← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ NHẤT Thứ Ba, ngày 29 tháng 5 năm 2018

T rông chẳng khác nào một thị trấn ma, Roy Wallis nghĩ thầm khi đứng bên cửa kính phòng làm việc nhìn xuống đại lộ Shattuck. Bên kia đường là một quán rượu và nhà hàng Thái Lan rất hay đông khách, chủ yếu là các giảng viên và sinh viên. Nhưng giờ cả con phố vắng lặng. Tất nhiên vẫn còn một vài người đi lại xung quanh khuôn viên cổ kính của trường học, trong đó có rất nhiều sinh viên quốc tế và những người nhập cư đang theo học những khóa học tiếng, nhưng nhìn tổng thể thì nơi này vẫn giống một thị trấn ma. Không còn tiếng tranh luận ồn ào sôi nổi của những hội nhóm sinh viên, không còn bầu không khí tích cực tràn đầy năng lượng đại diện cho một thế hệ mới, trẻ trung của nước Mỹ, cả không gian gần 1300 mẫu đất thật yên tĩnh mà xinh đẹp lạ thường, điều mà Wallis đã lâu không được trải nghiệm, từ hồi anh còn là một vị tiến sĩ non trẻ và làm việc theo hợp đồng có thời hạn. Tầng mây che lấp ánh mặt trời, Wallis bắt gặp mình trong tấm kính phản chiếu từ cửa sổ phòng làm việc. Mái tóc ngắn vuốt keo bóng bẩy ngược về sau và bộ râu dài được chải chuốt cẩn thận, anh từng được so sánh với tất cả mọi người, từ thợ đốn củi cho đến nghệ sĩ xiếc, cả tới Abe Lincoln theo lời một nữ sinh đã tốt nghiệp. Thực chất, anh đặc biệt được ngưỡng mộ bởi những nữ sinh trong trường. Anh có chút xấu hổ nhưng cũng tự hào vì điều đó, mặc dù đã bước sang tuổi 41. Nhưng anh không cố gắng theo đuổi hình mẫu “tiến sĩ thời thượng” với kiểu tóc và bộ râu, mà chỉ đơn giản là tạo hình đó hợp với khuôn mặt anh mà thôi. Ngày trước, anh từng để tóc dài hơn và râu ngắn hơn, nhưng cuối cùng anh cho rằng một bộ râu đẹp là phải dày và khỏe, phải trông thật nam tính. Kết quả là anh đã nuôi râu thêm năm năm, chăm chút cẩn thận, thường xuyên ghé thăm thợ làm tóc, kể cả phải dưỡng ẩm và thoa dầu dưỡng hằng ngày, không bỏ lỡ ngày nào.

Wallis quay đi khỏi cửa sổ. Tất cả các tiến sĩ đã mãn nhiệm đều có phòng làm việc riêng để trang hoàng theo sở thích cá nhân. Bây giờ anh đã là chủ nhiệm của khoa Tâm học, anh không chỉ có văn phòng riêng mà đó còn là một căn phòng rộng thênh thang để tùy ý sáng tạo. Mặc dù trên lý thuyết là không được phép, nhưng anh vẫn sơn lại bức tường trắng đơn điệu thành màu xanh lam và thay tấm thảm xám thành thảm mun lông dày vào ba năm trước. Đồ trang trí nội thất đều là do nhà trường cung cấp, nhưng anh vẫn mua thêm một vài tác phẩm acrylic trừu tượng, cả bức tranh màu nước vẽ Sigmund Freud đang suy tư hút xì gà, và một vài vật dụng linh tinh khác từ nhà mang đến. Một vài đồng nghiệp không tiếc lời khen ngợi gu thẩm mỹ này của anh; vài người còn được truyền cảm hứng đến nỗi cũng tô điểm cho văn phòng của họ những tấm thảm hay đèn bàn theo phong cách riêng; vài người khác lại chẳng nói gì; trong khi không thiếu những nhân vật lại công khai chê bai sự lòe loẹt và dị biệt trong môi trường học thuật này. Wallis không quan tâm họ nghĩ gì. Đối với anh, không gian làm việc phải dễ chịu và gần gũi, phải tối đa hóa được năng suất làm việc.

Wallis đi về phía chiếc tủ lạnh mini và lấy một chai nước. Anh cân nhắc có nên uống một lon bia từ bịch sáu lon hiệu Coors Light trong đó hay không, nhưng tự nhủ rằng ngày còn quá sớm để uống thứ ấy. Bức tường phía trên tủ lạnh treo tấm bằng Y khoa của Đại học Arizona và bằng Tiến sĩ của Đại học California; cùng một vài giải thưởng anh nhận được về những thành quả nghiên cứu biểu đồ nhịp sinh học và chứng bệnh ngủ rũ của mình; có thêm hai bức hình được đóng khung cẩn thận. Một tấm chụp anh với người cha đẻ quá cố của thuốc ngủ – Giáo sư William C. Dement. Tấm còn lại là hình anh với một đồng nghiệp tại hang Mammoth thuộc tiểu bang Kentucky, ở độ sâu hơn 15 mét dưới lòng đất, nơi họ đã dành hai ngày để phác họa đồ thị biến động về mức độ tỉnh táo và nhiệt độ cơ thể khi không có ánh sáng mặt trời và lịch trình sinh hoạt hằng ngày.

Tiếng gõ cửa khiến anh giật mình, Wallis nhíu mày. Các lớp học và kỳ thi đã kết thúc từ tuần trước, vậy ai có thể biết rằng anh vẫn còn ở trong trường?

Anh mở cửa và hóa ra là Penny. Hôm nay, cô đeo một cặp kính gọng đen dày cộp khiến nó nhìn lỏng lẻo như sắp rơi khỏi đầu mũi. Chiếc áo len rộng màu tím dài đến đùi, che khuất chiếc quần ngắn cô đang mặc. Mái tóc dài được tết thành bím gọn gàng sau vai. “Chẳng phải chúng ta hẹn sẽ gặp nhau ở tòa nhà Tolman sao?” Anh hỏi.

“Em nhớ mà,” cô đáp, má hơi nâng lên ẩn sau lớp kính dày, “nhưng em đến sớm, vậy nên em nghĩ mình có thể tới đây để đi cùng thầy đến đó?” Penny chỉ vào một trong những hình hoạt họa liên quan đến tâm lý học được dán lên cánh cửa căn phòng. “Em thích hình này nhất, trông nó thật vui nhộn.” Bức hình miêu tả cô bé Goldilocks nằm dài trên sô pha của bác sĩ tâm lí và nói: “Alice ở xứ sở thần tiên, Dorothy thì ở đâu đó trên cầu vồng, nhưng con lại mắc kẹt trong ngôi nhà lụp xụp với mấy con gấu.”

“Con bé sống còn dễ chịu hơn so với Rapunzel.”

“Cô gái với mái tóc dài ấy ạ?”

Anh gật đầu. “Tôi thấy tóc em đẹp đó. Trước đây em đâu có để kiểu này phải không?”

