Chương 6 BORROWED TIME
Tôi không biết tại sao Hồng Kông lại ra nông nỗi này.
Bốn tháng trước, tôi không ngờ thành phố của chúng tôi sẽ tan tác như bây giờ.
Đứng lặng giữa ranh giới điên cuồng và tỉnh táo.
Ranh giới này ngày càng mờ nhạt. Dần dà, chúng tôi chẳng còn phân biệt nổi lý trí với cảm xúc, chính nghĩa với tội ác, đâu là đúng đâu là sai.
Có lẽ, chúng tôi chỉ còn nước cầu xin bình an. Sinh tồn trở thành lý do và mục đích sống duy nhất.
Nực cười làm sao!
Hoặc là, tại tôi nghĩ ngợi quá nhiều. Tôi chỉ là thằng nhóc chưa đầy hai mươi, không đủ tư cách và chẳng có năng lực để ôm đồm mấy lý lẽ thâm thúy đó.
Mỗi lần tôi đề cập với anh hai về các vấn đề xã hội, anh đều cười nhạo, “Vắt mũi bỏ miệng chưa xong, quan tâm đến mấy đạo lý xa vời làm gì?”
Anh ấy nói đúng.
Anh hai hơn tôi ba tuổi, nhưng chúng tôi không phải máu mủ, chỉ là đôi “anh em cùng khổ” quen biết nhiều năm, hiện đang thuê chung một phòng ván gỗ(78) nhỏ, hoàn cảnh y như hai kẻ nghèo kiết xác lăn lộn vì sinh kế trong bộ phim điện ảnh Anh em cùng khổ(79) do Hồ Phong và Tạ Hiền đóng chính chiếu mấy năm trước. Họ là Ngô Tụ Tài và Chu Nhật Thanh(80), mỉa mai thay đều khố rách áo ôm, ngày ngày phải nghĩ cách lừa người để kiếm bữa cơm. Chúng tôi tuy không đến mức túng quẫn, nhưng ngoài chỗ ở tạm bợ và rau cháo đạm bạc chống đói thì không dành dụm nổi đồng nào.
Bố mẹ mất sớm, chưa hết trung học tôi đã phải đi tìm việc. Mấy năm qua tôi làm thời vụ cho nhiều nơi, nhưng kể từ bạo động tháng Năm(81), kiếm việc còn khó hơn trước. Mọi công đoàn đều hô hào bãi công và đấu tranh, muốn làm công nhân bình thường cũng cực kì chật vật. Độ này tôi chỉ trông tiệm tạp hóa hoặc làm chân chạy hộ chủ nhà để kiếm tí tiền tiêu vặt.
Chủ nhà họ Hà tên Hi, tuổi chừng năm mươi đến sáu mươi, cùng vợ kinh doanh Tạp hóa Hà Hi nho nhỏ trên đường Spring Garden ở quận Loan Tể. Tôi chẳng nhớ tên bà Hà, mà thật ra, nếu không phải ngày nào cũng thấy dòng chữ to đùng trên biển hiệu thì chắc tôi quên luôn cả tên đầy đủ của ông Hà, vì tôi chỉ gọi họ là “bác” hoặc “bác Hà”.
Tiệm nằm ở tầng một của ngôi nhà bốn tầng, tầng hai là nơi ở của hai vợ chồng. Vì con cái chuyển ra ngoài sống đã nhiều năm, ông bà Hà bèn chia ngôi nhà rộng rãi thành mấy gian nhỏ rồi cho những người trẻ tuổi độc thân như chúng tôi thuê.
Mặc dù trọ ở đây đông thì lạnh hè thì nóng, nhiều muỗi lại còn phải chung chạ nhà bếp vệ sinh, sáng nào cả lũ cũng bâu xâu chen trước chen sau, nhưng vì giá thuê rẻ nên tôi không phàn nàn gì, thậm chí còn thấy may mắn hơn nhiều người. Ông bà Hà đều tốt tính, chưa bao giờ giục tiền nhà, ngày lễ tết còn mời chúng tôi ăn cơm. Trông bề ngoài thế thôi, chứ tôi đoán ông Hà cũng có chút của để dành, không phải lo cơm ăn áo mặc, hằng ngày mở hàng là vì thói quen chứ chẳng bận tâm chuyện lời lỗ.
Ông Hà thường dạy, người trẻ phải có chí lớn, đừng an phận cả đời làm công nhân hay giúp việc cho cửa hàng nhỏ. Tôi hiểu rõ điều đó, anh hai cũng hay dặn có thời gian phải cần cù học, chịu khó giở từ điển cày tiếng Anh, mai sau mới mong mở mày mở mặt. Thỉnh thoảng hải quân Mỹ đến cửa hàng mua bia với nước ngọt, tôi lại thử hỏi đáp bằng tiếng Anh, dù không biết họ có hiểu gì không.
Hằng ngày đọc báo tìm việc, tôi vẫn tấp tểnh mơ đến một con đường. Hay mình đi thi làm cảnh sát? Thường nghe “trai khôn không làm cảnh sát(82)”. Nhưng cứ nghĩ vừa trấn áp lưu manh bênh vực kẻ yếu, vừa có thu nhập ổn định, lập gia đình còn được phân nhà tập thể, thì chẳng phải nghề này rất lý tưởng hay sao? Lại có người nói, làm cảnh sát phải nghe thượng cấp người Anh vênh mặt hất hàm sai bảo. Nhưng đi làm nhân viên văn phòng đã chắc đâu tránh được ông chủ là người nước ngoài. Mấy quan điểm dân tộc chủ nghĩa, tinh thần tự tôn, đặt vào xã hội này đều biến thành rỗng tuếch.
Hiềm nỗi anh hai luôn phản đối ý định của tôi, bảo rằng tính mạng cảnh sát rẻ mạt lắm, chính phủ chi tiền là để mua tử sĩ, cảnh sát chẳng qua chỉ là khiên chắn sống của các quan chức cấp cao người Anh, lỡ chính quyền Hồng Kông gặp sóng gió, cảnh sát sẽ thành những quân cờ để họ vứt bỏ.
Anh hai nói thế, không ngờ lại đúng.
Kể ra, sự cố bắt nguồn từ một tranh chấp rất nhỏ. Hồi tháng Tư, một nhà xưởng ở Tân Bồ Cương, Cửu Long xảy ra xích mích giữa chủ thuê và công nhân. Chủ thuê đặt ra nhiều quy định hà khắc, như không cho công nhân xin nghỉ, thế là bị phản đối. Thỏa thuận không xong, chủ thuê còn tìm cớ sa thải những công nhân đại diện đứng ra đàm phán, cuối cùng sự việc phát triển thành biểu tình. Một bộ phận công nhân tập hợp lại cùng lên án các chủ thuê, thành ra gây cản trở hoạt động của nhà xưởng. Cảnh sát nhận lệnh đi giải tán đám đông, biểu tình liền biến thành bạo động. Công nhân tấn công đội chống bạo động bằng đá và bình thủy tinh, cảnh sát dùng đạn gỗ(83) bắn trả. Chính phủ ban lệnh giới nghiêm buổi đêm toàn Đông Cửu Long. Các tổ chức công đoàn cũng hăng hái tham chiến, đứng lên chống đối chính quyền Hồng Kông. Mâu thuẫn nhỏ giữa chủ thuê và công nhân nhanh chóng biến thành phong trào đấu tranh diện rộng.
Tình hình dần dần mất kiểm soát.
Chỉ trong một tháng, mối bất hòa giữa công nhân và chủ tư bản đã lên đến cao trào, bùng phát thành tranh chấp cấp quốc gia giữa Trung và Anh. Nhận hỗ trợ từ Bắc Kinh, công nhân Hồng Kông thành lập “Ủy ban Đấu tranh của đồng bào Hồng Kông-Cửu Long nhằm phản đối chính quyền Hồng Kông”, gọi tắt là ủy ban Đấu tranh, kêu gọi quần chúng bao vây phủ thống đốc, chỉ trích chính quyền là quân phát xít sát hại nhân dân, đàn áp phần tử bạo động bằng các thủ đoạn độc tài. Các nhà cầm quyền quyết không khoan nhượng, điều động cảnh sát đến trấn áp bạo loạn bằng bom cay, bắt giữ “điêu dân” bằng vũ lực. Để chống đối, công nhân phát động phong trào đình công bãi thị, các trường học cũng bãi khóa, được đông đảo dân chúng hưởng ứng. Đáp trả hành động này, chính phủ ban lệnh giới nghiêm buổi đêm. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã hai mươi năm rồi Hồng Kông mới phải chịu lệnh giới nghiêm.
