỉ lệ thất nghiệp của cả nước tăng cao, lương bổng không được như trước. Vật giá leo thang, mỗi tháng trả nợ xong, số tiền còn lại không đủ tiêu. Mấy tháng đầu hai vợ chồng cứ động viên nhau, từ từ rồi mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng bao lâu trôi qua mà ngày trả hết nợ vẫn xa hút tầm mắt, hai người mất kiên nhẫn, thỉnh thoảng giận dỗi vì vài chuyện lặt vặt, đôi khi còn to tiếng cãi vã. Đứa con trai sáu tuổi nhận thấy bầu không khí trong nhà thay đổi, cứ khép kín dần, nụ cười không còn thường trực trên môi.
Khi hai vợ chồng sắp bị cuộc đời dồn ép đến phát điên, Graham chợt nhìn thấy mục quảng cáo trên báo. Ở mảnh đất Hồng Kông miền Viễn Đông, chính phủ Anh vừa thành lập cơ quan hành pháp chuyên đấu tranh và đẩy lùi nạn tham nhũng, gọi là ICAC, đang cần tuyển viên chức có kinh nghiệm từ mọi nơi. Lương của trưởng ban điều tra bậc một là từ 6 đến 7 nghìn đô la Hồng Kông, tương đương 600 bảng Anh, cao hơn hẳn lương tháng của Graham. Quảng cáo còn nói rõ nếu đi làm sẽ hưởng thêm không ít phúc lợi và trợ cấp, nên sau khi bàn bạc với vợ, Graham quyết định thử đổi đường mưu sinh. Vì làm việc ở sở cảnh sát thủ đô đã tích lũy được kha khá kinh nghiệm điều tra phá án, nên chỉ vài ngày sau khi phỏng vấn, Graham nhận được thông báo trúng tuyển. Cả gia đình bèn thu dọn hành lý, chuẩn bị rời quê nhà thân thương để đi làm trả nợ ở một thành phố châu Á xa lạ.
Trước kia, gia đình Graham không biết nhiều về Hồng Kông, nghe đâu nó là vùng đất đã có hơn trăm năm lịch sử, giờ đang là thuộc địa của Anh, bên cạnh là Ma Cao thuộc quyền quản lý của Bồ Đào Nha. Vì quyết định đến đất khách sinh sống trong thời gian dài nên họ mới bổ sung kiến thức. Đối với họ, các địa danh và tên đường ở Hồng Kông đọc lên đều không xuôi. Tìm hiểu qua sách báo, Graham mới phát hiện ra xứ sở thuộc địa này có một khu vực không thuộc Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long do Anh chiếm được, nhưng Tân Giới là đất cho thuê đến năm 1997 mà thôi. Sau thời hạn đó, nước Anh phải trả Tân Giới cho Trung Quốc, chỉ giữ lại quyền cai trị đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long, nhưng như thế là cắt Hồng Kông thành hai nửa sao? Vấn đề này vẫn đang bỏ ngỏ, chính phủ đôi bên chưa quyết định được phương án giải quyết. Đọc đến đây, Graham nhận ra Hồng Kông suy cho cùng chỉ là mảnh đất đi mượn, bây giờ anh sang đó làm việc tức là tha hương cầu thực, cũng như nhiều người Anh khác mà thôi.
Tháng Sáu năm 1974, Graham dẫn vợ và con trai lặn lội đến Hồng Kông xa xôi. Để mau chóng trả hết nợ, Stella cũng tìm việc tại bệnh viện Cửu Long. Phía bệnh viện nhận thấy kinh nghiệm của cô đáng để các y tá bản địa học hỏi, nên đãi ngộ tương đối khá. ICAC không chỉ giúp Graham xử lý các thủ tục di cư rườm rà, mà còn cấp cho gia đình anh một căn hộ công vụ, đây mới là sự trợ giúp to lớn nhất. Cư xá Nam Thị ở Cửu Long Đường là khu nhà dành riêng cho viên chức bậc cao, là cư xá cao cấp với những căn hộ rộng rãi mang phong cách Anh, nên người phương Tây sẽ không cảm thấy bất an do môi trường sống quá khác biệt. Tuy không phải nhà riêng, nhưng điều kiện sống ưu việt, trị an tốt, hàng xóm toàn là ông chủ lớn người bản địa, nhân viên cấp cao làm việc tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, hoặc thành phần ưu tú của công ty nước ngoài đến công tác tại Hồng Kông.
Việc học hành của con trai cũng khiến vợ chồng Graham vò đầu bứt tóc. Hồi mới bàn về dự định đi Hồng Kông, chính vì chuyện này mà suýt chút nữa họ đã chùn bước.
Hai vợ chồng ở đất khách năm năm hay mười năm cũng không hề gì, vì tình cảnh bắt buộc, đã mắc nợ thì phải theo. Nhưng đối với trẻ con, môi trường sống và học tập thời thơ ấu là tối quan trọng. Họ lo không tìm được trường tốt ở Hồng Kông, con trai không thể kết bạn, ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình trưởng thành. Graham gửi thư hỏi thăm người bạn ở Hồng Kông về trình độ và chất lượng giáo dục bản địa. Người bạn liền nhiệt tình gửi lại cả đống tài liệu và chương trình tuyển sinh của các trường cho anh. Tham khảo xong, hai vợ chồng cũng yên tâm phần nào. Chế độ giáo dục ở Hồng Kông cũng tương tự Anh, còn có trường chuyên nhận học sinh Âu Mỹ, toàn bộ sách giáo khoa, bài tập, ngôn ngữ giảng dạy, thậm chí cả thông báo cho phụ huynh cũng bằng tiếng Anh. Trẻ em người Anh học tập tại Hồng Kông không khác gì tại Anh. Họ chọn cho con một ngôi trường gần nhà, tuy không bề thế lắm, nhưng giáo viên và cán bộ nhà trường đều nói tiếng Anh-Anh lưu loát, thái độ thân thiện tích cực, Graham và vợ thấy khá hài lòng.