“Vâng, vì nếu em buộc hết tóc lên thì trông đầu sẽ to hơn. Nhiều người Hàn Quốc có đầu to lắm, thầy có biết điều đó không?”

“Không, tôi chưa từng nghe tới.”

“Vậy đó, ở Hàn Quốc, cột tóc lên có nghĩa là độc thân.” Cô giơ cao bàn tay trái của mình và lắc lắc ngón tay đeo nhẫn. “Và em độc thân! Em chỉ bện tóc cho may mắn thôi.

“Ồ, vậy thì chúc may mắn nhé,” anh nói. “Còn bây giờ thì chờ tôi một chút rồi chúng ta cùng đi.” Anh cầm theo áo khoác và túi xách từ bàn làm việc rồi khóa trái cửa phòng khi rời đi. Họ đi dọc cầu thang xuống tầng trệt và tiến về lối ra nơi cửa chính. Trời u ám, ẩm ướt hơn thường ngày, những đám mây đen từ xa như đang chuẩn bị mang mưa tới.

Penny Park tủm tỉm hỏi: “Thầy có nhớ câu nói mà thầy đã nói để mở đầu khóa học Giấc ngủ và Giấc mơ năm nay không ạ?”

Anh nghĩ lại. “Không, ngay lúc này thì tôi không nhớ ra.”

“Mỗi ngày, hãy làm một việc khiến bạn sợ.” Cô nhắc lại một cách đầy tự hào.

Anh gật đầu đồng ý. “Đúng rồi. Của Eleanor Roosevelt. em rất ấn tượng với câu nói đó nhỉ?”

Penny cười to. “Không phải đâu! Em chỉ nghĩ tới buổi thí nghiệm ngày hôm nay thôi.”

“Ồ” anh đáp.

“Thầy có thấy sợ hãi chút nào không?”

“Penny, không có việc gì phải sợ.”

“Thầy thực sự không lo lắng chút nào ạ?”

Wallis do dự, rồi nhún vai. “Hừm, có lẽ là một chút xíu.”

Tiến sĩ Roy Wallis không chắc tình hình của Penny Park sẽ tiếp diễn thế nào.

Tháng trước, khi Wallis thông báo chung tới các sinh viên năm cuối lớp Giấc ngủ và Giấc mơ của mình rằng anh muốn thuê hai sinh viên hỗ trợ mình trong thí nghiệm về giấc ngủ trong ba tuần vào kỳ nghỉ hè, có mười người đã nộp đơn. Trong suốt quá trình phỏng vấn không chính thức lần một, anh không tiết lộ gì nhiều về cuộc thí nghiệm, chỉ giải thích rằng người được chọn phải dành ra tám tiếng mỗi ngày, các ca làm việc thay đổi tùy vào lịch trình để đảm bảo lấp kín được thời gian 24/7. Yêu cầu này đã khiến một nửa số sinh viên bỏ cuộc. Wallis tiếp tục phỏng vấn năm người còn lại, miêu tả rõ hơn công việc mà họ cần làm, bao gồm quan sát, ghi chép các hành động của hai đối tượng thí nghiệm đang chịu tác động của một loại khí kích thích. Thêm hai ứng viên nữa xin rút đơn, chỉ còn lại ba người là Penny Park, một sinh viên quốc tế khác đến từ Ấn Độ tên là Guru Rampal và một thành viên của đội chèo thuyền của trường tên là Trevor Upton. Trevor rất thông minh, khả năng tập trung cao và hòa đồng, anh chàng sẽ là lựa chọn đầu tiên của Wallis nếu cậu ta tham gia lớp học trong học kỳ trước thường xuyên hơn. Bởi có hai yếu tố quan trọng mà Wallis đặt ra cho những trợ lý của mình là phải đúng giờ và đáng tin cậy. Vậy nên Penny Park và Guru Rampal là lựa chọn cuối cùng.

Wallis nghĩ họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc, và anh vẫn luôn tin vào điều đó. Vấn đề của Penny Park là cô luôn thể hiện mình như đang tán tỉnh, đong đưa. Hai năm qua, cô gái ấy đã ghé thăm anh trong giờ làm việc kha khá lần, và mặc dù cô rất nhạy bén và có khiếu hài hước châm biếm – bạn có thể gần như gọi đó là trêu chọc – anh cũng không nghĩ nhiều về nó cho đến ba tuần trước. Sau khi lựa chọn Penny và Guru làm trợ lý cho mình, anh dẫn họ đi dạo quanh con phố, từ tòa nhà của khoa cho tới quán bar có bán cả pizza và bia. Hóa ra Guru không ăn được pizza lẫn uống đồ có cồn và chỉ khăng khăng uống cô-ca. Penny thì hoàn toàn ngược lại, uống hết tất cả những ly bia có độ nặng trung bình mà Wallis gọi. Có hai kiểu người khi uống bia rượu: kiểu người uống được đồ có cồn tốt đến nỗi khó nhận ra họ có đang say hay không; và kiểu người uống nhưng không áp chế được men bia rượu xâm lấn. Penny rõ ràng rơi vào kiểu người thứ hai. Đầu tiên, những lời khen ngợi của cô nàng rất mang tính nịnh bợ, như là “Thầy là tiến sĩ duy nhất biết cách ăn mặc đấy!” hay “Em biết là câu hỏi hơi kỳ nhưng thầy có đi tập thể hình không? Thầy chắc phải thường xuyên tập lắm hả?”, và sau đó là những cái động chạm vô ý. Cuối cùng thì Wallis phải lấy lý do đi vào nhà vệ sinh để rời khỏi bàn ăn, sau đó ngồi ở vị trí khác khi quay trở lại. Guru cũng nhận ra sự thái quá của Penny và cười ngây ngốc trong suốt hai mươi phút liền, cho tới khi Wallis – phớt lờ mong muốn gọi thêm một chầu bia của Penny — hỏi xin hóa đơn từ người phục vụ.

Kể từ hôm đó, Wallis liên lạc với Penny qua điện thoại và email về thí nghiệm này một vài lần, nhưng anh mới chỉ gặp mặt cô trực tiếp vào buổi cuối cùng của lớp học mà cô đã cố nán lại trong khán phòng hôm đó.

Lúc đó, cô vẫn là Penny thôi, bây giờ vẫn vậy… nhưng vấn đề là Wallis đã nhìn thấy bí mật của cô. Anh biết cảm giác của cô đối với anh, điều đó làm anh thấy bất tiện và đôi phần lo lắng.

Wallis không phải là phản đối mối tình thầy - trò. Mặc dù có nhiều ý kiến không tán thành, nhưng theo luật của hội đồng trường thì hẹn hò với sinh viên đã thành niên là hoàn toàn hợp pháp và được cho phép ở đa số các trường đại học. Thực ra, bây giờ Wallis đang trong mối quan hệ không rõ ràng với một cựu sinh viên.