Đầu tháng Bảy, một nhóm dân đại lục lẻn đến phố Trung Anh thuộc cấm địa Sa Đầu Giác(84) ở biên giới Hồng Kông, khích lệ công nhân Hồng Kông tổ chức mít tinh phản đối. Cảnh sát Hồng Kông trực tại đó nổ súng xua đuổi, không ngờ dân quân tự vệ đại lục bắn trả, hai bên đấu súng ác liệt. Cảnh sát cố thủ đến cùng nhưng đạn dược cạn kiệt, tình thế hết sức hiểm nghèo, khi quân Anh cử chi viện tới thì đã có năm cảnh sát hi sinh vì nhiệm vụ.
“Đại lục muốn lấy lại Hồng Kông trước thời hạn à?”
Tôi còn nhớ, ông Hà đã nói thế khi nghe bản tin qua đài phát thanh ở tiệm.
Có người bảo tôi, hạn thuê Hồng Kông phải ba mươi năm nữa (tức năm 1997) mới hết, nhưng trời biết liệu quân giải phóng có sang đảo để đuổi người Anh đi không. 1997 với 1967 chỉ khác nhau một chữ số thôi mà.
Vài ngày sau trận nổ súng, khắp nơi rần rần tin đồn người Anh chuẩn bị rút lui, bỏ mặc Hồng Kông. Rất nhiều người Anh đang sinh sống tại Hồng Kông, nếu chiến tranh Trung-Anh nổ ra, cảnh sát sẽ biến thành con tốt thí mạng, che chắn bọc lót cho họ bỏ trốn thuận lợi. Trong khoảng thời gian đó, tuy anh hai không nhắc lại chuyện làm cảnh sát, nhưng tôi biết trong lòng anh ấy muốn nói, “Thấy chưa, anh đã bảo mà.”
Gần hai tháng trôi qua, quân đội hai nước cũng không phát sinh xung đột nào, nhưng ý nghĩ “đại lục định giải phóng Hồng Kông” vẫn leo lét trong đầu chúng tôi.
Ngày 22 tháng Bảy, chính quyền Hồng Kông ban hành pháp lệnh tình trạng khẩn cấp, theo đó không chỉ tàng trữ vũ khí, mà có mặt tại nơi chứa vật phẩm cấm hoặc đi cùng người có vũ trang cũng bị khởi tố. Các tờ rơi, tờ báo viết bài mang tính phản động đều bị coi là phạm pháp, cứ ba người trở lên đứng cùng nhau cũng tính là tụ tập trái phép. Trừ mấy tờ báo lớn mà người Anh buộc phải kiêng dè vì có Bắc Kinh hậu thuẫn, mấy tòa soạn nhỏ ủng hộ bạo động đều bị niêm phong, đình bản. Tinh thần pháp trị, tự do ngôn luận... tất thảy đều vô nghĩa.
Chỉ hiềm, sợi một khó xe, tay lẻ khó vỗ, công nhân cũng dùng biện pháp cực đoan để “phản đối Anh, chống áp bức”.
Ban đầu, các phần tử bạo loạn tấn công cảnh sát bằng mìn đánh cá và axit. Sau khi cảnh sát Hồng Kông hợp lực với quân đội Anh dùng trực thăng tập kích các cứ điểm của công nhân và ủy ban Đấu tranh rồi bắt giữ lãnh tụ công nhân, phe bạo động liền chuyển sang đánh bom. Hơn một tháng trở lại đây, đâu đâu cũng thấy bom mìn đủ loại. Vì muốn cảnh sát thêm mệt mỏi, họ dàn trận dứa(85) thật dứa giả khắp các đường phố. Bề ngoài trông chúng không khác nhau lắm, đều là hộp thiếc hoặc thùng các tông, nhưng bên trong, một số là hàng giả chỉ gồm bùn trộn vụn kim loại, nhưng số còn lại là bom thật gây chết người. Những quả bom này không chỉ đặt ngoài cổng cơ quan chính phủ, mà còn giấu ở ga tàu điện, bến xe buýt hay các trường học không ủng hộ bạo động(86).
Đi trên đường cũng có nguy cơ mất mạng hoặc bị thương. Ban đầu tôi còn mủi lòng với công nhân, nhưng giờ quả thật không sao đồng tình nổi. Mấy người nổi loạn nói rằng đây là “dĩ độc trị độc”, là “cực chẳng đã”, muốn đối phó người Anh, hi sinh một chút cũng xứng đáng.
Tôi thực sự không hiểu, làm tổn thương chính những người mình nên đùm bọc thì “xứng đáng” nỗi gì.
Chúng ta là người, không phải kiến.
Khi bầu không khí hoang mang bao trùm khắp chốn, chúng tôi chỉ biết cầu xin ông trời chút bình an.
Đặc biệt, tôi hết sức lo lắng cho anh hai, vì tính chất công việc của anh ấy. Anh hai làm môi giới, chuyên tạo lập quan hệ giữa các công ty để lấy tiền hoa hồng. Anh không có thu nhập cố định, đôi khi thất bát đành sống tạm bằng chút tiền mọn tôi làm công cho chủ nhà, nhưng hễ ăn nên làm ra lại mời tôi đi ăn trà quán, còn lên hẳn tầng ba xa xỉ(87). Ngày nào anh cũng bôn ba khắp Cửu Long và đảo Hồng Kông tìm khách hàng, nên nguy cơ đụng phải bom và biểu tình cao hơn tôi nhiều. Tôi dặn phải cẩn thận, anh lại cãi, “Số bảo chết, muốn tránh cũng chẳng được! Sợ chết thì moi đâu ra tiền, mà không tiền thì chết đói. Đằng nào chả thế, sợ cái gì? Sống trên đời á, có chí làm quan có gan làm giàu!”
Mặc dù không cần lang thang khắp nơi như anh hai, nhưng cũng có lúc tôi phải đi giao nhận hàng thay ông Hà. Để đề phòng nguy hiểm, tôi luôn cảnh giác, quan sát tứ phía, đi trên đường đều chú ý xung quanh xem có người và vật khả nghi không.
Các phần tử bạo động thường dán băng rôn khẩu hiệu ngay tại vị trí đặt bom, giống như câu đối xuân dán trước cổng ngày Tết, vế trái đề “Heo sữa kho quẹt”, vế phải đề “Cầy tơ quay giòn”, hoành phi viết “Đồng bào chớ lại gần”, nhưng tại dùng giấy trắng nên tôi thấy hao hao câu đối viếng đám ma hơn. “Heo sữa” chỉ người Anh, “cầy tơ” chỉ cảnh sát người Hoa tiếp tay cho giặc. Có lẽ đối với phe bạo động, dân Hồng Kông mà sẵn lòng bán mạng cho thực dân Anh thì đều là lũ bán nước phản bội đại nghĩa dân tộc, chẳng khác gì bọn Hán gian thời Nhật Bản xâm lược.
Mà dường như cảnh sát người Hoa còn căm phẫn đám nổi loạn hơn cả cảnh sát nước ngoài. Không chỉ một lần, tôi đã chứng kiến họ dùng biện pháp cứng rắn với người dân.
Trong giai đoạn này, dân thường đều biết đường cẩn thận, tránh rước họa vào thân. Nếu cảnh sát tra hỏi, tuyệt đối đừng phát ngôn phản động, chẳng may sơ sểnh gây chú ý là bị tống vào tù ngay. Trước khi xảy ra Sự kiện tháng Năm, cảnh sát đã có vô số đặc quyền. Ví dụ, hàng hóa của ông Hà hơi lấn ra mặt đường là cảnh sát sẽ viết phiếu phạt, nhưng nếu có lời từ trước rồi gửi tí tiền trà nước cho tuần cảnh, mấy vấn đề cỏn con thế này liền êm xuôi. Từ khi nổ ra bạo loạn, cảnh sát còn có thêm quyền bắt giữ các phần tử: khả nghi, cản trở người thi hành công vụ, chống lệnh giam cầm, tham gia bạo động, tụ tập trái phép... Chỉ cần lời nói của cảnh sát là đã đủ lập thành bằng chứng buộc tội trước tòa.
Không ngờ, việc buộc tội vô căn cứ lại có thể xuất hiện trong xã hội Hồng Kông ngày nay.
Ở đường Spring Garden quận Loan Tể, tôi thường bắt gặp hai tuần cảnh mang số hiệu 6663 và 4447.
