NGÀY CUỐI CÙNG CỦA KHÓA HỌC (6 tháng trước)
“Tại sao chúng tại lại ngủ?” Tiến sĩ Roy Wallis nói, mắt nhìn quanh khán phòng tối mờ trong Khoa Sức khỏe Cộng đồng, Giáo dục và Tâm lý của Trường Đại học Berkeley, bang California. Khoảng hơn năm trăm sinh viên lấp đầy các dãy ghế xung quanh, kể cả khi ánh đèn trên bục giảng khiến mọi thứ hầu như chìm vào bóng tối. “Nó có vẻ là một câu hỏi ngớ ngẩn, đúng không? Ngủ là ngủ. Đó là một nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại của chúng ta. Nước uống, thức ăn và giấc ngủ là ba yếu tố quan trọng nhất mà con người không thể sống thiếu. Tuy nhiên, khi tầm quan trọng của nước và thức ăn đã quá hiển nhiên, thì tầm quan trọng của giấc ngủ vẫn còn là một bí ẩn.”
Anh ấn nút chuyển tiếp cho bài thuyết trình của mình phải rồi hơi nghiêng người để kiểm tra hình ảnh trên màn hình chiếu phía sau. Đó là một bức ảnh mô tả một người đang ngủ với rất nhiều dấu hỏi xung quanh đầu.
“Sự thật là,” vị tiến sĩ tiếp tục, “không ai lý giải được tại sao chúng ta ngủ, tuy nhiên chủ đề này đã hấp dẫn con người trong hơn hai thiên niên kỷ. Người Rishis ở Ấn Độ bận tâm đến tình trạng ý thức của con người trong trạng thái tỉnh và mơ. Người Ai Cập cổ đã xây dựng những ngôi đền thờ nữ thần Isis, nơi những người sùng đạo muốn đến gặp thầy tu để được thôi miên dưới hình thức thô sơ và giải mã những giấc mơ của mình. Người Hy Lạp và La Mã có các vị thần giấc ngủ như Hypnos, Somnus và Morpheus. Lão Tử, một nhà triết học người Trung Quốc cũng đã so sánh giấc ngủ với cái chết. William Shakespeare thì ví giấc ngủ như sự săn sóc nhẹ nhàng của tự nhiên vì bản chất mang tính phục hồi của nó. Tuy nhiên, về mặt khoa học, cơ chế chính xác của giấc ngủ vẫn còn là điều bí ẩn cho đến giữa thế kỷ 20. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các mạng lưới nơ-ron thần kinh đều phát triển trên các đĩa thí nghiệm ở cả hai trạng thái hoạt động và không hoạt động, tương đương với khi thức và khi ngủ, điều đó có nghĩa là giấc ngủ xuất hiện tự nhiên khi các tế bào thần kinh đơn lẻ hoạt động cùng với các tế bào thần kinh khác. Thật vậy, điều này giải thích tại sao ngay cả những sinh vật cấp thấp nhất vẫn có những hành vi giống như ngủ.”
Tiến sĩ Wallis chuyển tới bức hình tiếp theo. Trên đó là một con giun hình thù kỳ lạ trong nền đen. “Trông dễ thương chứ? Đây là caenorhabditis elegans một giống giun nhỏ, chỉ có 302 tế bào thần kinh. Tuy nhiên, nó vẫn có trạng thái yên tĩnh và bất động, mà ta có thể coi là ngủ. Phải thừa nhận rằng nó không ngủ như chúng ta thường nghĩ về khái niệm này, nhưng đó là bởi chúng ta có bộ não lớn hơn và phức tạp hơn, đòi hỏi mạng lưới thần kinh rắc rối hơn. Càng nhiều tế bào thần kinh làm việc với nhau thì giai đoạn tĩnh càng dài, ví dụ như bảy đến tám tiếng nhắm mắt mà chúng ta thường làm mỗi đêm.”