Ba năm ở Hồng Kông, gia đình anh chỉ tiêu dè sẻn, nỗ lực ki cóp, trợ cấp và phúc lợi của chính phủ còn nhiều hơn Graham tưởng, cộng thêm tiền tăng ca và lương của vợ, món nợ những tưởng phải bốn, năm năm mới trả hết ai ngờ chỉ hai năm đã giải quyết xong xuôi, năm vừa rồi còn tiết kiệm được một khoản kha khá. Vì có bài học nhớ đời trước đây nên hai vợ chồng đã thấm nhuần đạo lý dành dụm, không dám bỏ tiền ra đầu tư nữa mà phần lớn đều gửi vào tài khoản tiết kiệm có kì hạn để lấy lãi.
Graham dự định làm việc ở Hồng Kông thêm một thời gian nữa mới về Anh, một là vì lương cao, hai là vì tình hình kinh tế Hồng Kông vậy mà lại tốt hơn Anh nhiều. Mỗi ngày đọc báo, anh không khỏi lắc đầu thở dài trước tin tức xã hội nơi quê nhà. Mấy năm nay, tỉ lệ thất nghiệp ở Anh không hề cải thiện, số người thất nghiệp vượt quá một triệu, mâu thuẫn giữa chủ thuê và công nhân liên tiếp nổ ra, ngày nào cũng bãi công biểu tình. Trước kia, Vương quốc Anh được mệnh danh là “nơi mặt trời không bao giờ lặn”, còn ngày nay, nó suy tàn tới mức bị gán cái tên khinh miệt “ma đói châu Âu” không khác gì đế quốc Ottoman thế kỉ 19. Thật hoang đường, Graham nghĩ mà chán nản. Hẳn nhiên, anh mừng vì đã vượt đại dương xa xôi đến xứ sở châu Á nhỏ bé này, chỉ sau hai năm đã vực lại kinh tế gia đình, chứ nếu ở lại Luân Đôn có khi đã ly hôn vì bế tắc tiền nong.
Theo lẽ thường, lương bổng hậu hĩnh đồng nghĩa với công việc cực nhọc.
Vừa nhậm chức, Graham đã phát ngộp vì nội dung công việc và số lượng vụ án. Lúc ủy ban mới thành lập, ngày nào cũng có vô vàn thư tố cáo nặc danh gửi về, mà hầu hết là tố giác cơ quan chính phủ. Các vụ án không hẳn là nghiêm trọng, số tiền cũng không lớn, nhưng phạm vi và mức độ ảnh hưởng lại khiến Graham kinh hoàng. Các hàng quán nhỏ mỗi ngày đều phải nộp vài đô cho cảnh sát tuần tra, gọi là “tiền trà nước”. Bệnh nhân nằm bệnh viện công nếu không bồi dưỡng lao công tạp vụ thì bị bỏ mặc, không được phục vụ chu đáo. Hầu như tất cả các cơ quan nhà nước đều có chung tình trạng. Chính quyền Hồng Kông thành lập ICAC cũng là do nhu cầu bức thiết, nếu không xã hội càng phát triển, tham ô nhỏ sẽ càng biến tướng thành tham nhũng lớn, ăn mòn chế độ, chờ khi ấy mới can thiệp thì đã quá muộn.
Đối với người mù tịt tiếng Hoa như Graham, công việc này khó khăn khôn cùng. Một số vụ án liên quan tới văn hóa và tập tục nơi đây, lúc mới tiếp xúc anh không hiểu gì nên thấy mơ hồ. Tuy nhiên, ICAC coi trọng kinh nghiệm làm việc của anh, nhận anh vào cốt để chỉ đạo nhân viên người bản địa, dạy họ cách điều tra, thu thập bằng chứng, khám xét theo trình tự phù hợp với pháp luật để đưa những kẻ tham ô hối lộ ra trước tòa. Khi ICAC được thành lập, đội ngũ có kinh nghiệm nhất đương nhiên là Cảnh sát Hoàng gia Hồng Kông. Nhưng cảnh sát tham nhũng chẳng thua ai, chính họ cũng là đối tượng bị điều tra, nên ICAC đành chiêu mộ người mới về đào tạo từ đầu. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu giúp Graham được tuyển dụng.
Ba năm qua, công việc của Graham luôn đầy rẫy thách thức.
Nạn tham nhũng của cảnh sát Hồng Kông luôn là vấn đề nhức nhối. Cảnh sát là đội ngũ đối đầu trực diện với tội phạm, dính vào tham nhũng sẽ làm mất trị an. Từ khi Hồng Kông mở cửa thông thương, tội phạm và xã hội đen đã quen dùng tiền bôi trơn, việc nhân viên hành pháp mắt nhắm mắt mở cho qua đã thành thông lệ, không cần biết là hoạt động trái phép gì, chỉ cần có tiền là mọi sự khắc suôn sẻ. Cảnh sát vẫn càn quét các tụ điểm cờ bạc, mại dâm hay buôn bán ma túy, nhưng không phải vì muốn dọn sạch cái ác, mà để thu tiền đen. Tiền đồng nghĩa với giấy thông hành, tội phạm sẽ không bị cảnh sát sờ gáy trong một thời gian nhất định. Để cảnh sát có cái báo cáo lên trên, lâu lâu xã hội đen lại bố trí mấy tên tự nguyện ngồi tù, ngay cả vật chứng cũng dâng lên luôn. Dĩ nhiên, số ma túy và tiền bài bạc này còn lâu mới bằng lượng lưu thông thực tế, chỉ như hạt cát trong sa mạc mà thôi. Vì cảnh sát tiền tuyến không dốc sức chấp hành nhiệm vụ nên các lãnh đạo cấp cao đều chẳng hay biết tình hình trị an ngày một xuống dốc, cứ tưởng cảnh sát khu vực đều nỗ lực diệt trừ tội phạm.