Nhưng đó không phải là vấn đề, điều khiến anh bận tâm là hành động tấn công mãnh liệt của Penny có thể làm ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu về giấc ngủ của mình. Họ sẽ phải cộng tác chặt chẽ trong ba tuần tới, và anh muốn cô tập trung vào cuộc thí nghiệm này, chứ không phải vào anh.

Thôi, gió thổi qua tai vậy, anh quyết định. “Có thể mình chỉ đang làm quá lên những chuyện xảy ra ở quán bar. Cô ấy say và chỉ vui đùa chút thôi. Chẳng có gì to tát cả.”

Nói Penny Park mới chỉ “cảm nắng” Tiến Wallis thì còn nhẹ chán, cô nàng rơi vào lưới tình luôn rồi, có thể trách ai chứ? Thầy quyến rũ, thân hình cân đối, lại còn ăn mặc rất thời thượng. Mà trên hết thảy, thầy còn là một tiến sĩ, theo một cách nào đó thì điều này càng làm cho thầy trở nên hấp dẫn hơn.

Nếu được hỏi, Penny có lẽ sẽ trả lời rằng đây là tình yêu sét đánh. Cô thường ngồi ở hàng ghế đầu để không phải đối phó với tất cả những lời bàn tán của đám hút chích và “mấy cô nàng sành điệu”. Đây cũng là nơi cô ngồi trong buổi học của lớp Tâm lý học đầu tiên với thầy Wallis. Suốt năm mươi phút đồng hồ, ánh mắt cô không tài nào rời khỏi thầy, mỉm cười vui thích mỗi khi ánh mắt họ gặp nhau.

Cuối tuần đó, cô đã ghé qua văn phòng của thầy trong giờ hành chính để hỏi một số vấn đề trong bài tập thầy giao. Cô vẫn còn nhớ mình đã ngượng ngùng, lo lắng như thế nào khi được ở riêng với thầy, điều này đối với cô thật kỳ lạ. Cô là một người hướng ngoại, một người hướng ngoại có khuôn mặt xinh đẹp là đằng khác. Từ nhỏ, cô đã có thể làm thân với bất kỳ chàng trai nào cùng độ tuổi, chỉ bằng việc đi vài vòng trước mặt anh ta và làm mấy trò thú vị nho nhỏ. Ở tuổi mười sáu, hàng tá các bạn nam muốn kết thân với cô, nhưng hầu hết họ đều khiến cô chán ngấy chỉ sau một hay hai tuần. Có thể nói, ngay từ đầu, cô chưa từng thực sự thích ai.

Cũng không phải là cô không thích đàn ông lớn tuổi.

Cô mới chỉ biết được lý do tại sao mình có sở thích này nửa năm trước, trớ trêu thay là nhờ thầy Wallis. Trong lớp Tâm lý học tiến hóa, thầy từng giải thích rằng: khi địa vị xã hội và tài chính được coi trọng và đề cao, một vài cô gái trẻ sẽ có hứng thú đối với đàn ông trưởng thành, điều này sẽ làm rạn nứt mối quan hệ với cha của mình khi cô gái bước qua tuổi dậy thì. Theo Tiến sĩ Wallis, khi người cha không biết phải làm thế nào với cô con gái đang độ tuổi dậy thì của mình, ông ấy sẽ tránh xa cô bé mỗi khi có thể, và phản đối việc trang điểm và ăn mặc thiếu vải của con mình. Nhận thấy không giành được sự chú ý từ cha trong giai đoạn phát triển quan trọng này của mình, cô bé buộc phải tìm kiếm sự chú ý từ nơi khác.

Câu chuyện này hoàn toàn đúng với tình trạng của Penny và cha mình. Ở trường hợp của cô, trong những năm dậy thì, người lớn duy nhất mà cô biết rõ ngoài cha mẹ của mình là giáo viên – điều này có thể lý giải những gì đã xảy ra và năm cuối cô học trung học.

Một buổi tối sau khi tan học, Penny ở lại trễ để ôn bài cho kỳ thi sắp tới. Trong khi rời khỏi toà nhà, cô đi ngang qua lớp Sinh học và nhìn thấy giáo viên của mình, thầy Cho, đang ngồi chấm điểm ở bàn làm việc. Nửa năm trở lại đây, cô đã có những mơ tưởng không đúng mực với thầy, và khi gặp mặt vợ thầy tại lễ hội của trường tuần trước, cô ngay lập tức cảm thấy ghen tị với người phụ nữ ấy. Bà ta già khú – già hơn thầy Cho, ít nhất nhìn qua là vậy – nhưng bà ta có vẻ nghiêm nghị, kiểu trưởng thành, đứng tuổi với mái tóc nhuộm nâu vàng được chải phồng một cách hoàn hảo và đôi mắt to tròn hai mí (phẫu thuật cắt mí chăng?), mông to hông nở và túi xách Louis Vuitton sáng bóng. Bà nội trợ hoàn hảo của gia đình, suốt ngày chỉ mua sắm và tất cả những gì cần làm chỉ giới hạn ở việc dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng.

Từ lần gặp mặt đó, Penny lại càng mơ tưởng về việc giành lấy thầy Cho từ tay bà ta, cho nên vào buổi tối hôm ấy, khi đang rời khỏi trường học, cô cố tình bước vào phòng học giả vờ hỏi han về kỳ thi sắp tới, nhưng thực chất là để phô trương sự tươi mát, trẻ trung của mình, mà ở độ tuổi mười tám, điều đó ở cô là hiển nhiên. Lúc bắt chéo chân, cô nhận thấy ánh mắt thầy Cho nhìn chằm chằm vào phần đùi lộ ra bên dưới chiếc váy ngắn kẻ sọc của mình, và được đà, cô nói: “Em sẽ đi Itaewon lúc 7 giờ tối nay. Có một quán bar rất thú vị, tên là Câu lạc bộ Đường sắt ở Haebangchon. Nếu thầy ở gần đó, thầy có muốn đi uống với em một ly không ạ?”

Tất nhiên là Penny biết thầy Cho nào có ở gần đó. Trường trung học ở Jungnang-gu, ngoại ô phía đông Seoul. Thầy có thể sống ở một nơi nào gần đó. Còn Itaewon thì ngược lại, ở ngay giữa lòng thành phố, nổi tiếng với khách du lịch và người lao động nước ngoài. Đó chính là lý do vì sao cô chọn địa điểm này: một con phố riêng biệt, nơi hai người có thể gặp nhau mà không đụng phải người quen.

Thầy Cho đắn đo về lời đề nghị của cô trong một lúc lâu, cho tới khi Penny định thốt lên rằng mình chỉ đang nói đùa thôi thì thầy đột nhiên nói: “Em còn quá nhỏ để uống rượu đấy, Penny.”

“Em sắp 19 rồi thầy.” Cô nhún vai và mỉm cười. “Mà ở quán đó họ biết em, họ vẫn thường phục vụ đồ uống cho em.” Điều này chỉ đúng một phần. Cô mới tới đó một lần sau khi xem một ban nhạc biểu diễn ở một địa điểm gần đó và đúng là cô chưa từng gặp bất kỳ vấn đề gì khi gọi đồ uống có cồn ở đó cả.