Wallis bước vài bước trên bục giảng và vuốt râu: “Tuy nhiên, ngay cả khi lý thuyết này đúng – rằng các tế bào thần kinh khiến chúng ta thức và ngủ – thì vẫn không trả lời được cho câu hỏi tại sao con người lại ngủ, hay chính xác điều gì diễn ra trong giấc ngủ. Và còn rất nhiều câu hỏi nữa, các bạn của tôi ạ. Cơ thể chúng ta không đơn giản chỉ ngừng hoạt động như những gì Sandman nói. Mà thay vào đó, bộ não của chúng ta sử dụng khoảng thời gian không hoạt động này để đào thải, có thể nói như vậy. Bộ não là nơi tiêu thụ rất nhiều năng lượng, có nghĩa là tất cả những chất thải hoá học được sản sinh do hoạt động tự nhiên của tế bào đôi khi phải được đào thải ra ngoài. Hơn nữa, có vẻ như bộ não cũng sử dụng thời gian này để tái tổ chức và ưu tiên các thông tin mà nó thu thập được trong một ngày, cũng như lưu chuyển trí nhớ ngắn hạn của chúng ta thành trí nhớ dài hạn. Điều này giải thích tại sao khi mất ngủ, chúng ta thường có vấn đề về khả năng tập trung, giải quyết vấn đề, nhớ lại những ký ức nhất định hay thậm chí điều chỉnh cảm xúc của mình. Tất cả mọi chức năng đều bị ảnh hưởng tiêu cực.”
Wallis nhìn quanh khán đài trước mặt. Một vài sinh viên ở những hàng ghế đầu đang chăm chú quan sát anh.
“Có thể nhận thấy, não bộ con người là một cơ quan vô cùng quyền năng và phức tạp. Nó có đủ khả năng để dọn dẹp ngay cả khi ta thức. Vậy tại sao phải dừng hoạt động của toàn bộ cơ thể mỗi đêm và khiến chúng ta rơi vào trạng thái không phòng vệ như trẻ sơ sinh? Phải chăng có điều gì khác đang diễn trong giấc ngủ mà chúng ta không biết? Có thể vậy.” Anh nhún vai. “Hoặc có thể không.”
Tiếp theo, trên màn hình máy chiếu hiện ra hình ảnh của thời kỳ đồ đá, mô tả một nhóm người tiền sử quấn lông thú đang ngồi bên trong một hang động khi bầu trời nhuốm đỏ dần nhường chỗ cho bóng tối. Tay mỗi người đều nắm chặt một vũ khí bằng đá, ánh mắt thể hiện sự lo lắng và thận trọng với những mối nguy hiểm đang rình rập bên ngoài màn đêm u tối.
“Đối với tổ tiên của chúng ta vào thời kỳ đồ đá, việc tìm kiếm thức ăn vào ban ngày khi có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng là điều rất hợp lý và dễ hiểu, và ban đêm là thời gian ẩn nấp, vì đó là thời điểm hoạt động chủ yếu của động vật ăn thịt. Tuy nhiên… khi ẩn nấp thì chúng ta làm gì? Nếu bất kỳ ai trong số những bạn ngồi ở đây đã từng chơi trò trốn tìm với đám bạn hay các anh chị em họ hàng thì các bạn đều biết rằng thời gian khi trốn rất nhàm chán, bởi bạn chẳng phải làm gì nhiều. Hãy tưởng tượng trốn ở cùng một vị trí từ hoàng hôn cho đến bình minh vào mỗi đêm, 365 ngày mỗi năm. Điều đó còn tệ hơn là nghe Fran Drescher và Gilbert Gottgried tranh luận lặp đi lặp lại vô thời hạn. Cho nên, để tiêu tốn thời gian – cũng như bảo tồn năng lượng – cơ thể cần được nghỉ ngơi cho đến khi đứng dậy và tiếp tục đi tìm kiếm thức ăn. Giải pháp này không chỉ áp dụng cho con người mà còn cho tất cả mọi sinh vật sống trên hành tinh. Ngay cả máy móc cũng cần được nghỉ ngơi, không phải để bớt nhàm chán mà là để bảo tồn năng lượng.”