Đã gia nhập đội ngũ cảnh sát, người bản tính chính trực cũng phải cúi đầu. Nội bộ ngành vẫn rỉ tai nhau, hối lộ như một chiếc xe, anh có thể “lên xe” để chia phần, không muốn thì thôi, nhưng tuyệt đối chớ xen vào việc kẻ khác, đấy gọi là “chạy theo xe”, còn nhất quyết đòi tố cáo tức là “chắn mũi xe”, cuối cùng bị xe cán, mình mẩy thương tích, tự hại cái thân. Ai không biết lượng sức, loi nhoi ngăn cản chiếc xe này, không bị trừng trị thì cũng bị bỏ xó, bị cô lập bài xích, cũng đừng mơ đến hai chữ “thăng tiến”.
Thật ra cảnh sát vẫn có ban chống tham nhũng, nhưng tự điều tra người của mình khó tránh liên quan thân sơ này khác nên không đạt hiệu quả rõ rệt. ICAC ra đời chính là để phá vỡ cục diện bế tắc đó. Ủy ban thuộc quyền quản lý trực tiếp của thống đốc Hồng Kông, làm việc độc lập, sẵn sàng phanh phui mọi cơ quan và đối tượng dính líu đến các vụ tham nhũng.
Năm đầu tiên nhậm chức, Graham đã truy tố không ít nhân viên cảnh sát nhận hối lộ, cùng đồng nghiệp hợp sức ngăn chặn nhiều vụ giao dịch ngầm. Sang năm thứ hai, họ khám phá ra càng nhiều vụ có cảnh sát cấp cao nhúng tay, như trường hợp cấp trên chỉ thị cho cấp dưới cùng tham ô, bao che tội phạm. ICAC điều tra hết sức tỉ mỉ, phân biệt rạch ròi thư tố giác với thư vu cáo. Một số tội phạm thường dùng cái cớ chỉ điểm “cảnh sát đen”, mong được giảm hình phạt, khi đó ICAC phải đối chiếu xem lời chỉ điểm có căn cứ không. Dù mù tịt tiếng Hoa, nhưng Graham từng nói “lưu manh trên toàn thế giới không khác nhau là mấy”, tội phạm có nói dối hay không, các chi tiết trong lời khai có mâu thuẫn hay không, lòng anh đều hiểu rõ.
Hiện nay, nhóm do anh quản lý đang theo đuổi một vụ. Anh tưởng nội tình không khác những lần trước, nhưng khi điều tra mới thấy quy mô của nó bành trướng hơn bất cứ vụ nào trong quá khứ.
Mùa xuân năm ngoái, tức tháng Tư năm 1976, đội chống buôn lậu(64) của Sở Công thương tìm ra một lô ma túy tại tòa nhà cao tầng gần chợ hoa quả Du Ma Địa(65), bắt được một con lai quốc tịch Mỹ và vài tên tội phạm khác. Bốn tháng sau, cảnh sát liên tiếp càn quét hai mươi ba tụ điểm, tịch thu lô heroin trị giá hơn 20.000 đô, bắt giữ tám nghi phạm, trong đó có trùm buôn ma túy ở khu vực chợ hoa quả. Trong lúc chờ thẩm vấn, tên trùm này chủ động đòi gặp ICAC, nói là muốn tố giác viên chức hành pháp tham nhũng tập thể. Tháng trước, sau khi bị định tội, gã đã chính thức trở thành nhân chứng của ICAC, hỗ trợ điều tra các vụ tham nhũng liên quan.
Gã khai rằng cảnh sát đã nhận hối lộ và cho phép gã buôn bán ma túy. Chi bao nhiêu tiền để được cảnh sát “thả rông”, ngờ đâu mới làm ăn ngót một năm đã bị Sở Công thương tóm cổ. Vì Sở Công thương đích thân ra quân nên ngành cảnh sát phải nghiêm túc chấp hành, cấp trên gây áp lực khiến các cảnh sát nhận hối lộ không thể can thiệp, cuối cùng tội phạm sa lưới hàng loạt. Tay trùm uất quá, rõ ràng đã cống nạp nhiều tiền như thế mà vẫn rơi vào cảnh tù tội. Gã quyết định chết trôi lôi chết đuối, dạy cho đám cảnh sát siêng ăn nhác làm kia một bài học.
Tập đoàn buôn ma túy của gã lưu giữ sổ sách, ghi chép tường tận danh sách cảnh sát và người trung gian nhận hối lộ. Hiềm nỗi, tất cả đều ghi bằng ám hiệu, với lại lúc lấy “giấy thông hành”, gã chỉ biết sơ sơ chức vụ và đơn vị trực thuộc của đối phương. Giờ muốn truy ra danh tính cũng khá lao tâm khổ tứ. Mà ICAC phải đảm bảo truy tố chính xác đối tượng, tình tiết không mâu thuẫn, lời khai phải đủ vững vàng để tòa án công nhận, nên Graham cần kiểm tra tỉ mỉ quan hệ của mọi nhân vật liên đới và quá trình lưu thông của tiền hối lộ.