Đúng là vừa khéo, tôi ngầm gọi họ là “anh Ba” và “anh Bảy”. Trông anh Ba có vẻ lớn tuổi hơn, chắc là bậc tiền bối. Tháng trước có người phát tờ rơi phản đối chính phủ, thế nào lại bị anh Ba với anh Bảy tóm. Anh Ba chẳng thèm nghe phân bua, tay trái túm lấy cánh tay người kia, tay phải cầm dùi cui nện mấy phát liền, đánh cho người đó vỡ đầu chảy máu. Tôi thấy rõ ràng phạm nhân không hề phản kháng, anh Ba đâu cần nặng tay như vậy, nhưng lúc đó chẳng ai chịu đứng ra làm chứng. Ai dám lên tiếng thì sẽ bị coi là đồng đảng, mắc nạn như nhau.
Mặc dù anh Bảy không can ngăn, nhưng tôi biết anh chính trực hơn anh Ba. Hai người họ thường xuyên đến Tạp hóa Hà Hi mua nước giải khát trong lúc tuần tra. Anh Ba toàn lấy không, ông Hà cũng nói chút tiền lẻ chẳng đáng gì, nhưng anh Bảy luôn gửi tiền đầy đủ. Có lần tôi nói với anh, ông chủ bảo không cần trả, nào ngờ anh đáp, “Tôi không trả tiền, thu nhập của ông chủ cậu sẽ ít đi, chẳng may khiến cậu thất nghiệp, biến thành tội phạm, công việc của tôi càng bề bộn hơn.”
Nghe cái giọng điệu này, hơi giống anh hai.
Dân khu phố đều biết anh Bảy là cảnh sát tốt, phải cái làm việc hơi cứng nhắc, tiền bối bảo gì nghe nấy. Cứ nhìn anh Bảy, tôi lại thấy nghề cảnh sát cũng không tồi. Dĩ nhiên đấy là trước khi xảy ra bạo loạn. Thời buổi sóng gió bão bùng, làm cảnh sát không phải lựa chọn đúng đắn, thực dân Anh đi một cái là “cầy tơ” sẽ bị trù dập ngay, biết đâu anh Ba với anh Bảy lại phải đeo biển diễu phố thị chúng để “đền tội”.
Song, nghe nói sau khi bạo loạn bùng phát, yêu cầu tuyển dụng cảnh sát đã bớt khắt khe hơn nhiều. Một số cảnh sát người Hoa đi theo lời kêu gọi của phe bạo động, không thèm đứng chung hàng ngũ với “phát xít” Anh, tự ý thôi việc. Một số khác lại lo gặp phải tình cảnh tương tự vụ nổ súng ở Sa Đầu Giác, hoặc sợ bị người biểu tình giết trong các cuộc nổi dậy, nên xin từ chức.
Ông Hà sống ở Loan Tể đã lâu, quen biết vài cảnh viên. Nghe họ kể, mấy tháng nay cảnh sát đều không được nghỉ phép, phải chờ lệnh 24/24, đang ở nhà mà nhận được điện thoại cũng phải xuất phát ngay, ngoài làm việc của mình còn phải thay ca cho đội chống bạo động. Để cảnh sát an lòng, chính phủ tăng cho họ ba phần trăm lương, tăng phí làm thêm giờ, thậm chí trợ cấp ăn uống. Ông Hà nói, trong cặp công tác của cảnh viên phát lương có khi chứa đến hàng mấy cọc tiền dày cộp.
Chính phủ dùng tiền để giữ chân cảnh sát, phe bạo động cũng chẳng khác là bao.
Công nhân bãi công, không có thu nhập, không có cơm ăn, tất nhiên cũng chẳng có sức để đấu tranh. Lãnh đạo công đoàn sẽ tiếp tế cho họ một hai trăm đô mỗi tháng(88). Tôi không biết công đoàn lấy tiền từ đâu, nghe đồn đại lục âm thầm gửi vốn làm cách mạng. Tôi chỉ biết, cuộc đối đầu này không đơn thuần là đấu tranh ý thức, mà còn gắn với lợi ích tiền bạc. Có lẽ hiện thực chính là như vậy.
Tin công nhân bãi công nhận được trợ cấp là chính tai tôi nghe thấy. Trong số khách trọ tại phòng ván gỗ nhà ông Hà, trùng hợp thế nào hai hàng xóm của anh em tôi lại theo phe bạo động. Ông Hà có ba phòng cho thuê, tôi và anh hai ở một phòng, sát vách là phóng viên Đỗ Tự Cường, phòng còn lại là Tô Tùng, công nhân dệt may.
Cuối tháng Năm, Tô tham gia bãi công theo lời kêu gọi của công đoàn nên bị chủ thuê sa thải. Dù mất việc, nhưng anh vẫn trả tiền nhà đều đặn. Tôi tò mò hỏi thử thì được biết lãnh đạo công đoàn phát lương cho anh ta, hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt còn được thêm thù lao. Anh ta khuyên tôi gia nhập hàng ngũ, đồng tâm hiệp lực lật đổ ách thống trị của người Anh, còn bảo giờ là cơ hội hiếm có, khi cách mạng thành công, đồng chí nào tư tưởng ngay thẳng, kịp thời phân rõ địch ta sẽ được làm lãnh đạo. Tôi không gạt phăng ngay, chỉ nói cần bàn bạc với anh hai. Tôi đoán nếu mình từ chối, có lẽ sẽ bị anh ta coi là phần tử phát xít, tương lai ra sao cũng khó đoán.
Tô luôn tỏ rõ thái độ kiên quyết, nhiệt huyết tràn đầy. Trái lại, Đỗ giống như “bị ép lên Lương Sơn Bạc”, buộc phải tham gia bạo động. Anh ta vốn là phóng viên mảng tin kinh tế của một tờ báo nhỏ, nhưng vì tòa soạn của anh là một trong những tòa soạn ủng hộ bạo động bị chính quyền niêm phong, nên dẫu chẳng tội tình gì, anh ta vẫn mất việc. Cực chẳng đã, anh ta đành gia nhập đội ngũ đấu tranh, một là vì tiền tiếp tế giúp giải quyết nhu cầu tất yếu của cuộc sống, hai là nếu đấu tranh thành công, tòa soạn mở lại, anh ta sẽ được tuyển dụng lần nữa. Khi kể chuyện này với tôi, mặt anh ta buồn thiu, có lẽ chính anh cũng không tin chính quyền sẽ nhượng bộ, cho phép tòa soạn hoạt động trở lại.
Thời buổi bây giờ loạn lạc như thế đấy. Ngày ngày tôi đều thấp thỏm, sợ anh hai và mình sẽ chết vì bom nổ, hay trị an ngày một yếu kém, chính quyền sụp đổ, xã hội tê liệt, thành phố chìm trong biển lửa. Nhưng ngoài mặt vẫn phải tỉnh như không, cần mẫn dậy trông hàng cho chủ nhà, chào hỏi mấy anh hàng xóm “phe phản động”, bán nước ngọt cho mấy anh cảnh sát “phe phát xít”. Các phát thanh viên lớn tiếng chỉ trích bạo loạn gây họa cho xã hội, phá hoại an ninh, còn các tòa soạn ủng hộ bạo động lại gay gắt lên án cảnh sát quân đội Hồng Kông-Anh điên cuồng hãm hại tổ chức yêu nước. Hai bên đều tự nhận mình là chính nghĩa, dân thường đành bó tay, mặc cho cường quyền và bạo lực xô đẩy.
Trước ngày 17 tháng Tám, tôi cứ ngỡ mình sẽ tiếp tục cuộc sống bí bách này cho đến khi bạo loạn chấm dứt hoặc người Anh rút lui.
Tôi đâu ngờ, chỉ một câu nói tình cờ lọt tai lại khiến bản thân rơi vào nguy hiểm.
“Dứa sẽ không nổ trong lúc vận chuyển chứ?”
Đương lúc mơ màng, tôi bỗng nghe thấy tiếng ai đó nói. Cứ tưởng mình nằm mơ, nhưng định thần lại, tôi mới nhận ra đây là đời thực.
Tiếng nói vang lên bên kia bức vách.
Sáng nay, tủ lạnh ông Hà đặt mua đã được chuyển tới. Chúng tôi loay hoay dọn bia và nước ngọt từ tủ cũ sang, sau đó tôi dùng xe đẩy đem tủ lạnh cũ đến bán cho cửa hàng thanh lý cách đấy năm con phố. Tôi đưa tiền bán tủ cho ông Hà, ông bảo buổi chiều cứ để mình ông trông tiệm, tôi đã chạy đi chạy lại dưới trời nắng cả sáng rồi chắc cũng mệt, cứ về nghỉ ngơi. Hiếm khi ông Hà quan tâm như thế, tôi thấy từ chối cũng không tiện, ăn cơm xong liền về phòng trọ ngủ trưa.