“Em nói 7 giờ phải không?” Thầy Cho hỏi.

Penny gật đầu, vẫn cười tủm tỉm.

“Em ở đó với bạn hả?”

“Không, chỉ có mình em thôi.”

“Vậy thì thầy có thể ở quanh đó đấy.”

Penny tới quán bar trễ mười lăm phút và thấy thầy Cho đang ngồi ở một bàn chân cao với ly bia đã cạn trước mặt. Khi cô ngồi xuống, họ gọi thêm đồ nhắm và hai cốc bia. Tửu lượng của Penny không quá tốt và thầy Cho đã lợi dụng việc này, tiếp tục chuốc thêm cho cô hết cốc bia này đến cốc bia khác và cô cũng rất vui vẻ hợp tác. Sau khoảng một tiếng hoặc lâu hơn, cô di chuyển tới ngồi cạnh ông ta để họ có thể dễ dàng động chạm. Cô xoa nhẹ nơi hơi lồi lên ở đũng quần ông ta, còn tay của ông ta thì đang chu du dưới lớp váy ngắn của cô. Rồi khi cô thử hôn ông, ông ta liền đề nghị chuyển địa điểm sang chỗ khác. Ông ta thanh toán hóa đơn và dẫn cô đến một khách sạn tình yêu có cách trang trí khiêu gợi. Căn phòng duy nhất còn trống có tên là “Căn phòng mì ăn liền” với chiếc giường cỡ lớn được đặt bên trong một mô hình bản sao khổng lồ của hộp mì ăn liền.

Mặc dù đã từng qua lại thân mật với cả tá bạn trai trước đây, nhưng Penny chưa từng làm tình. Cô cũng không nói với thầy Cho về việc này, ông ta cũng không hỏi, và cô đã có một trải nghiệm tuyệt vời. Sau khi ông ta rời đi – ông ta đề nghị họ nên đi riêng lẻ ra bến tàu – cô ở lại trong phòng, thoả mãn bản thân trong bồn tắm dành cho hai người và bộ sưu tập đồ chơi tình dục được cất trên kệ phía trên màn hình ti vi.

Cuộc gặp gỡ như thế này diễn ra thêm sáu lần nữa, cho tới khi Penny tốt nghiệp và chuyển đến California để theo học tại trường Đại học Berkeley.

Mặc dù đã có kinh nghiệm với người lớn tuổi, Penny vẫn không có đủ dũng khí để quyến rũ Tiến sĩ Wallis vào ngày đầu tiên cô bước chân đến phòng anh vào mùa thu năm 2015. Cô chỉ mới tới Mỹ được một tháng và không còn tự tin vào làn da của mình như khi còn ở Hàn Quốc. Hơn nữa, Tiến sĩ Wallis không phải là một giáo viên trung học, anh là tiến sĩ của một trong những trường đại học được đánh giá cao nhất cả nước. Anh vừa có ngoại hình, vừa có phong thái mà thầy Cho không bao giờ đuổi kịp, cộng thêm khuôn mặt điển trai, dễ dàng cuốn hút bất cứ cô gái nào.

Tuy nhiên, Penny không vì thế mà nản lòng. Cô tiếp tục tới gặp thầy trong thời gian làm việc gần như mỗi tuần trong suốt ba năm sau đó, mỗi lần đều tự nhủ rằng hôm nay cô sẽ rủ thầy đi chơi, nhưng cô chẳng bao giờ làm được. Là một vị tiến sĩ có tiếng, anh thường xuyên có đồng nghiệp vây quanh, cả trong phòng làm việc, hoặc thậm chí vài sinh viên ngóng đợi trước cửa chỉ để nhìn thấy thầy… và cũng có vài lần cô bắt gặp anh ở một mình. Hừm, khoảnh khắc đó dường như không bao giờ đúng.

Rồi tháng trước, Tiến sĩ Wallis thông báo trong tiết học Giấc ngủ và Giấc mơ rằng anh đang tìm kiếm hai sinh viên hỗ trợ mình trong thời gian nghỉ hè với một thí nghiệm sẽ diễn ra ngay tại khuôn viên trường. Penny ngay lập tức nộp đơn cho vị trí ấy và không kìm nổi phấn khích khi được lựa chọn. Cô có thể trích nguyên văn lời thầy đã nói qua điện thoại, khi thông báo: “Nếu em thích công việc này thì Penny, tôi rất vui mừng vì được hợp tác với em. “”

Ngày hôm sau, Tiến sĩ Wallis mời Penny và tên mọt sách Ấn Độ – Guru Rampal – đi ăn pizza và uống bia, để hiểu nhau hơn. Penny đã rất cố gắng giữ thái độ đúng mực với thầy, mặc cho ham muốn cháy bỏng đang sục sôi nhưng cô biết giờ vẫn chưa phải lúc hay địa điểm phù hợp để lại gần thầy hơn. Vậy mà chỉ sau vài ly bia, sự kiềm chế này đã bị cô vứt ra ngoài cửa sổ, và tất nhiên là cách tán tỉnh của cô không đi đúng hướng. Cô đã tiến quá xa, còn thầy Wallis thì không thể hiện chút hứng thú nào. Khi thức dậy vào sáng hôm sau, cô đã chắc rằng thầy sẽ gọi điện để thông báo loại cô ra khỏi cuộc thí nghiệm, nhưng thầy đã không làm thế.

Cuối cùng cũng có ngày này, cô thầm nghĩ, chỉ có hai người chúng ta, cùng đi bộ đến tòa nhà Tolman.

Dù sao thì Penny cũng sẽ không mắc cùng một lỗi hai lần. Không còn là cô gái xỉn quắc cần câu nữa. Cô mong muốn mối quan hệ của mình với Tiến sĩ Wallis phát triển một cách tự nhiên trong ba tuần tới cho đến khi cô đủ tự tin để có được thầy.

Và cô sẽ có được thầy.

Trường Đại học California Berkeley là một công trình kiến trúc gần 150 tuổi, khuôn viên vừa cổ kính vừa hiện đại, nằm đối xứng giữa các đại lộ và những lối đi quanh co.

Tòa Tolman có thể được coi là một chú vịt con xấu xí trong đại gia đình.

Nó được xây dựng vào giữa thế kỷ trước, ở thời kỳ đỉnh cao của kiến trúc thô mộc, bê tông lộ ra ngoài và thiết kế hình khối đã thu hút nhiều lời khen ngợi cũng như chỉ trích từ công chúng trong nhiều thập kỷ. Đây là nhà của khoa Tâm lý học từ năm 1963, trước khi chuyển đến khu phía tây của trường. Tòa Tolman từng bị hư hại do một cơn địa chấn và sau đó bị bỏ hoang.

Vậy nên đây là địa điểm thích hợp nhất trong trường để tiến hành thí nghiệm giấc ngủ.

“Đến nơi rồi,” Tiến sĩ Wallis nói, ngước lên nhìn tòa nhà hoang tàn.