Vì Graham không đọc được chữ Hán, đồng nghiệp bèn dịch giúp mớ sổ sách của gã trùm sang tiếng Anh, sau đó Graham sẽ dùng phương pháp na ná như nhận dạng chữ để suy luận sâu hơn. Đối chiếu mãi, dần dà anh cũng nhận biết được vài chữ Hán, tiếc là không có tác dụng gì với cuộc sống thường nhật, bởi toàn là chữ viết theo kiểu mã hóa, chẳng hạn “Du hình” nghĩa là “Ban Điều tra Hình sự Du Ma Địa”, “Cửu R” là “Đội Nghiệp vụ Đặc biệt (RSDS) Sở cảnh sát Cửu Long”, “E” là “xe của đội phản ứng nhanh (EU)”... Để làm quen với mấy chữ Hán viết như gà bới, Graham còn mang bản phô tô sổ sách về nhà, vùi đầu nghiên cứu. Tất nhiên anh biết đây là tư liệu nhạy cảm nên luôn cất trong két, đến vợ còn không được xem.
Càng đào sâu, anh phát hiện liên đới càng rộng.
Vụ tham nhũng tập thể này không chỉ khoanh vùng trong cấp phụ tá. Theo lời khai của nhân chứng tố giác và nội dung trong sổ sách, nhân viên hành pháp nhận hối lộ bao gồm người của các sở cảnh sát khu vực và cả Bộ chỉ huy, đến cán bộ cấp thanh tra đổ lên cũng có. Khác hẳn mấy vụ nhỏ như cảnh sát phân khu nhận “tiền trà nước”, vụ này mà ra tay tróc nã thì sẽ tóm gọn mấy trăm cảnh sát, nhổ tận gốc đường dây tham nhũng.
ICAC làm việc kín đáo ba năm nay, dường như là để chuẩn bị cho trận chiến rầm rộ này.
Song, công tác bảo mật của ICAC có tốt đến mấy thì giấy vẫn không gói được lửa. Sau khi tên trùm ma túy chợ hoa quả bị bắt, đội ngũ cảnh sát râm ran bảo nhau “ICAC sắp thịt cảnh sát”. Mà từ hồi thành lập đến giờ, ICAC cũng điều tra cảnh sát không chỉ một lần, thành thử quan hệ hai bên như nước với lửa. ICAC cho rằng cảnh sát thật “thối nát”, mọi thành viên đều là đối tượng tình nghi, cảnh sát thì kêu ICAC “quan liêu”, ngứa mắt ai là tống người đó vào tù, bắt phải làm bạn với đám phạm nhân mà chính họ từng lùng bắt.
Vì lẽ đó, về đến nhà, nắm được tình hình qua lời kể của người vợ đã rơi vào khủng hoảng, Graham khiếp sợ mà vẫn đắn đo, chẳng biết có nên báo cảnh sát hay không.
Nhìn đồng phục dính máu và lọn tóc của con trai, anh biết đây không phải trò đùa. Là nhân viên hành pháp, anh thừa hiểu nghe lời tội phạm, tự mình giải quyết là cách làm ngu xuẩn nhất. Dù không báo cảnh sát, tỉ lệ tội phạm thả người sau khi nhận tiền chuộc cũng chỉ là năm mươi năm mươi. Nếu muốn đọ sức với chúng để cứu con về, thì có cảnh sát hậu thuẫn vẫn an toàn hơn cả. Hồi ở Anh, Graham từng chứng kiến cảnh sát giải cứu con tin khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc, tội phạm định nhận tiền chuộc xong sẽ thủ tiêu con tin, may sao cảnh sát bám theo kẻ đi lấy tiền nên tìm được hang ổ của hắn.
Nhưng khi biết anh là người của ICAC, liệu cảnh sát có làm việc qua loa tắc trách không. Không, qua loa tắc trách còn đỡ, sợ nhất là họ lấy việc công trả thù riêng, “vô tình” gây trở ngại, hại chết con anh. Anh ngẩn người trước điện thoại, nội tâm tranh đấu dữ dội. Trên sofa đằng sau, Stella suy sụp, tay giữ chặt nắm tóc, sụt sùi khóc.
Từng giây từng phút trôi qua, đồng hồ báo thức hiển thị 1 giờ 30 phút chiều. Graham trân trối nhìn chiếc áo đồng phục lấm bẩn, nghĩ đến cảnh con trai bị bọn bắt cóc lột áo, giờ đang bị nhốt trong phòng tối, ăn mặc phong phanh, vừa sợ hãi vừa hoảng loạn. Anh nhấc ống nghe lên, cuối cùng cũng phải quyết định. Dù cảnh sát có hiềm khích với ICAC, lúc này anh vẫn nên cầu cứu họ.
Không còn lựa chọn nào khác.
Trong khoang xe chật chội, Mạch cầm vô lăng, hỏi mà không quay đầu lại, “Lần này sếp đích thân xuất trận ạ?”
Quan còn chưa trả lời, cảnh viên Từ ngồi cạnh đã chen ngang, “Án bắt cóc cần tranh thủ từng giây, tính mạng con tin như chỉ mành treo chuông, đương nhiên phải để cánh chim đầu đàn của chúng ta ra tay rồi.”
Quan, 30 tuổi, chẳng nói chẳng rằng, chỉ mỉm cười lấy lệ rồi dõi mắt ra ngoài cửa sổ xe.