Và tỉnh giấc vì câu nói kia.
Tôi nhìn đồng hồ báo thức, 2 giờ 10 phút chiều, tôi đã ngủ được một tiếng. Người vừa nói chắc là Tô, giọng anh ta the thé, dễ nhận ra. Nhưng rõ ràng căn phòng sát vách là của tay phóng viên thất nghiệp, sao Tô lại ở đó?
“Anh Tô, đừng oang oang lên thế, lỡ bị người ta nghe thấy thì...” Lần này mới là Đỗ thì phải.
“Vợ lão Hà ra ngoài lúc nãy. Lão Hà với hai anh em phòng bên đều đi làm, không ai nghe thấy đâu.” Tô đáp. Bình thường giờ này tôi đều đang trông tiệm hoặc đi giao hàng, riêng hôm nay lại ngẫu nhiên về sớm.
“Nghe thấy thì đã sao? Chúng ta đường đường là con cháu Trung Hoa, làm việc theo tinh thần cách mạng cao cả, không tiếc đầu rơi máu chảy, dù có thất bại, chủ nghĩa đế quốc Anh sớm muộn cũng sẽ chịu khuất phục trước chủ nghĩa xã hội vĩ đại của tổ quốc ta...” Người này nói to, tuy không thấy mặt nhưng tôi thừa sức hình dung ra một bộ dạng đầy căm phẫn. Nếu tôi nhớ không nhầm, anh ta tên Trịnh Thiên Sinh, là đồng chí của Tô Tùng. Tô từng giới thiệu chúng tôi với nhau, bảo rằng Trịnh cũng là công nhân thôi việc ở xưởng dệt.
“Trịnh, chớ nói bừa, đế quốc Anh gian xảo, chúng ta phải hành động cẩn mật, đừng chừa đường cho kẻ địch lợi dụng.” Một giọng nói tôi chưa từng nghe qua.
“Chú Trâu nói chí phải, lần hành động này nhất định thành công, không được phép thất bại.” Tô bổ sung. Tôi không biết “chú Trâu” là ai, nhưng nghe giọng điệu thì chắc là lãnh đạo của ba người kia.
“Tóm lại, Đỗ Tự Cường với Tô Tùng xuất phát từ North Point, tôi sẽ chờ ở cứ điểm này.” Chú Trâu ra lệnh. “Tập hợp rồi, chúng ta tiếp tục tiến hành theo kế hoạch, xong xuôi lập tức giải tán tại bến phà đường Jordan(89).”
“Chi tiết nhiệm vụ là gì ạ?” Giọng Tô.
“Cậu với Đỗ làm mồi nhử, tôi sẽ ra tay.”
“Chú Trâu, chú nói làm mồi nhử nghe thì đơn giản, nhưng chúng tôi vẫn chưa hiểu gì hết.”
“Đến lúc đó tùy cơ ứng biến, tình hình thực tế tôi cũng không dám chắc.” Chú Trâu đáp, “Tôi chỉ cần nửa phút, không khó lắm đâu.”
“Nhưng chúng tôi sẽ thành công nhanh chóng như thế thật sao? Số 1 đâu dễ đối phó...”
“Cậu Đỗ, cậu cứ yên tâm, tôi xác nhận mấy lần rồi, mục tiêu yếu hơn chúng ta tưởng, đó chính là điểm mù. Lũ heo sữa đâu ngờ chúng ta đi nước cờ này, đến lúc bom nổ lại há hốc mồm khiếp hãi trước trí tuệ người Hoa cho mà xem.”
Tôi giật thót, nhận ra mình vừa nghe phải một chuyện không nên nghe. Bốn người phòng bên đại khái đang lên kế hoạch đánh bom. Trời nóng nhưng tôi cứ đổ mồ hôi lạnh, không dám cựa quậy chỉ sợ cái giường cũ kĩ kêu kẽo kẹt, cũng không có gan thở mạnh, nhỡ bọn họ phát hiện ra tôi ở bên này, không biết có giết người diệt khẩu vì đại nghĩa không.
“Phần còn lại phải trông cả vào anh Trịnh rồi.” Giọng Tô nghe đã nhỏ hơn trước. Tôi đoán ban nãy họ ngồi gần vách, giờ đã dịch ra chỗ khác.
“Chủ tịch đã dạy, ‘Hạ quyết tâm, không sợ hi sinh, đẩy lùi mọi khó khăn, giành lấy thắng lợi.’ Tôi luôn ghi tạc trong lòng. Tôi nhất định hoàn thành nhiệm vụ, giáng đòn phủ đầu lên kẻ địch, kiên trì đấu tranh.”
“Trịnh, cậu yên tâm, xong việc rồi, lãnh đạo sẽ không bạc đãi cậu.”
“Khen thưởng với tôi không quan trọng. Dẫu có bị phát xít bức tử, tôi vẫn đấu tranh đến cùng.”
“Nói hay lắm, cậu Trịnh đúng là tấm gương cho đồng bào yêu nước chúng ta.”
“Nhưng...” Giờ là giọng Đỗ, “Liệu gài bom có đúng là cách hay? Lỡ làm hại đến dân thường...”
“Anh Đỗ, anh nói thế là sai rồi.” Tô ngắt lời. “Chủ nghĩa đế quốc chèn ép chúng ta như vậy, chúng ta dùng bom đáp trả chẳng qua là bần cùng bất đắc dĩ.”
Chú Trâu tán đồng, “Đúng, ăn miếng trả miếng, lũ heo sữa bắn chết đồng bào ta, vu cáo người vô tội gây thương tích trong lúc bạo loạn, bất chấp thủ đoạn đối phó với đồng chí phe ta, chúng ta dùng dứa đánh trả, còn xa mới bằng một phần mười sự tàn bạo của bọn phát xít. Chúng ta đánh bom không phải để gây thương tích cho người khác, mà chỉ muốn làm tê liệt quân đội và cảnh sát Hồng Kông-Anh, đây là chiến lược du kích vô cùng thông minh. Nếu muốn sát hại người dân, việc gì chúng ta phải thêm dòng chữ ‘Đồng bào chớ lại gần’?”
“Làm cách mạng không phải là đãi khách... Hi sinh là chuyện thường... Anh Đỗ, anh quên chỉ thị tối cao của lãnh đạo rồi sao? Nếu mất vài người dân mà đế quốc Anh chịu đầu hàng, thì sự ra đi của những người dân đó là xứng đáng. Họ không thiệt mạng vô ích, vì đã đổi máu lấy chiến thắng cho tổ quốc, cảm tử cho đồng bào!” Lần này là giọng nói sang sảng của Trịnh.
Tô tiếp lời, “Đúng đấy. Hãy nghĩ đến Thái Nam bị bắn chết, đến Từ Điền Ba bị đánh gục trong đồn cảnh sát, chúng ta mà không phản kháng, chưa biết chừng người tiêu ma tiếp theo chính là anh hoặc tôi.”
“Nhưng mà...”
“Đừng nhưng nhị nữa. Anh Đỗ, bản thân anh cũng từng lao đao vì vụ đóng cửa tòa soạn. Cầy tơ ngang nhiên xông vào tòa soạn, hành hung phóng viên, gán tội cho các anh. Chẳng lẽ anh không căm phẫn, không muốn báo thù?”
“Cậu nói cũng không sai...”
Ba người kia mỗi người một câu, vùi dập ý kiến của Đỗ.
“Tóm lại, ngày kia là đợt hành động đầu tiên.” Chú Trâu tổng kết. “Tiếng pháo thứ nhất vang lên sẽ gây hãi hùng cho quân Anh. Rồi lần hành động thứ hai, thứ ba sau ba và bốn ngày nữa sẽ khiến đế quốc Anh phải khuất phục. Quân Bồ ở Ma Cao đã nhận thua, lẽ nào ngày tàn của quân Anh còn chưa đến?”
Tháng Mười hai năm ngoái, ở Ma Cao xảy ra xung đột giữa cảnh sát và người dân, chính phủ Ma Cao-Bồ Đào Nha thi hành lệnh giới nghiêm, nhiều người Hoa thiệt mạng giữa súng đạn dẹp loạn, khiến chính phủ tỉnh Quảng Đông phải lên tiếng phản đối. Sau nhiều lần đàm phán, phía Bồ Đào Nha đành “xin lỗi, nhận tội và bồi thường” cho mọi tầng lớp người Hoa kể cả ở phía đại lục. Có lẽ đây chính là liều thuốc kích thích phe bạo động, thấy người Hoa ở Ma Cao “chống quân Bồ áp bức” thành công, họ mới tự bảo nhau ngày đế quốc Anh bại trận cũng cận kề.