“Thầy biết không, sau khi họ tuyên bố sẽ phá hủy tòa nhà, nó bỗng chốc trở nên nổi tiếng trên Instagram.”

“ Nổi thiếng á?” Anh trêu chọc.

“Nổi tiếng. Xin lỗi, em không nói được tiếng Anh chuẩn như thầy.”

Wallis khẽ gật đầu. “Nó nổi tiếng cũng dễ hiểu thôi. Người ta chỉ có thể yêu hoặc ghét nơi này. Với cá nhân tôi, tôi có cả hai cảm xúc đó. Tòa nhà đã phục vụ khoa ta ngót nghét 50 năm. Nhưng bản chất công việc của chúng ta đã thay đổi đáng kể, và nó không còn là một tác phẩm nghệ thuật nữa, phải không?”

“Hơi ghê rợn, đặc biệt là bây giờ, khi tất cả cánh cửa và cửa sổ đều không còn. Nó như một con quái vật đang chực chờ ăn tươi nuốt sống chúng ta.”

“Em quả là có trí tưởng tượng phong phú đấy, Penny, Kìa, Guru đây rồi.”

Guru Rampal đang đứng dựa vào một cái cây gần đó, hai chân bắt chéo, lướt điện thoại bằng một tay. Anh chàng có mái tóc đen được tỉa mỏng theo phong cách Teddy Boys với phần mái hất ngược (có lẽ là để che đi mảng hói trên đầu); đôi mắt đen lờ đờ (bây giờ nằm phía sau bị che đi bởi cặp kính mát); làn da màu nâu nhạt. Anh khá gầy mặc dù có một cái bụng to, điều mà chiếc áo phông Pac-man quá chật không thể giấu nổi. Quần soóc kaki màu be được là phẳng phiu, đôi giày thể thao màu trắng không một vết bẩn.

Anh sinh ra ở một ngôi làng nhỏ ngoại ô Delhi, Ấn Độ, và cũng giống như Penny Park, anh chỉ mới tới Mỹ được vài năm. Guru cũng là một trong những sinh viên quốc tế may mắn nhận được học bổng toàn phần của trường. Nhưng khác Penny ở chỗ anh vẫn chưa hòa nhập được cuộc sống trời Tây này. Đúng là anh thiếu sự lanh lợi nơi đường phố, nhưng anh đã thay thế nó bằng sách vở, học hành. Trên thực tế, anh là một trong những sinh viên ưu tú nhất mà Tiến sĩ Wallis truyền dạy, và không có gì nghi ngờ về một tương lai tươi sáng đang đợi anh trước mắt, trong bất kỳ lĩnh vực tâm lý học nào mà anh theo đuổi, cho dù là học thuật, tâm lý học nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe hay luật và chính sách trong ngành nghiên cứu tâm lý.

“Guru!” Penny gọi lớn. Cô luôn phát âm tên của anh thành Gulu, giống như tên một thành phố ở Uganda.

Guru ngước lên từ chiếc điện thoại trên tay. “Chào mọi người!”

Tiến sĩ Wallis và Penny bước về phía anh.

“Tớ thích kính của cậu đấy,” Penny khen.

“Cám ơn tình yêu.” Anh tháo nó xuống và cài vào cổ áo.

“Đã nói đừng gọi tớ là tình yêu nữa mà.”

“Thật hả?”

“Thật!”

Guru nhún vai. “Tớ mua nó với giá mười đô-la ở Target,” anh nói với phát âm kéo dài. “Tớ nghĩ là họ đã đưa cho mình loại kính mát xịn nhất. Hai người có thấy thế không?”

Tiến sĩ Wallis vỗ vai anh, đáp: “Rồi, kính mà còn mát hơn nữa thì chúng tôi phải gọi cậu là Người băng ấy nhỉ?”

“Người băng,” anh nhắc lại. “Nghe hay đấy; từ bây giờ mọi người có thể gọi em như vậy.”

Penny bỗng chỉ tay về phía xa. “Kia có phải máy con chuột thí nghiệm của chúng ta không?”

Guru tiếp lời: “Hay theo cách nói của George Bernard Shaw thì là những chú chuột lang hình người.

“Đúng là họ đây.” Wallis nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo tay của mình. “Và rất đúng giờ.”

Ba nhà khoa học quan sát những “chú chuột lang” người Úc với chiếc ba lô trên lưng đang tiến dần về phía toà nhà Tolman, mỉm cười thân thiện rồi vẫy tay chào đón. Cả hai đều trông khá khỏe mạnh với làn da bánh mật và mái tóc vàng sậm. Người phụ nữ là Sharon Nash, mặc một chiếc áo ba lỗ màu trắng bên ngoài bikini cùng quần soóc jean rách; còn người đàn ông là Chad Carter, mặc một chiếc áo thun của hãng Billabong và quần đùi. Họ bước tới một cách từ tốn trên đôi dép xỏ ngón màu mè, như thể đang đi dạo trong công viên,

Ai nói khuôn mẫu là không đúng chứ? Wallis nghĩ thầm. Đặc biệt là trong trường hợp có hơn hai chục người Úc tới California để lướt sóng.

Hồi tháng Năm, Wallis đã đăng một quảng cáo trên tờ nhật báo San Francissco Chronicle để thuê hai đối tượng thử nghiệm tham gia vào nghiên cứu về giấc ngủ của mình. Số lượng hồi đáp khiến anh hoàn toàn bất ngờ. Anh gửi một bài kiểm tra sàng lọc được thiết kế riêng với các tiêu chí bao gồm và loại trừ tới từng ứng viên tiềm năng qua email. Sau cả đống lý do, sự lựa chọn cuối cùng của anh dừng lại ở hai vị người Úc này. Chỉ số khối cơ thể của họ nằm trong phạm vi lý tưởng, không hút thuốc, không đang dùng bất kỳ loại thuốc nào và không có tiền sử bệnh lý, không dị ứng với bất cứ thứ gì hay không bị kháng thuốc. Hơn nữa, những câu trả lời của họ cho thấy họ thuộc nhóm tính cách B. Những người thuộc nhóm tính cách này có xu hướng thoải mái hơn những người trong nhóm A, có sức chịu đựng tốt hơn và suy xét kĩ hơn, đồng thời biểu lộ mức độ lo âu thấp hơn, cùng trí tưởng tượng và sáng tạo tốt hơn. Thêm một điều, hai người Úc này là bạn bè nhưng không có quan hệ tình cảm.

Nói tóm lại, với Wallis, hai người này thỏa mãn các tiêu chí anh đặt ra cho thí nghiệm của mình, và họ sẽ phải ở chung với nhau trong một căn phòng trong vòng ba tuần tới.

Tiến sĩ Wallis chào đón Chad và Sharon bằng cái bắt tay nồng nhiệt, rồi giới thiệu họ với Penny và Guru.

“Này anh bạn, tôi thích kính nắng của anh đấy,” Chad nói với Guru. “Anh tỏa sáng như một người bắt chước theo Elvis hay gì?”