Quan hiện đang công tác ở Ban Điều tra Hình sự Sở cảnh sát Cửu Long(66), mấy năm qua đã phá nhiều vụ án, hiệu suất cực kì cao, được cấp trên rất mực coi trọng, hồi đầu năm mới nâng bậc từ thanh tra lên thanh tra cấp cao. Làm thanh tra ở sở cảnh sát khu vực là mục tiêu của không ít người, Quan chưa đến ba mươi đã công toại danh thành, ai nấy đều ngưỡng mộ. Cố nhiên vẫn có kẻ ganh ghét, chửi thầm anh là chó săn của thực dân, mới sang Anh tập huấn hai năm đã quên mất gốc gác Trung Hoa. Còn có người giễu cợt rằng chẳng qua anh ăn may, lọt vào mắt xanh của cấp trên người Anh trong cuộc bạo động mười năm trước nên mới có cơ hội thăng tiến. Có điều, bất kể là hâm mộ hay ghen tị, không một ai trong đội ngũ cảnh sát dám nghi ngờ năng lực của Quan, về mặt điều tra phá án, anh thực sự có tài, đặc biệt là từ năm 1972, tập huấn trở về, anh ngày càng thể hiện xuất sắc.
Chiếc xe chở Quan và ba cấp dưới thẳng tiến đến cư xá Nam Thị. Trinh sát Mạch Kiến Thì đang cầm lái là người trẻ nhất, mới 25 tuổi, vào ban chưa đầy một năm. Đồng nghiệp thường gọi cậu là “Mạch”, tuy còn ít kinh nghiệm nhưng đầu óc linh hoạt, phản ứng nhanh nhạy, từng đuổi bắt tội phạm qua mười con phố. Ở ghế phụ lái là trinh sát Ngụy Tư Bang 28 tuổi. Ngồi cùng băng ghế sau với Quan là Từ Chân, biệt danh “Lão Từ”. Thật ra Lão Từ chưa già, chỉ mới 36, nhưng mặt mũi trông như đã bốn năm mươi tuổi nên bị gọi là Lão Từ nhiều năm nay rồi.
Quan chọn họ tham gia vụ lần này chủ yếu là vì cả ba đều biết tiếng Anh. Người báo án là người Anh không biết tiếng Hoa, nếu cảnh sát tiếp nhận cũng không biết tiếng Anh thì chỉ riêng phiên dịch thôi đã tốn thời gian, chưa kể trong các vụ bắt cóc, sểnh một cái là có thể khiến con tin mất mạng. Mặc dù báo cáo trong ngành đều viết bằng tiếng Anh, cảnh sát cũng phải có trình độ tiếng Anh nhất định mới được tuyển, song trên thực tế, số cảnh sát biết kiểu nửa vời vẫn nhiều không đếm xuể. Trong ngành có câu chuyện vui thế này, một cảnh sát giao thông không biết tiếng Anh phải viết báo cáo về tai nạn xe cộ, lúc tả lại quá trình hai xe đâm nhau, anh ta viết “one car come, one car go, two car kiss(67)”, thế là bị cấp trên mắng té tát.
“Bang, cậu kiểm tra thiết bị theo dõi điện thoại chưa? Sẽ không trục trặc như lần trước chứ?” Lão Từ hỏi Ngụy.
“Kiểm tra rồi.” Ngụy đáp cụt lủn, giọng bất mãn. Trong nhiệm vụ trước, Ngụy phụ trách quản lý thiết bị, do sơ suất, không để ý cầu chì của một máy nghe trộm bị đứt, đến lúc mấu chốt lại không nghe được cuộc trò chuyện của nghi phạm, thành thử phải mất thêm một tuần mới thu thập đủ chứng cứ và tiến hành bắt giữ.
“Kiểm tra rồi thì tốt.” Lão Từ cố tình trêu chọc, lại nhấn mạnh lần nữa, “Đây là vụ bắt cóc, chẳng may có biến là không làm lại được đâu, mạng người quan trọng lắm đấy.”
Ngụy ngoảnh ra sau lườm Lão Từ, “Em đã kiểm tra ba lần rồi.”
“OK.” Lão Từ bĩu môi, tránh ánh mắt Ngụy, nhìn ra cửa sổ, “Khu dân cư cao cấp có khác, nhìn xem, cư xá nào cũng to đẹp, người lắm tiền nhiều của mới ở được, bảo sao tội phạm nhằm vào mấy đứa trẻ ở đây.”
“Nhưng người báo án lần này là trưởng ban điều tra do ICAC tuyển dụng từ Anh sang, chắc không giàu có gì đâu.” Mạch đang lái xe vẫn xen vào.
“Hừ, ai bảo thế?” Lão Từ ra vẻ khinh bỉ, “Biết Morris ở Thiệu Thị chứ? Nghe nói dòng họ nhà hắn hiển hách lắm, bố với anh đều có nắp chai nước Hà Lan(68), không rõ là nghị viên hay quan chức cấp cao gì. Hắn đến Hồng Kông chẳng qua là để lấy thành tích, vài năm nữa về Anh sẽ vào Bộ Ngoại giao hoặc Cục Tình báo. Theo tôi thấy, con trai cái ông trưởng ban ICAC này bị bắt cóc, chứng tỏ gia cảnh ông ta cũng không thua gì tên Morris kia đâu.”
“Thiệu Thị” là tiếng lóng chỉ Ban Chính trị(69). Do cách viết tắt trong tiếng Anh giống cách viết tắt của hãng phim Shaw Brothers (Thiệu Thị Huynh Đệ), nên người trong ngành mới gọi như vậy. Nhìn bề ngoài, Ban Chính trị nằm trong tổ chức cảnh sát, nhưng thực tế lại trực thuộc Cơ quan An ninh MI5, đảm đương công tác tình báo và chống phá gián điệp. Đối với cảnh sát bình thường, lai lịch của thành viên Ban Chính trị đều là ẩn số, hành tung bí ẩn, phá án xong lâu rồi người ngoài mới nghe ngóng được chút tình tiết nhỏ lẻ. Morris là quan chức cảnh sát cấp cao của Ban Chính trị, có bố và anh trai làm việc cho chính phủ Anh, được trao huân chương danh dự mà người Hồng Kông vẫn gọi vui là nắp chai nước ngọt. Thật ra họ chẳng giàu có gì, chỉ là nhiều người thường định kiến, ràng cứ đảm nhận chức vụ quan trọng trong chính phủ hoặc là quan chức có quyền lực thì tự khắc có cách kiếm tiền.