“Tô Tùng! Đỗ Tự Cường! Sau hôm nay, chúng ta sẽ ngừng liên lạc cho đến ngày kia, khi bắt đầu nhiệm vụ.” Chú Trâu nói tiếp, “Lúc nào cần, chúng ta sẽ lấy phòng cậu Đỗ làm căn cứ. Nhà tôi đã bị cầy tơ để mắt, không an toàn cho lắm.”
“Chú Trâu ở gần đây, phối hợp với nhau cũng dễ.” Tô vui vẻ nói, “Chú đừng để bầy cầy tơ bám theo đến chỗ này là được.”
“Ha ha, còn lâu tôi mới sơ ý như vậy!” Chú Trâu cười vang, “Cậu tự lo cho mình đi, đừng có chọc vào chúng trước khi hành động.”
“Hừ, rồi sẽ có ngày tôi khiến chúng phải cúp đuôi mà chạy, sau đấy bắt về làm một nồi rựa mận!” Trịnh chửi toáng lên.
“Mọi người đã nắm rõ nhiệm vụ, chúng ta giải tán thôi. Công tác phí đặc biệt đây, các cậu cầm đi. Hai ngày tới ăn ngon vào, uống tí rượu cho thêm can đảm. Trịnh, vất vả cho cậu rồi.”
“Chú không ăn với bọn tôi sao?”
“Tôi đi cùng sợ liên lụy đến các cậu. Tôi về trước nhé, tốt nhất các cậu nên nán lại một lúc hẵng ra ngoài. Chẳng may bị nhìn thấy cũng có thể phủi sạch quan hệ với tôi.”
“Vâng, vâng, chào chú Trâu, ngày kia gặp lại.” Đó là giọng Tô, rồi tiếng mở cửa vọng sang.
Tôi nhẹ nhàng xuống giường, áp tai vào cửa, nghe ba thanh niên tạm biệt chú Trâu. Trên bức vách chắn giữa phòng ván gỗ và phòng khách có cửa thông gió lắp kính mờ, tôi quỳ chếch sang một bên để họ khỏi thấy bóng người qua ô kính. Ba thanh niên không về phòng Đỗ mà ngồi tán gẫu luôn ở phòng khách, bàn xem trà quán nào vừa rẻ vừa ngon, nửa tiếng sau mới ra ngoài.
Chờ họ đi hẳn rồi, tôi mới dám thở phào.
Đoán rằng mình vẫn chưa bị phát hiện, tôi rón rén mở cửa, thò đầu ra nhìn, sau khi xác nhận trong nhà chẳng còn ai, tôi chạy hộc tốc vào buồng vệ sinh. Tôi nhịn tiểu lâu lắm rồi, suýt nữa phải kiếm cái chai để giải quyết.
Trở về phòng, tôi nghĩ tới cuộc trò chuyện nghe được ban nãy. Nếu bây giờ Đỗ hoặc Tô quay lại, tôi có thể bịa là mình mới về, chắc họ sẽ không nghi ngờ. Nhưng tôi không biết phải xử lý thế nào với mấy “thông tin cơ mật” kia.
Chú Trâu nghe giọng chừng bốn, năm chục tuổi, chắc là cán bộ công đoàn. Đỗ, Tô và Trịnh chỉ ngoài hai mươi, nhiệt huyết đầy mình, phẫn nộ bất bình trước hiện trạng xã hội nhưng không có chỗ giải tỏa, đúng là loại người mà phe bạo động đang cần. Lý tưởng của họ là đúng đắn, đều xuất phát từ mong muốn đấu tranh để tiêu diệt bất công, song dùng đến bom vẫn là hành động ngu xuẩn. Chú Trâu kia ăn nói hùng hồn, nhưng theo tôi thấy, cả đám đều là tốt thí, khác gì những kẻ họ gọi là “cầy tơ” đâu.
Quyền lực là thế. Người ở địa vị cao đem lý tưởng, niềm tin và tiền bạc ra lung lạc kẻ dưới bán mạng cho mình. Nếu không sống vì mục tiêu vĩ đại, con người đều an phận cho qua ngày. Cứ thò ra một mồi nhử hấp dẫn, họ sẽ sẵn sàng làm tôi mọi cho ta. Tôi mà nói thế với Tô, hẳn anh ta sẽ phê bình tôi bị quân phát xít tẩy não, tổ chức không đời nào bỏ mặc những đồng bào yêu nước.
Nhưng tôi dám đảm bảo, mấy kẻ đóng vai trò nhỏ nhặt như họ rồi sẽ bị lãng quên. Được chim bẻ ná, được cá quên nơm là lẽ thường xưa nay chưa từng thay đổi. Giả sử cuối cùng quân Anh không rút lui, đám người gây bạo loạn bị chính quyền bắt giữ, sau này ra tù chắc sẽ được đồng đội tung hô là “chiến sĩ bất khuất”, nhưng về lâu về dài liệu có được quan tâm chăm sóc, thu xếp ổn định cuộc sống? Tôi nghi lắm. Càng nhiều người đóng vai phụ thì vai phụ càng không được coi trọng, cứ tưởng mình đánh bom một lần là đã hoàn thành nhiệm vụ vĩ đại, mà đâu biết ngoài kia có hàng trăm ngàn tử sĩ giống mình.
Trong khi quyền lực và của cải luôn nằm trong tay một nhóm thiểu số.
Tối đến, tôi chạm mặt cả Đỗ lẫn Tô. Thái độ của Tô vẫn vậy, vừa gặp đã thuyết phục tôi gia nhập “công đoàn”, nhưng Đỗ lại hơi dè dặt. Vợ chồng ông Hà không nhận thấy gì bất thường, tôi cũng không kể chuyện này với anh hai. Đúng là nói ra sẽ san sẻ bớt nỗi lo, nhưng thế thì bí mật cũng chẳng còn bí mật. Đêm đó tôi ngủ không ngon, cứ nghĩ đến kế hoạch hành động của đám kia là lòng lại bồn chồn thấp thỏm.
Hôm sau, tôi xuống làm việc dưới tiệm như bình thường. Mặc dù đã thay tủ lạnh mới, nhưng phố xá vẫn vắng hoe, người qua lại vẫn thưa thớt, khách mua hàng tất nhiên chỉ lèo tèo. Ông Hà ngồi sau quầy đọc báo, tôi thì ngồi cạnh cửa, vừa phe phẩy quạt vừa nghe radio. Phát thanh viên hôm nay lại lớn tiếng mắng phe bạo động làm đảo lộn trật tự xã hội, là hạng người “vô sỉ bất lương, hạ lưu bỉ ổi”, giọng điệu vừa hóm hỉnh vừa sâu cay, phát huy hết khả năng trào phúng. Tôi cười vu vơ, nhưng đám nổi loạn chắc đang khó chịu lắm.
Khoảng 11 giờ, một người đàn ông đi tới. Trông anh ta quen quen, tôi nghĩ mãi mới nhận ra đây là Trịnh Thiên Sinh, đồng nghiệp của Tô, người có mặt trong “cuộc họp” hôm qua.
Anh ta đặt bốn hào lên quầy, “Một chai coca.”
Tôi mở tủ lạnh lấy coca cho anh ta, thu tiền rồi quay về ghế vờ đọc báo. Mười phút trước, ông Hà nói có chút việc phải ra ngoài, chỉ còn mình tôi trông hàng. Tôi cầm tờ báo ông bỏ lại, mắt liếc Trịnh, tự nhủ có phải anh ta đến tìm Tô. Trịnh đứng trước tiệm, tay trái đút túi quần, người dựa vào tủ lạnh uống coca, mắt hướng về góc phố, bộ dạng nhàn tản. Lạy anh, anh mau uống xong rồi đi đi cho tôi nhờ. Sắp đến giờ anh Ba với anh Bảy tuần tra qua đây, nào ai biết tay này có sinh sự với họ không.
Ý nghĩ đó còn chưa biến mất, bóng dáng hai cảnh sát đã hiện lên trong tầm mắt. Như mọi ngày, họ chậm rãi sóng đôi qua tiệm mì, hiệu thuốc và hàng may nơi góc phố, đến trước Tạp hóa Hà Hi.
“Phiền cậu cho một chai coca và một chai cola(90).” Anh Bảy nói. Như mọi lần, anh đưa ba hào, trả phần của mình.