Guru cười rạng rỡ. “Thấy chưa, tôi nói mà. Hẳn là họ đã đưa cho tôi cái kính xịn xò nhất.”

Penny nhìn chằm chằm vào áo bikini của Sharon. “Hai người vừa từ bãi biển đến hả?”

“Ngâm mình chút xíu vào sáng nay,” Sharon đáp. “Chúng tôi được thông báo rằng quần áo sẽ được cấp nên chúng tôi không thay đồ.”

“Hoặc mang theo gì khác,” Chad thêm vào.

“Đúng thế, không mang theo gì khác,” Sharon đồng tình.

“Quần áo chắc chắn sẽ được cung cấp,” Wallis trả lời. “Cùng với nhiều thứ khác nữa. Hai người sẽ hoàn toàn thoải mái trong vòng ba tuần tới. Đi theo tôi.”

Bên quản lý tòa nhà của trường Berkeley đã di chuyển hết nội thất và vật dụng bên trong tòa nhà, từ hệ thống đèn, thảm sàn nhà cho đến các loại tủ. Những gì còn lại chỉ là một khối bê tông rỗng ruột với tình trạng đáng bị lên án. Lý ra nó cũng đã bị phá bỏ nếu như Wallis không thương lượng với người quản lý tài sản xin trì hoãn cho đến tháng sau, sau khi cuộc thí nghiệm kết thúc.

Wallis dẫn Penny, Guru và hai người Úc đi về phía cánh tây của tòa nhà, sau đó đi xuống một đoạn cầu thang để đến tầng hầm. Tòa nhà vẫn có điện, anh bật công tắc tổng. Từng bóng đèn huỳnh quang cũ trên trấn nhà chiếu rọi không gian u tối.

“Nơi này ghê quá, lại còn không một bóng người,” Penny thốt lên.

“Cứ như mấy trại thương điên trong phim kinh dị ấy nhỉ?” Guru thêm vào.

“Đủ rồi đó hai em,” Wallis không vui vì họ đang khiến hai người Úc kia hoảng sợ.

“Đừng lo lắng,” Chad xoa dịu. “Shaz và tôi không dễ bị dọa vậy đâu. Miễn là không có mấy thứ không sạch sẽ sống ở đây là được.”

“Không sạch sẽ?” Penny thắc mắc.

“Kiểu vô gia cư ấy. Bạn biết mà, mấy kẻ lang thang, ăn mày, lục rác, lũ bất cần, kẻ…”

“Được rồi, tôi hiểu rồi, cám ơn anh.”

Wallis dẫn họ đi xuyên mê cung dưới tầng hầm. Có tin đồn thiết kế này được lấy cảm hứng từ thí nghiệm mê cung chuột do nhà tâm lý học hành vi Edward Chance Tolman cùng tên với tòa nhà thực hiện.

Wallis dừng lại cạnh một căn phòng vẫn còn nguyên cánh cửa và bên cạnh là một chữ X lớn màu đỏ được sơn trên tường.

“X đánh dấu vị trí!” Penny ríu rít thốt lên.

“Thầy đã làm thế,” Wallis giải thích, “để đội thi công không động vào đồ đạc trong phòng.” Nói đoạn anh mở cửa, bước vào khoảng tối bên trong và bật đèn, để lộ một gian phòng nhỏ. Cách đó chừng vài mét, một bức tường giả kéo dài từ bên này sang bên kia của căn phòng. Nó có một ô cửa sổ quan sát hình chữ nhật dài và một cánh cửa khác dẫn vào không gian bên trong, nơi mà hai người Úc sẽ sống trong vòng 21 ngày tới. Phía trước cửa sổ có một cái bàn, bên trên đặt một bảng điều khiển cảm ứng có kích cỡ bằng một cái iPad và một chiếc máy tính xách tay màu bạc.

Wallis ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng. “Sẵn sàng để nghe bí mật được bật mí chưa?” Anh hỏi.

“Không đợi được thêm nữa rồi,” Chad nói.

“Em có nhìn thấy gì đâu,” Guru phàn nàn, áp tay lên cửa sổ quan sát.

“Vì đèn có bật đâu, hả thiên tài,” Penny mỉa mai.

“Tớ là thiên tài thật đấy, chỉ số thông minh của tớ là…”

“Đi mà nói với người quan tâm ấy.”

“Trẻ con như vậy là đủ rồi đấy,” Wallis nói. Anh quay sang hai người Úc, lý giải: “Căn phòng này trước đây từng là một trong những phòng hội nghị lớn nhất của tòa nhà. Tôi đã xây bức tường này cho thí nghiệm để ngăn cách phòng quan sát này với… hãy gọi nó là… phòng thí nghiệm giấc ngủ đi.”

“Nhưng chúng tôi sẽ không được ngủ, Chad nói. “Vì vậy, nó chẳng còn nghĩa lý gì nữa.”

“Đúng, nhưng với bản chất của cuộc thí nghiệm – nó được gọi là thí nghiệm về giấc ngủ – tôi nghĩ…

“Điều đó cũng không hợp lý lắm. Nó nên được gọi là thí nghiệm về mất ngủ thì đúng hơn?” Penny cười khúc khích.

Wallis lịch sự mỉm cười. “Điều đó không hoàn toàn giống nhau, phải không?” Anh nhận xét.

“Không,” Sharon đáp, cụt lủn. “Tôi đồng ý với Chad trong vấn đề này. Phòng thí nghiệm giấc ngủ Không, nó không có nghĩa lắm đâu anh bạn ạ.”

“Hai người gọi nó là gì cũng được,” Wallis trả lời ngắn gọn. “Nhưng tại sao chúng ta không xem qua nhỉ?” Anh bật nguồn bảng điều khiển, sau đó nhấn một cái nút ở bên hông để nó hiển thị trang điều khiển ánh sáng. Anh nhấn nhanh năm nút liên tục để bật nguồn đèn LED âm trần trong phòng thí nghiệm giấc ngủ.

“Ôi Chúa ơi, tuyệt quá!” Penny thốt lên.

“Đẹp tuyệt vời,” Chad khen.

“Siêu đẹp,” Sharon lặp lại.

“Nó còn lớn hơn cả nhà em ở Ấn Độ nữa,” Guru tán thưởng. “Và em có đến tận bốn anh em trai.”

Tiến sĩ Wallis thỏa mãn với phản ứng của họ. Anh đã dành nhiều tháng để xin trợ cấp từ tiểu bang và liên bang, nhưng sau những lần tái thẩm định liên tiếp – với lý do về tính đạo đức của cuộc thí nghiệm – anh đã quyết định tự lo mọi thứ. “Tất nhiên, căn phòng này được trang bị đầy đủ,” anh nói Hai người sẽ có thư viện của riêng mình với đa dạng tác giả từ Bronte và Atwood tới Poe và King. Rạp chiếu phim tại nhà ở ngay bên cạnh. Có hơn 80 kênh thì phải, và có cả Netflix nữa. Một đầu máy DVD và một bộ sưu tập kha khá các loại phim hay. Một phòng tập thể hình nhỏ.”