“Đến lúc khó khăn, mấy tên chống tham nhũng vẫn phải dựa vào chúng ta đấy thôi.” Ngụy xì một tiếng trách móc. “Tối ngày bày trò gây khó dễ, làm cả ngành cảnh sát nơm nớp lo sợ, bây giờ bị bọn tội phạm để mắt đến thì lại cầu xin giúp đỡ. Đúng là mặt dày vô liêm sỉ.”
“Bang, dù lập trường anh ta thế nào, chúng ta vẫn phải làm tròn chức trách.” Quan im lặng nãy giờ bỗng lên tiếng.
Ba cấp dưới nghe nhắc liền không bàn luận nữa. Mạch tập trung lái xe, Ngụy với Lão Từ chăm chăm ngó ra ngoài cửa sổ. Họ không nhận ra ràng, hôm nay Quan ít nói hơn, tâm sự ngổn ngang hơn thường ngày.
Còn cách cư xá Nam Thị một con phố, Quan bất chợt nói, “Mạch, dừng xe.”
“Dạ? Nhưng chưa đến nơi mà?” Tuy nói thế, Mạch vẫn xoay vô lăng, đỗ xe vào lề đường.
“Chẳng biết lũ bắt cóc có đang theo dõi hay không. Tôi với Lão Từ đi bộ qua đó, hai cậu lái xe đến bãi đỗ đi.” Quan chỉ đạo. “Lát vào cư xá, hai cậu báo với bảo vệ là lên tầng bốn thăm Liêu Hoa Minh trưởng ban Phòng cháy chữa cháy Cửu Long. Tôi với Lão Từ sẽ nói là có hẹn với chỉ huy cấp cao Campbell ở tầng chín. Họ đã biết tin rồi, bảo vệ có gọi điện xác nhận cũng không bị lộ.”
“Sếp, phải giấu cả bảo vệ sao?”
“Ai dám chắc bảo vệ vô can?” Quan vừa nói vừa ra khỏi xe. “Vào cư xá rồi chờ bọn tôi ở hành lang tầng bốn.”
Bốn người chia hai nhóm lần lượt vào cư xá Nam Thị, trên đường đi không gặp trở ngại nào. Mạch và Ngụy đi thang máy lên tầng bốn, đợi chưa đến một phút thì cửa thang máy lại mở ra, bên trong là Quan và Lão Từ. Bốn người đi tiếp thang máy lên tầng bảy, đến cửa nhà Graham.
Đinh đoong. Quan bấm chuông. Mạch đứng trên hành lang nhìn ngó xung quanh, vì cậu chưa đến cư xá dành cho viên chức cấp cao bao giờ.
Cậu sống ở kí túc xá cảnh sát tại North Point, mỗi tầng có hơn mười nhà, vừa chật chội vừa ồn ào, đây thì một tầng chỉ có hai hộ, bốn bề yên tĩnh. Cậu thầm cảm thán, đúng là quá khác biệt.
Cửa mở ra, Quan giơ thẻ lên nói với Graham, “Chào anh, tôi là thanh tra hình sự Quan Chấn Đạc của Sở cảnh sát Cửu Long.”
Quan nói tiếng Anh-Anh trôi chảy. Ba cấp dưới đứng bên cạnh nhủ bụng, quả nhiên là người từng ra nước ngoài, chỉ riêng khẩu âm cũng đủ khiến các cấp trên ngoại quốc cảm thấy gần gũi hơn bình thường.
“À... Tôi là Graham Hill, mời vào.” Graham ngớ ra một lát, quan sát bốn người ngoài cửa rồi căng thẳng tránh sang bên.
Trong phòng khách, Stella đã ngừng khóc, nhưng vẫn ngồi trên sofa, vẻ âu sầu, hồn như đã lìa khỏi xác. Quan nhìn quanh một vòng, thấy điện thoại liền ra hiệu cho Ngụy. Ngụy lập tức xách ba lô đựng đây dụng cụ tiến lại, gắn máy ghi âm và thiết bị theo dõi vào.
“Anh Hill, anh là người báo án đúng không? Phiền anh kể rõ tình hình.” Quan, Mạch và Lão Từ đến ngôi trên sofa dài, đối diện Graham. Quan đọc tên tiếng Anh của Graham, đến cả âm cuối “L” cũng mang chút giọng Anh.
“Vâng, vâng.” Graham ngả người tới trước, “Vợ tôi bị tiếng điện thoại đánh thức lúc 12 giờ 46 phút...”
Graham thuật lại toàn bộ sự việc từ lúc vợ nghe điện thoại, gọi điện tới trường học cho đến khi phát hiện ra đồng phục và tóc. Là cảnh sát dạn dày kinh nghiệm nên anh trình bày rõ ràng mạch lạc, Quan không cần hỏi vẫn nắm được đầy đủ tình hình.
“Kẻ bắt cóc nói sẽ gọi lại lúc 2 rưỡi...” Quan nhìn đồng hồ, 1 giờ 52 phút chiều, còn khoảng bốn mươi phút nữa mới tới giờ. “Nhưng vẫn có khả năng hắn sẽ gọi sớm hơn. Bang, lắp xong máy chưa?”
“Xong rồi ạ, em đang chạy thử, máy vận hành bình thường,” Ngụy đeo tai nghe, ra dấu OK với Quan.