Tôi lấy trong tủ lạnh hai chai nước ngọt đưa cho họ. Hai người vừa uống vừa nói chuyện, không hề hay biết tôi phát sốt phát rét trước hoàn cảnh hiện tại, bởi kẻ đánh bom cũng đang nhâm nhi nước ngọt ngay bên cạnh họ.
“Sau đây là bản tin 11 giờ.” Radio vang lên giọng đọc ngọt ngào của nữ phát thanh viên. “Phát hiện bom tại tòa án vịnh Causeway, cảnh sát đã phong tỏa đoạn đường, nghiêm cấm các phương tiện và người dân qua lại. 10 giờ 15 phút sáng nay, một nhân viên tòa án thấy trước cổng có vật phẩm khả nghi nên đã báo cảnh sát, hiện đang xử lý, chưa biết là bom thật hay giả.”
Trịnh hơi nhếch mép. Không phải anh ta làm chứ?
“Tin tiếp theo. Rạng sáng nay, tướng Fletcher(91) phó tham mưu Không quân Hoàng gia Anh đã đến Hồng Kông, bắt đầu chuyến thăm kéo dài năm ngày. Buổi chiều ông hội đàm với thống đốc Hồng Kông. Dự kiến ngày mai ông sẽ đến căn cứ Không quân Hoàng gia để thăm hỏi binh lính và dự buổi dạ tiệc do quân đội và cảnh sát Hồng Kông-Anh đồng tổ chức. Tướng Fletcher bày tỏ, ông tán thành ý kiến của trung tướng Carver(92) tổng tư lệnh quân đội Anh tại Viễn Đông, người ghé thăm Hồng Kông mới đây, rằng có ba phòng tuyến quan trọng để duy trì sự ổn định trên mảnh đất này. Thứ nhất là nhân dân Hồng Kông, thứ hai là cảnh sát và thứ ba là quân đội Anh. Nếu cần thiết, quân đội Anh sẽ hỗ trợ chính quyền...”
“Hừ! Lũ heo sữa chết giẫm!”
Vừa nghe lọt tai, tôi tức khắc nổi da gà, hoảng hốt ngẩng đầu nhìn Trịnh. Khuôn mặt anh ta đầy vẻ khinh miệt, chai coca trong tay chỉ còn non nửa.
Anh Ba với anh Bảy đứng ngay gần đó, trợn tròn mắt nhìn.
“Ê, cậu vừa nói gì?” Anh Ba quát.
“Tôi nói gì không phải sao?” Trịnh chẳng buồn quay đầu, tiếp tục uống coca.
“Tôi vừa nghe cậu chửi heo sữa.” Anh Ba lại nói.
“Ồ, tôi thấy màu da anh khá đậm, hóa ra cũng là heo sữa à?” Trịnh không nhân nhượng, quay sang đấu võ mồm với anh Ba.
Dở hơi rồi, tôi nghĩ.
“Buông chai nước xuống, đứng sát tường!”
“Tôi vi phạm điều luật gì? Dựa vào đâu mà anh ra lệnh cho tôi?”
“Tôi thấy cậu du thủ du thực, nghi ngờ tàng trữ vũ khí hoặc vật phẩm cháy nổ nên muốn khám người!”
Trịnh không những không sợ mà còn rủa xả, “Mới nghe người ta chửi một câu đã chuyện bé xé ra to, đúng là đồ cầy tơ!”
“Lũ phản động chết tiệt, có gan nói lại lần nữa xem!”
“Cầy tơ!”
Nhanh như cắt, anh Ba rút dùi cui vung thẳng vào mặt Trịnh. Chai coca trong tay Trịnh văng ra, rơi xuống sàn vỡ tan tành, mảnh thủy tinh vãi tứ tung trên đất. Cả người anh ta chao về bên phải, anh Ba lia dùi cui lần nữa, vụt mạnh vào ngực Trịnh.
Trịnh mất thăng bằng, tay trái rút khỏi túi quần như muốn túm lấy cổ áo anh Ba. Lúc này, tôi lại bị phân tâm bởi thứ khác. Một mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay rơi ra từ túi quần Trịnh, đáp xuống ngay bên chân tôi. Theo bản năng, tôi cúi mình nhặt lên. Nhưng vừa liếc qua chữ viết trên đó, tôi giật mình nhận ra không nên xen vào việc người khác, bèn vội vàng đưa lại cho cảnh sát.
Cũng may người nhận mảnh giấy là anh Bảy, chứ nếu là anh Ba, có lẽ tôi đã bị coi là đồng đảng của Trịnh, bắt luôn về đồn cảnh sát mà không cần nghe giải thích.
Anh Bảy đọc một lượt, nhíu mày, nói nhỏ vài câu với anh Ba vẫn đang bận đánh người, rồi chìa mảnh giấy ra. Mặt anh Ba thoắt biến sắc.
“Điện thoại đâu?” Anh Ba dừng tay, căng thẳng hỏi. Tôi trỏ điện thoại treo trên tường.
Anh Ba còng tay Trịnh mặt be bét máu, bảo anh Bảy trông hộ. Anh ta nhấc ống nghe lên quay số, nói vài câu rồi cúp máy. Một lát sau xe đến, mấy cảnh sát a lô xô nhảy xuống, áp giải Trịnh lên xe. Anh Ba với anh Bảy cũng đi luôn.
Giữa lúc rối ren, chủ tớ mấy cửa hàng lân cận đều thò đầu ra nhìn. Tôi không nghĩ là họ hiếu kì, chẳng qua sợ có bom nên phải xem để biết có cần bỏ chạy hay không. Xe cảnh sát rời đi, hiện trường yên tĩnh trở lại. Dọn dẹp đống thủy tinh vỡ xong, tôi tiếp tục trông quán. Lúc ông Hà về, tôi chỉ báo sơ sơ là cảnh sát bắt một người đàn ông phát ngôn động chạm, làm vỡ một chai nước(93). Ông Hà than thở, “Thời buổi này tốt nhất đừng nói lung tung, cứng đầu cứng cổ chỉ tổ rước thêm phiền phức, im lặng mới là vàng...”
Có thật thế không? Biết đâu vì cứ im im nên cuối cùng lại bị hại chết?
Tôi nhận ra mình đã biết quá nhiều.
Mảnh giấy Trịnh đánh rơi ban nãy, tôi chỉ liếc qua nhưng vẫn nhớ khá rõ. Thì ra trí nhớ tốt đôi lúc cũng không phải ưu điểm. Nội dung trên đó là thế này:
18/8
X. 10:00 am Tòa án vịnh Causeway (thật)
19/8
1.10:30 am Kí túc xá cảnh sát Tiêm Sa Chùy (giả)
2. 01:40 pm Tòa án Trung ương (giả)
3. 04:00 pm Tòa nhà Murray (thật)
4. 05:00 pm Ga tàu hỏa Sa Điền (thật)
Buổi chiều, đài phát thanh đưa tin về vụ đặt bom ở tòa án vịnh Causeway đường Electric. Quân đội Anh cử chuyên gia gỡ bom đến, xác nhận quả bom có khả năng gây sát thương, là “dứa thật”.
Trùng khớp với nội dung trong mảnh giấy của Trịnh.
Ngày giờ và địa điểm trên giấy đều đúng với thực tế, chữ “thật” có lẽ để chỉ bom nổ được. Mặc dù không rõ ý nghĩa của “X”, nhưng ai đọc cũng sẽ suy ra rằng mảnh giấy này chính là chỉ thị phân công nhiệm vụ của phần tử bạo động.
Quả bom đặt ở tòa án vịnh Causeway lúc 10 giờ sáng nay là thật. Ngày mai, phe bạo động sẽ gài bom tại kí túc xá cảnh sát ở Tiêm Sa Chủy, Tòa án Trung ương trên đường Arbuthnot, ga tàu hỏa Sa Điền và tòa nhà chính phủ Murray ở Trung Hoàn. Dù anh Bảy và anh Ba bận đi tuần không nhận được thông báo về quả bom tại vịnh Causeway, hẳn họ cũng đã nghe tin trên radio, nên khi nhìn thấy mảnh giấy, anh Bảy liền hiểu ngay Trịnh có liên quan đến vụ này.
Chưa chắc Trịnh tự tay đặt bom ở vịnh Causeway, nhưng mảnh giấy trên người đã chứng minh anh ta quen biết thủ phạm. Giả như trước đây, mảnh giấy này chẳng nói lên điều gì, vì nó không hề ghi mấy từ then chốt như “bom” hay “tấn công”, Trịnh có thể cãi phăng rằng chỉ là trùng hợp. Nhưng hiện đang thực thi pháp lệnh tình trạng khẩn cấp, kể cả không có ngày giờ cụ thể, riêng cụm từ “Tòa án vịnh Causeway” cũng đủ để cảnh sát vin vào tra khảo đến cùng.