“Và một sân bóng rổ!” Penny vui thích nói. “Không còn gì tuyệt hơn.”

Wallis gật đầu đồng ý. Nó không hẳn là một cái sân bởi không có phần đánh dấu ngăn cách hai bên, nhưng cũng đủ rộng để làm một cú ném xa vào rổ, hay một trận một đấu một. “Phòng bếp ở đây,” anh tiếp tục, chỉ tay về một phía. “Tủ lạnh có đủ đồ, các ngăn chứa đồ khô cũng vậy. Hai người đều nói rằng mình không bị dị ứng bất cứ đồ ăn gì. Nhưng nếu muốn thêm thứ gì khác thì cứ nói cho tôi nhé, tôi sẽ mang tới.”

“Tại sao lại có giường?” Chad hỏi. “Chúng tôi có được ngủ đâu.”

“Các bạn sẽ không ngủ.” Anh chỉ vào hộp chứa lớn ở phía xa. Nó có kích thước và hình dáng của một hệ thống sưởi tại gia bằng khí đốt tự nhiên. “Cái đó chứa chất kích thích dạng khí, và có đường dẫn tới phòng thí nghiệm giấc ngủ. Nếu hít phải nó trong vài phút, anh sẽ không thể ngủ dù muốn đến cỡ nào. Còn hai chiếc giường ở đó dành cho… không gian riêng tư, có thể nói là thế. Hai người sẽ có rất nhiều thời gian, Ngay cả khi không thể ngủ, các bạn có thể vẫn muốn một nơi để nằm xuống nghỉ ngơi.”

Sharon vẫn nhìn chằm chằm vào hộp chứa. “Khí này… an toàn chứ?”

“Tất nhiên,” Wallis đáp. “Nó đã được kiểm định cẩn thận rồi.”

“Trong đó là gì? Ý tôi là, nó làm từ gì?”

“Tôi e rằng công thức là một bí mật kinh doanh.”

“Nếu thầy ấy nói với cô,” Penny dọa, “thì thầy ấy sẽ phải giết người diệt khẩu.”

“Nếu chúng tôi muốn rời khỏi căn phòng này thì sao?” Chad hỏi. “Cửa sẽ không khóa, phải không?”

“Khóa ư? Không đâu. Tuy nhiên, việc rời khỏi phòng thí nghiệm không được khuyến khích. Đây là một thử nghiệm có tính kiểm soát. Tất cả các yếu tố phải được giữ cố định, chỉ trừ một thứ: biến độc lập. Trong trường hợp này, đó là cả hai bạn. Nếu một trong hai người tính rời đi, bạn sẽ được hít thở không khí bình thường, do đó có thêm một biến độc lập thứ hai có thể ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của thí nghiệm.”

“Nói một cách chính xác thì, thưa tiến sĩ,” Guru “với bất kỳ thử nghiệm nào trên người đều có những biến không thể kiểm soát được như tuổi tác, giới tính và khuynh hướng di truyền. Vì vậy, đây không phải một cuộc..”

“Những biến không thể kiểm soát đó sẽ được loại bỏ trong những thí nghiệm tiếp theo, Guru, Wallis cắt ngang.

“Nhưng điểm mấu chốt,” Chad hỏi, “là chúng tôi sẽ mắc kẹt ở căn phòng này trong vòng 21 ngày?”

“Không sai. Điều này đã được nhắc tới trong bản thỏa thuận mà các bạn đã ký,” Wallis nói với giọng mất kiên nhẫn. “Nếu các bạn sợ thì phải nói cho tôi ngay bây giờ khi tôi còn có những ứng viên khác.”

“À không” Chad đáp. “Không sợ.” Anh ta liếc mắt nhìn Sharon.

“Em không muốn rút lui,” cô nói. “Chúng ta sẽ đủ tiền đi du lịch trong vòng sáu tháng tới với khoản được trả.”

“Anh nghe cô ấy nói rồi đấy,” Chad nói. “Chúng tôi sẽ không bỏ cuộc. Nhưng…” Anh ta nhún vai. “Giả dụ như một trong hai chúng tôi bị bệnh, anh sẽ để chúng tôi rời đi chứ?”

“Tất nhiên,” Wallis đáp. “Hai bạn không phải tù nhân. Hai bạn có thể tự do kết thúc thử nghiệm tại bất kỳ thời điểm nào mình muốn.”

“Nhưng chúng tôi sẽ không nhận được tiền thưởng phải không?”

“Hai người được nhận tiền thưởng?” Penny ngạc nhiên hỏi.

“Để hoàn thành 21 ngày,” Wallis giải thích.

“Tớ không được hứa sẽ có tiền thưởng. Guru, cậu thì sao?”

“Không, tớ cũng thế,” anh ta đáp. “Ít nhất là chưa nghe nói tới.”

Wallis thở dài. “Hai em có phải người phải trải qua 21 ngày không ngủ đâu.”

Penny nhướng mày nhìn Chad. “Anh được nhận thêm bao nhiêu tiền thưởng? Và được trả bao nhiêu?”

“Penny!” Wallis lớn tiếng. Nhìn thấy biểu cảm giật mình của cô, anh thu lại một chút sự thất vọng của mình. “Penny,” anh dịu giọng, cố giải thích kỹ hơn. “Thí nghiệm này không phải vì tiền. Đó là khoa học. Tôi chọn em vì tôi nghĩ em hiểu điều này. Nhưng nếu em cảm thấy tôi đang đối xử bất công thì tôi cho rằng chúng ta có thể bàn về…”

“Không, thưa tiến sĩ,” cô đáp, có vẻ ngượng ngùng. “Thầy nói đúng. Thí nghiệm này không phải là vì tiền. Em xin lỗi. Em thực sự không quan tâm… Em chỉ…”

Wallis đứng dậy và siết chặt cẳng tay cô để trấn an, điều này làm cô bừng tỉnh. Anh quay sang nói với hai người Úc: “Hai người sẽ tìm thấy phòng tắm với vòi sen nhỏ ở phía sau phòng thí nghiệm. Đó là phần duy nhất của căn phòng mà chúng tôi không thể quan sát các bạn bằng mắt thường. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có thể giám sát từ xa. Anh đưa cho họ hai chiếc đồng hồ thông minh từ trong túi của mình. “Nó sẽ theo dõi nhịp tim, mức độ căng thẳng và vận động của các bạn. Sạc không dây được đặt bên cạnh ti vi. Khi pin yếu, hãy sạc chúng ngay nhé.”

“Chúng tôi giao tiếp với anh bằng cách nào?” Sharon hỏi. “Ý tôi là, nếu chúng tôi có thắc mắc về cái gì đó?”

“Hệ thống liên lạc nội bộ,” Wallis trả lời. “Có sáu cái mic được lắp trên trần nhà, cũng như một hệ thống loa. Các bạn không phải làm gì cả; chúng tôi có thể nghe mọi thứ bạn nói thông qua máy tính bảng này. Nếu có câu hỏi gì, hãy cứ hỏi tự nhiên. Còn một vấn đề cuối cùng. Có ai trong hai bạn mang theo điện thoại bên mình không.”