Wallis bước vài bước, vuốt râu, rồi lại bước thêm vài bước nữa.
“Quay trở lại với câu hỏi ban đầu là tại sao chúng ta lại ngủ? Nếu các bạn hỏi tôi, tôi tin những gì các bạn nhận lại sẽ tẻ nhạt một cách thảm thương. Ta ngủ là để cho qua thời gian và để dự trữ năng lượng. Tất cả những gì tôi nói bên trên đều diễn ra khi đèn tắt – não bộ đào thải, sắp xếp kiến thức và ký ức – tất cả được phụ trợ, hoàn thiện trong khi ngủ, bởi vì giấc ngủ tạo điều kiện thuận lợi và thời gian cho hoạt động đó.
Vị tiến sĩ nhấp chuột, chuyển sang hình ảnh tiếp theo là một thành phố lấp lánh toàn kính và thép. Anh chỉ về phía bức hình.
“London, nước Anh, khác xa với những vùng đồng bằng và rừng rậm hoang sơ của khu vực Á–Âu cổ đại, phải không? Không có sư tử hay gấu nấp trong hang rình chờ bạn tới. Thức ăn cũng không thành vấn đề. Chỉ cần vào siêu thị, từng khu từng khu với đủ loại thực phẩm bạn có thể nghĩ tới, tất cả đều được chất đầy hằng ngày. Do đó, việc trốn tránh thú săn mồi và tích trữ năng lượng không còn là vấn đề đối với con người hiện đại. Phần lớn dân số đã phát triển vượt lên trên những nhu cầu cơ bản như vậy. Vì vậy, bây giờ, cho phép tôi hỏi các bạn một câu.” Anh dừng lại một cách cường điệu, rồi như thể đã hài lòng với màn trình diễn của mình, nói tiếp: “Trong thời đại văn minh ngày nay, con người có cần ngủ không?”
“Tôi sẽ không nói vòng vo quanh vấn đề nữa,” Tiến sĩ Wallis nói. “Câu trả lời của tôi rất đơn giản. KHÔNG, tôi không nghĩ rằng con người cần ngủ. Thực chất, tôi nghĩ rằng toàn bộ loài người đơn thuần chỉ ngủ do thói quen.”
Những tiếng bàn luận và cười cợt lan khắp khán phòng.
Wallis đợi thêm vài giây trước khi giơ tay về phía trước để kêu gọi sự chú ý quay trở lại.
Tiếng ồn lặng dần.
Wallis tiếp tục làm động tác chuyển trang trên màn hình chiếu. Hình ảnh mới hiện ra mô tả một doanh nhân trong bộ vest và cà vạt chỉnh tề ngồi phía sau bàn làm việc. Đôi mắt anh ta hằn lên những tia đỏ, còn gương mặt tràn đầy sự mệt mỏi. Ly cà phê đặt bên cạnh bàn phím nghi ngót khói. “Đúng, tôi biết các bạn đang nghĩ gì. Nếu chúng ta không cần ngủ, vậy tại sao chúng ta lại trông giống anh chàng này sau những đêm thức trắng? Hãy để tôi giải thích cho các bạn nghe. Bởi vì khi thức đêm, cơ thể chúng ta tạo nên một thứ mà các nhà sinh vật học gọi là áp lực ngủ. Vậy giờ các bạn hỏi tôi: áp lực ngủ là gì? Chà, những nhà sinh vật học đó cũng chẳng biết. Họ chỉ đơn thuần đặt tên cho một thứ gì đó mà chính họ chưa hiểu rõ. Hãy liên tưởng đến những điều bí ẩn. Chúng ta đều biết chúng tồn tại, nhưng không ai lý giải được nguyên do. Vậy nên… áp lực ngủ,” anh nhắc lại, như để nghiền ngẫm câu chữ. “Áp lực ngủ. Thật vậy, nó nghe như một trò đố vui của Tolkien, phải không Điều gì được tích tụ khi ta thức và phân tán khi ta ngủ? Cái gì đang đếm số giờ, ẩn trong bộ não của chúng ta, chờ được xóa sạch vào mỗi tối? Và hãy tưởng tượng… điều gì sẽ xảy ra nếu như ta có thể nắm bắt nó, tái lập trình nó?” Vị tiến sĩ mỉm cười. “Nếu như, các bạn trẻ của tôi ơi, ta có thể xóa bỏ nó thì sao? Đúng, xóa bỏ áp lực ngủ. Loại bỏ hoàn toàn sự mệt mỏi và giấc ngủ – thử làm lãng phí cả đống thời gian khổng lồ khi ta rơi vào vô thức mỗi đêm, điều mà theo sự tiến hóa của loài người ngày nay là không còn hợp thời và không có giá trị thực tiễn. Hãy tưởng tượng xem, nếu bạn có thêm bảy hay tám tiếng mỗi ngày thì bạn sẽ có thêm bao nhiêu tấm hình tự sướng để đăng lên Instagram?”