Anh Bảy với anh Ba căng thẳng như vậy hẳn nhiên là vì bốn dòng chữ phía dưới. Biết trước địa điểm tấn công thì có thể giăng thiên la địa võng, ôm cây đợi thỏ.
Nhưng tôi lại thấy có điều không đúng.
Bốn mục tiêu đánh bom đều là các địa điểm dòm ngó của phe bạo động. Kí túc xá cảnh sát là nơi ở của “cầy tơ”, Tòa án Trung ương là tòa án vô liêm sỉ và bất công, tòa nhà Murray là văn phòng của “heo sữa”. Ga tàu hỏa Sa Điền không phải cơ quan chính phủ, nhưng phù hợp với tiêu chí “càng loạn càng tốt”. Nhà ga đông người, tin đánh bom sẽ gây ra hỗn độn, làm giảm uy tín của giới cầm quyền.
Tuy vậy, có một nguyên nhân khiến tôi thấy bất hợp lý.
Trong cuộc họp hôm qua, chú Trâu đã dặn “xong xuôi lập tức giải tán tại bến phà đường Jordan”.
Mảnh giấy không có chữ “bến phà” nào cả.
10 giờ sáng thứ Bảy ngày 19 tháng Tám, tôi ngáp liên mồm, mắt lim dim đếm hàng tồn. Đêm qua tôi gặp ác mộng suốt, choàng tỉnh tận mấy lần. Dù nói sẽ không dính líu gì đến anh Đỗ và anh Tô, nhưng tôi vẫn thấy không dây vào không được.
Tối qua về tới nhà, tôi liên tục để ý hai anh hàng xóm xem phản ứng của họ thế nào khi biết tin Trịnh bị bắt. Tô vẫn thản nhiên như thường, Đỗ thì đứng ngồi không yên. 9 giờ sáng nay, trong lúc phụ việc ở cửa hàng, tôi thấy họ cùng nhau ra ngoài, Tô còn chủ động chào tôi. Tôi cố soi xem họ có xách theo túi đồ khả nghi nào không, nhưng tay họ trống trơn, xem ra không mang bom bên người.
Tôi lơ đãng đếm cho xong hàng rồi ra đằng trước trông tiệm cho ông Hà. Ông nói hẹn bạn cũ đi uống trà, khoảng 12 giờ trưa sẽ về.
Tôi ngó chòng chọc đồng hồ treo tường, ngẫm nghĩ về nội dung mảnh giấy.
Còn mười phút nữa là đến 10 rưỡi. Liệu cảnh sát có đang phục kích ở kí túc xá cảnh sát Tiêm Sa Chủy không? Giả sử Tô hoặc Đỗ đi đặt bom thật, liệu họ có nhận ra cái bẫy và kịp thời dừng hành động? Cũng có thể hay tin Trịnh bị bắt, lãnh đạo công đoàn đã tạm thời đổi kế hoạch?
Hồi sáng anh hai nói, buổi chiều anh hẹn khách đi xem đất ở Tân Giới, nếu thuận lợi sẽ kiếm được một khoản kha khá. Tối anh ngủ lại nhà bạn, bảo tôi không cần đợi. Trong mảnh giấy của Trịnh có ghi sẽ đặt bom thật ở ga tàu hỏa Sa Điền, nhưng tôi không muốn kể về việc hôm qua, nên chỉ dặn anh đừng đi xe lửa vì độ này hay có “dứa” ở bến bãi và trên phương tiện giao thông công cộng, phải cẩn thận một chút.
“Khách của anh có xe riêng, chú không phải lo,” anh cười lớn.
Tôi mở radio, chăm chú nghe thời sự. Nhưng bản tin không đề cập tới bom, chỉ xoay quanh việc phó tham mưu Không quân Anh đến thăm Hồng Kông, và tin tức mới nhất về vụ phóng viên Grey(94) của Anh bị giam lỏng tại Bắc Kinh. Hơn 11 giờ, anh Bảy xuất hiện, cảnh phục chỉnh tề, mua một chai nước ngọt.
Tôi đưa chai nước cho anh, cân nhắc một hồi rồi ra quyết định.
“Hôm nay có mình anh thôi à?” Tôi chưa xác định được có nên bắt chuyện với cảnh sát trong tình hình này không, nhưng chí ít vắng anh Ba, anh Bảy sẽ không bắt bớ vô cớ.
Thái độ của anh Bảy vẫn thế, trả lời ngắn gọn, “Ừ, thiếu người, hôm nay chỉ mình tôi đi tuần.”
“Các anh... canh phòng kí túc xá cảnh sát Tiêm Sa Chủy sao?” Tôi thận trọng hỏi.
Anh Bảy đặt chai nước xuống, nhìn sang. Tôi thoáng lo lắng, nhưng trông vẻ mặt anh, tôi nghĩ anh không bất ngờ gì lắm.
“Quả nhiên là cậu đã trông thấy.” Dứt lời, anh Bảy lại uống nước, chẳng hề để tâm tới câu tôi vừa nói. Tôi không nhìn nhầm người, anh thân thiện hơn anh Ba nhiều. Chứ nếu là anh Ba, chắc anh ta đã hung hăng quát thét và đối xử với tôi như với “bọn phản động chết giẫm”.
Tôi đánh bạo nói, “Tôi... tôi đã trông thấy nội dung viết trên mảnh giấy. Với cả tôi biết người đó.”
“Ồ?”
“Anh ta tên Trịnh Thiên Sinh, vốn là công nhân xưởng dệt, sau bãi công hưởng ứng công đoàn, gia nhập mấy tổ chức.”
“Cậu cũng là người trong tổ chức à?” Giọng điệu anh Bảy vẫn không đổi, nhưng lại làm tôi rờn rợn.
“Không, không phải. Tôi không có quan hệ gì với họ, chẳng qua anh ta là bạn của hàng xóm cùng trọ với tôi. Trước đây tôi từng gặp anh ta mấy lần.”
“Ra vậy. Nên cậu có tin muốn báo với tôi phải không?”
“Vâng...” Tôi ấp a ấp úng, không biết phải nói thế nào mới không mạo phạm người ta. “Hôm kia tôi tình cờ nghe thấy Trịnh bàn kế hoạch tấn công với đông bọn.”
“Hôm kia? Sao cậu không báo ngay với cảnh sát?”
Thôi xong, hình như anh ấy muốn đổ tội lên đầu tôi.
“Tô... tôi không dám chắc. Hôm ấy tôi đang mơ màng giấc trưa thì vô tình nghe lõm bõm mấy câu. Nếu không phải vì hôm qua liếc được mảnh giấy, lại còn biết tin có bom tại tòa án vịnh Causeway, tôi đã không dám khẳng định chuyện mình nghe là thật.”
“Cậu nghe thấy những gì?”
Tôi tóm tắt một lượt, không quên lược bỏ phần “heo sữa” với “cầy tơ”, sau đấy kể qua về bản thân và chỗ ở của mình.
“Tức là ‘chú Trâu’, phóng viên Đỗ Tự Cường và công nhân Tô Tùng có dính dáng đến vụ việc? Được rồi, tôi sẽ báo cho ban loong toong(95) biết để đi bắt nghi phạm.” Nói xong, anh Bảy lấy bút ra ghi lại mấy cái tên. “Trước đây tôi có gặp anh phóng viên vài lần, nhưng Trâu với Tô là ai thì, không hề có ấn tượng...”
“Anh cảnh sát, anh nhầm rồi. Tôi báo cáo không phải để tố giác họ.” Tôi lắc đầu. “Anh không thấy chuyện này có gì kì lạ sao?”
“Kì lạ?”
“Tôi nghe họ nhắc đến ‘bến phà đường Jordan’, nhưng trên mảnh giấy lại không có.”
“Mảnh giấy viết những gì?”
“Tòa án vịnh Causeway, kí túc xá cảnh sát Tiêm Sa Chủy, Tòa án Trung ương, tòa nhà Murray và ga tàu hỏa Sa Điền.”
“Trí nhớ của cậu tốt nhỉ.” Giọng anh Bảy pha chút giễu cợt. Lẽ nào anh nghi ngờ tôi là đồng đảng của Trịnh, đang giăng bẫy lừa anh ấy?
“Bình thường đi giao hàng thay ông Hà, tôi đều phải nhớ bốn, năm địa chỉ, cho nên nhìn là nhớ ngay.” Tôi giải thích.