“Mạch, cậu giữ lại đồng phục, tóc và thùng các tông, chưa biết chừng vẫn còn dấu vân tay của thủ phạm hoặc manh mối nào đó. Bảo Phòng Giám định cử người đến lấy, dặn họ cải trang thành nhân viên giao hàng, tránh đánh động thủ phạm, nhiều khả năng hắn đang theo dõi chỗ này.”
“Rõ.”
“Anh Hill, nhân lúc thủ phạm chưa gọi điện, cho phép tôi hỏi vài câu về tình hình gia đình anh.” Quan nghiêm túc nói. “Gần đây gia đình có gặp người nào khả nghi không? Hay có thấy điều gì bất thường không?”
Graham lắc đầu, “Không có. Gần đây tôi khá bận, thường xuyên tăng ca, tối muộn mới về nhà nên không gặp ai cả. Tôi cũng không thấy Stella nhắc đến chuyện gì bất thường.”
Graham quay sang lay cánh tay vợ, “Stella, sếp Quan muốn hỏi em gần đây có phát hiện ai hay việc gì bất thường không.”
Stella hoang mang ngẩng lên, đảo mắt qua mấy cảnh sát trước mặt, đoạn cắn môi lắc đầu với vẻ khổ sở, “Không có... không có gì cả... Nhưng đây là lỗi của tôi...”
“Lỗi của cô?” Quan hỏi.
“Mấy năm nay tôi chỉ cắm đầu vào công việc, không chăm sóc Alfred tử tế, đùn đẩy mọi trách nhiệm cho vú em... Lẽ nào Chúa muốn trừng phạt tôi vì không làm tròn nghĩa vụ của người mẹ? Sáng nay tan ca về nhà, tôi cũng chẳng nói được mấy câu với Alfred... Chúa ơi, tôi đúng là bà mẹ tồi...”
“Không, không phải lỗi của em, anh cũng ít quan tâm đến con...” Graham ôm vợ, để cô tựa đầu vào lòng.
“Anh Hill, ngoài vú em còn ai khác thường xuyên ra vào nhà anh không?” Quan hỏi thẳng.
“Còn một người giúp việc làm theo giờ, bác ấy đến dọn dẹp hai ngày mỗi tuần.”
“Tôi muốn có thông tin về người giúp việc và vú em, phiền anh cung cấp tên tuổi và địa chỉ của họ.”
“Sếp Quan, anh... nghi ngờ họ có liên quan đến vụ án?”
“Trong các vụ bắt cóc, tất cả những người thường xuyên tiếp xúc với nạn nhân đều là đối tượng tình nghi, nhất là người giúp việc không có quan hệ máu mủ.”
Graham định phản bác, nhưng không mở miệng nổi. Anh biết Quan nói đúng, nhưng xét về mặt tình cảm, anh không tin người giúp việc dáng vẻ hiền lành ấy lại có thể hại con mình.
“Tôi không nghĩ họ làm hại Alfred. Nhưng để thu hẹp phạm vi điều tra, tôi vẫn sẽ cung cấp thông tin của họ cho anh.” Graham đứng dậy, mở ngăn kéo trong phòng làm việc, lấy một quyển sổ rồi trở lại phòng khách.
Graham mở sổ ra đọc, “Vú em... Lương Lệ Bình, tên tiếng Anh là Liz, 42 tuổi.”
“Bình à... chữ ‘Bình’ nào?” Quan vừa ghi thông tin vừa hỏi.
“Chữ này.” Graham cho Quan xem trang sổ.
“Bên dưới là địa chỉ và số điện thoại của chị ấy?”
“Đúng vậy.”
Quan, Lão Từ và Mạch cùng chép lại thông tin.
“Thế còn người giúp việc?” Quan hỏi.
“Bác ấy tên Vương Đới Đệ, 50 tuổi. Thông tin ở ngay bên cạnh.” Graham chỉ vào phần bên của trang ghi chép.
“Mạch, cậu gọi điện cho người nhà họ xem có manh mối gì không.”
Mạch lập tức bước đến điện thoại, nhấc ống nghe.
“Liz sống một mình, bình thường cũng hay qua đêm tại nhà tôi. Chị ấy có một phòng riêng.” Graham nói. “Danh nghĩa là vú em, nhưng chị còn giúp chúng tôi làm việc nhà, kiêm luôn đầu bếp và quản gia.”
“Một tuần chị ấy ngủ lại đây nhiều nhất mấy ngày?”
“Không cố định, còn tùy vào công việc của Stella.” Graham ngoảnh sang nhìn vợ, “Khi nào vợ tôi trực đêm ở bệnh viện Cửu Long, Liz sẽ ngủ lại cùng Alfred, nhất là những hôm tôi về khuya... Nếu vợ chồng tôi tan sở sớm, chị ấy luôn ra về, nói là không làm phiền gia đình... Hầy, tôi đâu có coi chị ấy là người ngoài.”
“Người giúp việc Vương Đới Đệ thì sao?”
“Tôi không rõ về gia đình bác ấy lắm.” Graham lắc đầu. “Chúng tôi muốn Liz có người đỡ đần nên bảo chị tìm giúp việc làm theo giờ đến quét dọn nhà cửa. Bác Đệ chỉ biết chút tiếng Anh cơ bản, tôi không nói chuyện với bác mấy. Thấy bảo bác đang sống cùng vài ‘chị em’, hình như không định kết hôn.”
“Xem ra là u già Thuận Đức rồi.”
Lão Từ nói xen vào. Ba năm sống ở Hồng Kông, Graham đã nghe đến cụm từ này nhưng chưa bao giờ hiểu ý nghĩa, cứ tưởng là cách gọi những phụ nữ độc thân lớn tuổi làm nghề giúp việc, mà không biết “Thuận Đức” là tên một địa danh ở tỉnh Quảng Đông.