Có vài tiếng cười khẽ bật lên nhưng không nhiều. Không khí trong khán phòng tràn đầy sự mong đợi minh uyên phấn khích.
Wallis bước đến giữa bục giảng, ngón tay anh vuốt dọc ve áo khoác của chiếc áo vest được cắt may tỉ mẩn. Khi đã chắc rằng tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn vào mình, anh nói tiếp: “Hãy nhìn lại những gì đã diễn ra vào tháng 01 năm 1964, các bạn trẻ của tôi. Một học sinh cấp ba tại San Diego tên là Randy Gardner đã dành 11 ngày – tức là 264 giờ – không ngủ. Điều thú vị ở đây là khi sắp kết thúc 11 ngày, cậu bé không hề lê lết như một zombie, mà thay vào đó, cậu ta hoàn toàn đánh bại nhà nghiên cứu – người đang tiến hành cuộc thí nghiệm này trong trò chơi pinball, không những thế còn đạt được nhiều mức điểm đáng kinh ngạc khác. Hơn nữa, cậu bé còn trả lời phỏng vấn một cách rõ ràng, mạch lạc. Còn sức khỏe tổng quan của cậu ta thì hoàn toàn tốt.”
“Sau đấy thì cậu ta ngủ trong bao lâu ạ?” Một giọng nam vang lên từ khán đài chìm trong bóng tối.
“Cám ơn vì giúp tôi tiếp nối câu chuyện,” Wallis đáp. “Cậu ta mất bao lâu để ngủ sau 11 ngày thức trắng ư? Không nhiều như các bạn mong đợi đâu. Chỉ 14 tiếng thôi – gấp đôi thời gian một người bình thường dùng để ngủ mỗi ngày. Khi tỉnh dậy, cậu ta không lảo đảo, chếnh choáng chút nào. Cậu bé hoàn toàn tỉnh táo và khoan khoái. Bây giờ, cậu ta đã là một người đàn ông lớn tuổi, theo như tôi biết thì vẫn còn sống, và suốt quãng thời gian sau này không gặp bất kỳ một ảnh hưởng tiêu cực nào cả về thể chất lẫn tinh thần.”
Im lặng – nhưng không phải là kiểu buồn chán thường thấy trong các giảng đường đại học. Mà là sự im lặng được đan chặt lại như dây nêm, đang chờ bị chặt đứt bởi một tiết lộ động trời.