“Cậu cho rang danh sách không có địa điểm nào liên quan đến ‘bến phà’ là kì lạ?”
“Đúng vậy.”
“Nếu đặt bom đúng theo danh sách này, thủ phạm buộc phải đi thuyền, đương nhiên sẽ liên quan đến bến phà.” Anh Bảy ung dung giải thích. “Tô và Đỗ sống cùng nhà với cậu, Tô lại nói chú Trâu ‘ở gần đây’, họ muốn đến Tiêm Sa Chủy ở Cửu Long để đặt ‘dứa giả’ thì phải đi phà qua biển. Nếu đối chiếu với thời gian và địa điểm trong danh sách, họ cần qua lại đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long hai lần, bởi vì sau khi đặt bom ở Tiêm Sa Chủy, họ còn về Trung Hoàn để ra tay tại Tòa án Trung ương và tòa nhà Murray, rồi lặn lội sang ga tàu hỏa Sa Điền ở Tân Giới.”
“Không thể có chuyện đó.”
“Không thể?”
“Anh nhớ thời gian ghi trong danh sách chứ?” Tôi hỏi.
“Nhớ. Thì sao?”
“Thời gian hành động tại tòa nhà Murray ở Trung Hoàn là 4 giờ chiều, ở ga tàu hỏa Sa Điền là 5 giờ, trong một tiếng làm sao chạy từ Trung Hoàn đến Sa Điền? Riêng đi phà đã mất nửa tiếng rồi.”
“Vậy thì có khi đấy không phải thời gian hành động mà là thời gian phát nổ.” Anh Bảy phản bác. “Bom nổ lúc 4 giờ, nhỡ đâu được đặt từ 2 giờ? Theo danh sách, địa điểm trước Murray là Tòa án Trung ương, hai nơi cách nhau chỉ mười phút đi xe.”
“Không đúng. Đó chắc chắn là thời gian hành động.”
“Tại sao cậu cam đoan như vậy?”
“Bởi vì quả bom ở tòa án vịnh Causeway hôm qua không nổ lúc 10 giờ.”
Anh Bảy im lặng cúi đầu, dường như đang suy ngẫm lời tôi. Trên giấy ghi “10:00 am Tòa án vịnh Causeway (thật)”. Nếu đây là “thời gian phát nổ”, không đời nào đến 10 giờ 15 phút nhân viên mới phát hiện ra quả bom. Vả lại, trên danh sách có hai địa điểm chú thích là “giả”, mà bom giả thì làm gì có thời gian phát nổ.
“Vậy là,” anh Bảy ngẩng đầu nhìn tôi. “Cậu cho rằng Đỗ, Tô, Trịnh và chú Trâu định chia nhau ra hành động?”
“Không phải. Họ có bốn người, mỗi người phụ trách một quả bom đúng là hợp lý, nhưng tôi thấy Tô và chú Trâu có bàn tới ‘chi tiết nhiệm vụ’, nên chắc là họ sẽ cùng hành động.”
“Suy ra họ còn đồng bọn khác.”
“Cũng có khả năng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu một chuyện.”
“Chuyện gì?”
“Hôm nay là thứ Bảy, cơ quan chính phủ chỉ làm việc buổi sáng.” Tôi trỏ tờ lịch treo tường. “Tại sao lại đặt bom buổi chiều? Mức độ mạo hiểm tương đương, cố nhiên phải chọn phương án hữu ích nhất. Họ muốn tấn công quan chức chính phủ thì nên chọn từ thứ Hai đến thứ Sáu, hoặc là sáng thứ Bảy, như thế hiệu quả mới rõ rệt.”
Anh Bảy tỏ ra hơi ngạc nhiên. Dạo gần đây cảnh sát không có ngày nghỉ, bận tối tăm mặt mũi, chắc cũng quên luôn ngày tháng.
“Tóm lại là cậu nghĩ sao?” Anh Bảy hỏi, vẻ nghiêm túc hơn, như thể đã nhận thấy lời tôi có lý.
“Tôi nghi tờ danh sách đó là giả.”
“Giả?”
“Trịnh là mồi nhử để đánh lạc hướng cảnh sát.” Tôi suy luận, “Anh ta biết ngày nào các anh cũng qua đây vào giờ này, nên cố tình phát ngôn phản động trước mặt các anh, rồi để lộ mảnh giấy ghi thông tin giả.”
“Nếu đúng thế, thì mục đích của họ là gì?”
“Dĩ nhiên là để che giấu mục tiêu thực sự rồi. Nếu hôm nay cảnh sát và chuyên gia gỡ bom đều canh phòng ở các địa điểm ghi trong danh sách, công tác liên lạc và điều động nhân lực sẽ khó khăn hơn thường ngày, chưa kể lơi lỏng đề phòng những nơi khác. Lần này, phe bạo động không ghi lời cảnh báo lộ liễu cạnh bom đâu, mà muốn đánh bom để gây hoang mang cao độ. Chú Trâu an ủi Trịnh là ‘vất vả cho cậu rồi,’ nghe giọng Trịnh dường như đã chuẩn bị tâm lý chịu thiệt thòi. Tô cũng bảo ‘phần còn lại’ phải trông chờ vào anh Trịnh. Tôi nghĩ, đây là khổ nhục kế kiêm điệu hổ ly sơn, hi sinh một đồng chí để đổi lấy thắng lợi toàn cục.”
Anh Bảy sa sầm mặt mũi, trầm ngâm một hồi rồi đến bên máy điện thoại, nhấc ống nghe lên.
“Khoan đã!” Tôi gọi lớn.
“Sao?” Anh ngoái đầu lại.
“Anh định gọi điện báo cấp trên à?”
“Còn phải hỏi?”
“Nhưng điều chúng ta vừa nói chỉ là suy đoán.”
Anh Bảy đặt ngón trỏ lên bàn quay số.
Tôi can ngăn, “Giờ anh báo cáo, cấp trên sẽ điều phối lại nhân lực, chẳng may suy đoán trật lất, tòa nhà Murray và ga tàu hỏa Sa Điền nổ tung thật thì anh nguy to. Chính tôi còn không dám khẳng định mình suy luận chính xác đây.”
Chắc thấy tôi nói đúng, anh Bảy mới nhăn nhó đặt ống nghe xuống.
“Cậu có đề xuất gì không?” Anh hỏi.
“Ừm... tìm bằng chứng trước đã.” Tôi chỉ lên trên, “Họ từng nói lấy phòng Đỗ làm căn cứ, chưa biết chừng sẽ để lại manh mối. Dù sao đây cũng là nhà tôi, anh vào lục soát lỡ gặp người khác vẫn có thể nói là tôi mời anh đến chơi.”
“Tôi không thuộc ban loong toong, điều tra thu thập chứng cứ không phải chức trách của t...”
“Nhưng mà anh là cảnh sát! Chẳng lẽ lại để mình tôi làm trinh sát?” Tôi vặn lại. Tay này đúng là suy nghĩ máy móc.
Anh Bảy im lặng hồi lâu rồi nói, “Thôi được. Đi cầu thang bên này đúng không?”
“Anh mặc cảnh phục thế kia, nhìn kiểu gì cũng thấy là người đang thi hành công vụ, giờ mà lên là đánh động ngay!” Tôi lớn tiếng nhắc nhở. “Tôi đang trông tiệm, không đi đâu được. Ông Hà cũng nói khoảng 12 giờ sẽ về.”
Anh Bảy liếc đồng hồ treo tường, “12 rưỡi tôi tan ca, thay thường phục rồi sẽ quay lại. 1 giờ đợi nhau ở góc phố, sau đấy cậu dẫn tôi lên, được chứ?”
“Được. Tốt nhất anh nên đội mũ, đề phòng chạm trán Đỗ hay Tô. Tôi sợ họ nhận ra anh.”
Anh Bảy tuần tra mỗi ngày, không ít người dân trên phố đều biết mặt.
“Tôi sẽ cố gắng nghĩ cách.” Anh gật đầu.
“Nhớ đổi giày đấy.” Tôi dặn thêm.
“Giày?”
“Giày da đen của cảnh sát bắt mắt quá, kể cả thay đổi trang phục và diện mạo, nhìn giày một cái là nhận ra ngay.”
Cảnh sát đều đi giày da cùng kiểu, vì thường xuyên phải luyện bước đều nên giày được thiết kế đặc biệt, khác với các loại giày da thông thường.
“Được rồi, tôi sẽ chú ý.” Anh Bảy cười thích thú. Ai mà ngờ tôi lại ra lệnh cho anh ấy như cấp trên.
Anh Bảy ?