“Sếp, em gọi điện rồi.” Mạch về lại chỗ ngồi, báo cáo, “Nhà Bình không ai nghe máy, bà Đệ thì đang ở nhà. Em giả vờ là người của ủy ban Bảo trợ Xã hội gọi điện hỏi thăm tình hình công tác và hoàn cảnh gia đình, bà ấy trả lời đầy đủ mà không mảy may nghi ngờ. Em cho rằng bà Đệ không liên quan đến vụ này.”
“Nếu vậy, chị Bình sẽ là đối tượng tình nghi.” Lão Từ nói. “Con trai anh Hill mất tích, đáng lẽ vú em chuyên đưa đi đón về phải phát hiện ra đầu tiên và báo ngay cho ông bà chủ, đằng này đến giờ vẫn chưa về nhà chủ, cũng không về nhà mình. Có khả năng chị ta chính là đồng bọn với kẻ bắt cóc, một khi ra tay thì không cần dùng thủ đoạn vẫn có thể bắt đứa bé đi mà không gây chú ý.”
“Chị ấy sẽ không...” Lời Lão Từ khiến Graham nhói lòng, cổ họng nghẹn ứ không thể nói hết câu, vì anh biết Lão Từ chưa chắc đã sai.
“Hoặc Bình đã bị bắt đi cùng đứa bé.” Quan bình tĩnh tiếp lời. “Còn trong trường hợp xấu nhất, chị ấy đã bị giết hại. Bọn bắt cóc chỉ cần đứa bé da trắng, vú em lớn tuổi da vàng căn bản không có giá trị.”
Graham thảng thốt. Sau khi sự việc xảy ra, anh mải lo lắng cho an nguy của con mà không đoái hoài đến Liz. Điều Quan nói có thể là sự thật. Có trời mới biết vết máu dính trên áo đồng phục là của đứa trẻ hay của vú em.
“Gần đây Bình có biểu hiện gì đáng ngờ không?” Quan hỏi.
“Không...” Graham chợt ngừng lại.
“Anh nhớ ra chuyện gì rồi sao?”
“Cũng không có gì quan trọng. Chỉ là nửa tháng trước, có hôm tan làm về nhà, tôi vừa tắm xong thì thấy Liz đứng trước cửa phòng ngủ vợ chồng tôi. Chị ấy nói đánh mất hóa đơn mua hàng nên đoán nó rơi trong này. Liz hiếm khi vào phòng ngủ chính, chí ít chưa từng bước vào khi tôi có nhà.” Vẻ mặt Graham có phần phức tạp, “Tôi nghĩ, phải chăng chị ấy định ăn trộm tiền. Nhưng tôi kiểm tra ví không thấy thiếu tờ nào. Sau đấy, Liz bảo đã tìm thấy hóa đơn ngoài ban công, tôi mới nhận ra là mình đa nghi.”
“Vậy là vú em này khả nghi thật?” Lão Từ nói.
“Không, không phải,” Graham vội vàng phủ nhận. “Vì sếp Quan hỏi nên tôi mới nhớ ra chi tiết nhỏ này. Liz rất ân cần với Alfred, không đời nào có chuyện chị ấy làm tổn thương thằng bé.”
“Kể cả thế.” Quan đứng dậy, “Chúng tôi kiểm tra phòng vú em được chứ?”
“Xin mời.”
Graham dẫn Quan đến phòng Liz. Lão Từ và Mạch cũng đi theo, Ngụy ở lại trực điện thoại. Căn phòng không rộng lắm, đồ đạc cá nhân chẳng nhiều nhặn gì, chỉ có vài bộ quần áo và đồ dùng hàng ngày, vô giá trị với việc điều tra.
Mọi người về lại phòng khách, im lặng chờ điện thoại của kẻ bắt cóc. Quan không hỏi han nữa, chỉ trầm tư ngồi trên sofa. Mạch với Lão Từ thỉnh thoảng đi loanh quanh trong phòng cho không khí bớt nặng nề. Họ không lại gần cửa sổ vì e ngại có kẻ theo dõi. Chẳng may tên bắt cóc biết cảnh sát can thiệp, hắn lại bỏ dở kế hoạch và giết luôn con tin không chừng.
Trong lúc chờ đợi, hai nhân viên Phòng Giám định đã đến lấy vật chứng. Họ mặc quần yếm công nhân, đeo găng tay, đẩy xe đẩy chở thùng các tông lớn trông như tủ lạnh, thật ra là thùng rỗng. Mạch đưa vật chứng cho họ, bỏ vào thùng các tông để ngụy trang, rồi lại đẩy xe đi. Người ngoài nhìn vào dễ tưởng là nhân viên giao hàng sai địa chỉ nên đành mang về.
Mạch tình cờ trông thấy kỉ niệm chương của ICAC treo trên giá cạnh tiền sảnh, là món quà cấp trên trao tặng Graham vào năm làm việc thứ hai vì công lao phá nhiều vụ tham ô. Cậu thầm nghĩ, người khác nhìn cảnh này chắc sẽ thấy khó tin. Trưởng ban điều tra của ICAC đang đứng cùng một phòng, kề vai chiến đấu với cảnh sát, cứ như chó mèo hoang hợp sức chống lại sói dữ, chứ bình thường chó mèo đã lao vào cắn xé nhau từ lâu rồi.
Reng...
Chuông điện thoại lanh lảnh bỗng vang lên phá vỡ sự im lặng. 2 giờ 30 phút chiều, đúng như đã báo trước.
“Cố gắng kéo dài thời gian, lâu một chút mới xác định được vị trí người gọi.&r