Wallis cũng không định làm đám đông thất vọng. Anh tiếp tục: “Kết quả đáng ngạc nhiên của cuộc thử nghiệm 11 ngày ở Randy Gardner không là gì so với nhiều trường hợp khác đã chiến thắng giấc ngủ. Trong thế chiến thứ nhất, một binh sĩ người Hungary tên là Paul Kern đã bị bắn vào đầu. Sau quá trình điều trị chấn thương ở thùy trước não, anh ta mất hoàn toàn khả năng chìm vào giấc ngủ hay buồn ngủ. Mặc dù các bác sĩ đã dự báo rằng trường hợp này không thể sống lâu, nhưng anh ta đã sống mà không cần ngủ trong suốt 40 năm tiếp theo, và qua đời một cách tự nhiên vào năm 1955. Gần đây hơn, vào năm 2006, một vài tháng sau khi nhận được một công việc mới tại phòng thí nghiệm, một người đàn ông tên là John Alan Jordan đã vô tình đổ hóa chất công nghiệp cực mạnh lên da, làm nhiễm độc dịch não tủy. Từ đó, anh ta không thể ngủ thực sự đã không ngủ dù chỉ một chút. Tương tự, một người đàn ông khác tên là Al Herpin đã mắc phải chứng mất ngủ hiếm gặp mà không rõ lý do. Khi các chuyên gia Y khoa đến nhà anh ta, họ không tìm thấy giường hay bất kỳ đồ đạc nào để phục vụ việc ngủ, chỉ có duy nhất một chiếc ghế tựa mà Herpin nói rằng mình thường ngồi đó đọc báo khi muốn nghỉ ngơi. Cho đến nay, anh ta vẫn ở trong trạng thái khỏe mạnh và không chịu bất kỳ tổn thương nào từ trường hợp đặc biệt của mình. Lại thêm một phụ nữ khác tên là Ines Fernandez, người đã không ngủ trong vài thập niên mặc dù đã tham vấn hàng tá các y bác sĩ và uống hàng ngàn các loại thuốc ngủ khác nhau; một người đàn ông Việt Nam tên là Thái Ngọc cũng đã luôn thức kể từ khi bị sốt cao vào năm 1973. Còn rất nhiều những câu chuyện tương tự. Điều đáng ngạc nhiên ở đây là các nhân vật trong những câu chuyện trên đều duy trì tình trạng sức khỏe rất tốt. Ines Fernandez vẫn còn sống và tràn đầy năng lượng, Thái Ngọc cũng thế, ông có thể khoe khoang thể lực bằng việc vác những bao gạo vài chục ký hơn ba ki-lô-mét mỗi ngày.”
Wallis lấy cốc nước từ chiếc bàn trên bục giảng, nhấp một ngụm nhỏ, để nước ấm xoa dịu cổ họng mình.
Anh đặt cốc nước xuống và tiếp tục nói: “Cứ coi mấy người đó là đám dị tiến hóa, nếu muốn, cứ gọi họ bằng bất cứ cái tên nào, nếu điều đó giúp bạn chấp nhận những câu chuyện phi thường này. Nhưng có một điều mà họ tỏ rõ cho chúng ta thấy: con người không cần phải ngủ để tồn tại. Ta ngủ bởi vì ta đã quen với việc ngủ. Bởi vì những điều bí ẩn sâu bên trong chúng ta mà ta gọi là áp lực ngủ… thứ áp lực ấy, có lẽ một ngày nào đó, chúng ta có thể loại bỏ nó…” Từ xa vọng lại tiếng chuông ngân của 61 cái chuông trong tháp Sather gần đó, Wallis liếc nhìn đồng hồ trên tay mình: tiết học đã kết thúc. “Chúc các bạn may mắn trong kỳ thi sắp tới!” Giọng anh vượt lên trên những tiếng sột soạt ồn ã của sinh viên đang thu dọn sách vở và những bước chân di chuyển nhanh chóng về phía cửa. Sau đó, anh còn trêu chọc: “Đừng thức quá khuya để học bài đấy nhé!”
Khi cất hết sách vở từ bàn giáo viên vào chiếc cặp da của mình, Roy Wallis phát hiện trong phòng vẫn còn có người khác. Một cô gái vẫn yên vị trên hàng ghế đầu. Đôi mắt hình trái hạnh đào, gò má cao và đường xương hàm nổi bật cùng mái tóc đen bóng và thẳng, cô xinh theo kiểu đặc trưng của phụ nữ Á Châu. Đôi mắt nâu của cô sáng lên khi bắt gặp ánh mắt anh, nụ cười làm hiện núm đồng tiền bên má.
Cô gái khẽ vỗ tay. “Một bài giảng xuất sắc, thưa tiến sĩ. Em thực sự rất thích ạ.” Cô đứng lên và dần tiến về phía bục giảng theo lối đi xuống của bậc thang. Cô mặc quần áo kiểu tomboy dễ thương với chiếc áo sơ mi kẻ ca-rô ngoại cỡ, quần yếm bò thụng màu xanh xắn gấu và giày thể thao màu xanh nhạt. Cô dừng lại ngay bên hông bục giảng. “Nhưng em nghĩ thầy có thể đã bỏ qua vài thứ.”
Tiến sĩ Wallis đóng cặp lại. “Vậy hả?” Anh trả lời. Penny Park là một trong những học trò ưu tú nhất của anh. Cô là một trong hai nghiên cứu sinh mà anh tuyển chọn để hỗ trợ mình trong thí nghiệm về giấc ngủ sẽ được tiến hành sau khoảng mười ngày nữa. Cô đến từ một gia đình có thu nhập thấp ở Hàn Quốc và chỉ mới nhận được học bổng toàn phần của trường gần đây. Mặc dù chỉ mới sống ở Mỹ ba năm nhưng tiếng Anh của cô rất trôi chảy. Tuy nhiên, ngữ điệu cần chăm chút hơn, đặc biệt là cách phát âm R và L mà cô hay bị nhầm lẫn.
“Thú săn mồi ạ,” Penny nói. “Thầy có đề cập đến người tiền sử cần phải trốn tránh lũ thú săn mồi vào ban đêm, và ngủ là hành động bắt nguồn từ việc lẩn trốn để cho qua thời gian.”
“Đúng là tôi đã nói thế, Penny. Tôi mừng là em đã tập trung nghe giảng.”
“Thầy đừng trêu em. Thầy biết là em luôn lắng nghe lời thầy nói mà. Nhưng điều em muốn nói là… chuyện tổ tiên của chúng ta phải ẩn nấp vào ban đêm ấy. Thế còn lũ thú săn mồi thì sao? Những loài động vật nằm trên tầng cao của chuỗi thức ăn? Chúng chỉ săn mồi, không cần lẩn trốn nên không cần cố tiêu bớt thời gian, thế nên theo như thầy giảng thì chúng cũng không cần ngủ. Nhưng rõ ràng là chúng cũng ngủ mà. Do đó những gì thầy nói có vẻ như không hoàn toàn có lý. Tại sao những loài động vật đó không đi săn cả ngày? Hay chúng không đói?”
“Luận điểm rất hay, Penny,” Tiến sĩ Wallis nhấn mạnh vào sự thông minh lanh lợi của cô. “Động vật săn mồi đúng là cũng có áp lực ngủ. Tại sao lại vậy? Tôi tin rằng có cùng lý do với những con vật bị săn. Do buồn chán.”
“Buồn chán?”
“Chúng tiến hóa để làm một điều: săn bắt. Nhưng đi săn 24/7 thì mệt mỏi quá. Mà giấc ngủ lại cho chúng sự nghỉ ngơi, tạm dừng chu trình ấy lại, khiến chúng… tỉnh táo, có thể gọi là vậy.” Anh đi cùng Penny ra cửa, đứng ngay sau cô một bước rồi nói thêm: “Mà có lẽ thí nghiệm về giấc ngủ trong mười ngày nữa sẽ làm sáng tỏ vài vấn đề ấy nhỉ?”
“Em rất mong chờ khi được tham gia thí nghiệm lần này. Em nghĩ về nó suốt.”
“Tôi cũng vậy, Penny, tôi cũng rất mong chờ.”
Cô gái đẩy một bên cửa rồi bước ra, Wallis tắt những bóng đèn cuối cùng trên bục giảng, liếc nhìn toàn bộ căn phòng lần cuối đầy hồi tưởng và luyến tiếc, anh biết rằng mình có thể sẽ không trở lại cho đến tháng Chín của học kỳ mùa thu sau.
“Thưa thầy?” Penny giữ một bên cửa đợi anh bước tới.
“Tôi tới đây,” sau đó anh thay cô khép lại cánh cửa phòng học.