“Anh đã nói với chúng tôi rằng không được mang” Chad đáp.

“Vậy nên anh đã không mang theo?”

Anh ta lắc đầu. “Đã để nó lại cho bạn tôi.”

Sharon chột dạ, sờ tay vào túi quần. “Tôi không chắc là anh có nghiêm túc hay không?”

Wallis chìa tay ra. “Thật không may, không được có bất kỳ liên hệ nào với thế giới bên ngoài. Tôi không thể để bạn phát trực tiếp thử nghiệm lên Facebook…”

“Tôi sẽ không!”

“Tôi xin lỗi, Sharon, nhưng tôi đã nói rõ rằng…”

“Tôi hiểu rồi. Được thôi.” Cô đưa chiếc điện thoại cho anh. “Đừng làm mất nó.”

“Tôi sẽ giữ nó ở nơi an toàn nhất trong văn phòng và trả lại cho bạn khi thí nghiệm kết thúc. Bây giờ thì còn câu hỏi nào nữa không?”

Hai người Úc nhìn nhau. Họ trao nhau nụ cười tràn đầy hy vọng, như thể để ngụy trang cho một nỗi lo sợ ẩn sâu bên trong.

“Vậy nhé,” Wallis nói. “Bắt đầu nào.”

Tiến sĩ Roy Wallis đã tự lên lịch làm việc cho mình tất cả các ca từ 2 giờ chiều đến 10 giờ tối. Anh chào tạm biệt Guru và Penny rối mở máy tính xách tay lên, sau đó châm một điếu thuốc. Mặc kệ lệnh cấm hút thuốc trong trường, tòa nhà Tolman có còn là gì ngoài tầng kí ức phủ bụi và đóng đó nát qua thời gian đầu. Thêm vài làn khói thuốc có chết gì?

Các đối tượng thí nghiệm người Úc dành giờ đồng hồ đầu tiên trong phòng thí nghiệm về giấc ngủ để khám phá mọi ngóc ngách trong căn phòng. khiến Wallis liên tưởng đến một đôi chuột hamster đang khịt mũi trong chiếc lồng mới của mình. Khi đã hết tò mò, cả hai cùng ngồi xuống ghế sô pha và bật ti vi. Sharon cầm điều khiển nhưng lại chiều theo ý của Chad, chuyển kênh tới chương trình cải tạo nhà cửa. Trong thời gian quảng cáo, cô đứng dậy và bắt đầu mò mẫm mấy cái máy tập thể dục. Sau đó, cô đến gần cửa sổ quan sát, dừng cách đó nửa bước chân. Trên tấm gương là hình ảnh phản chiếu của cô chứ không phải là của Tiến sĩ Wallis, người đang quan sát phía sau tấm kính.

Cô vén một lọn tóc mái vàng óng ra sau tai. Hành động này có chút ngần ngại, gần như là ngượng ngùng, mặc dù cho đến thời điểm này tính cách của cô đã không còn nhút nhát nữa. Đôi mắt với hàng lông mi dày chuyển ánh nhìn từ đầu này sang đầu kia của tấm kính, như đang tìm kiếm một điểm nào đó có thể nhìn xuyên qua. Chúng có màu xanh lam nhạt pha một chút xanh lá, Wallis đánh giá như màu của biển nhiệt đới vậy. Đôi môi cô hơi cong lên, như thể muốn nói điều gì đó. Thay vào đó, cô vẫy tay.

Wallis nhấn vào nút Trò Chuyện trên bảng điều khiển cảm ứng và nói: “Kính hai chiều đấy.”

Sharon nhìn lên trần nhà, nơi phát ra âm thanh là mấy chiếc loa âm trần.

Chad cũng nhìn theo, rồi rất nhanh quay sự chú ý trở lại ti vi.

“Giờ thì tôi thực sự cảm thấy mình giống như một đối tượng thử nghiệm rồi,” Sharon cảm thán. Giọng nói của cô truyền qua loa của máy tính bảng, nhỏ nhưng rõ ràng. Cô gõ vào tấm kính hai chiều. Âm thanh sắc hơn hẳn so với khi gõ vào một tấm kính bình thường, bởi không có khung hay giá đỡ phía sau. Wallis nghi ngờ cô biết điều này. Cô ấy chỉ thử cho biết thôi, chứ không gì hơn. “21 ngày,” cô nói thêm. “Không ngủ. Chà.”

“Không ngủ,” Wallis nhấn mạnh.

“Vậy tôi và Chad sẽ làm gì?”

“Đọc sách chăng?” Anh gợi ý.

“Chắc phải vậy rồi.”

“Có cả bộ tác phẩm của H.P. Lovecraft trên giá đấy. Tôi đã mang nó tới từ nhà mình.”

“Ông ấy viết tiểu thuyết kinh dị phải không?”

“Kinh dị, viễn tưởng và khoa học giả tưởng. Trọn bộ là 1600 trang, nên nó cũng tốn kha khá thời gian đấy.”

Sharon lắc đầu. “Tôi không thích mấy thứ kinh dị. Hồi nhỏ, tôi từng gặp ác mộng rất nhiều… và đến giờ vẫn vậy.”

“Điều đó không có gì lạ,” Wallis giải đáp. “Cứ hai người trưởng thành thì sẽ có một người thỉnh thoảng gặp ác mộng.”

Cô cười cho qua. “Đúng rồi, tôi quên mất anh là tiến sĩ về giấc ngủ đấy. Tôi nên gọi anh là gì nhỉ? Tiến sĩ? Hay Bác sĩ?

“Cứ gọi tôi là Roy.”

Cô tỏ vẻ suy tư. “Không, điều đó nghe có vẻ không đúng. Tôi sẽ gọi anh là tiến sĩ.”

“Vậy cũng được.”

“Tốt. Vậy… tiến sĩ, tại sao chúng ta lại mơ thấy ác mộng.”

“Ác mộng thường tự phát,” Wallis giải thích, châm thêm một điếu thuốc. “Mặc dù vậy, có nhiều nguyên nhân. Ví dụ, ăn đêm có thể dẫn đến ác mộng. Thức ăn làm tăng quá trình trao đổi chất trong cơ thể, truyền tín hiệu lên não bộ để nó làm việc. Ngoài ra còn có thể do các loại thuốc khác, đặt biệt là thuốc chống trầm cảm và ma tuý, những loại kích thích phản ứng hóa học trong não.” Anh gạt phần tàn thuốc vào chiếc cốc giấy rỗng bên cạnh. “Cũng có những yếu tố kích thích tâm lý khác góp phần, chẳng hạn như chứng lo âu hoặc trầm cảm, cũng như một số chứng rối loạn giấc ngủ nhất định.”

“Chứng rối loạn giấc ngủ là gì?” Cô hỏi.

“Mất ngủ và hội chứng ngưng thở khi ngủ là những trường hợp hay gặp. Hội chứng chân không yên lại là một hội chứng khác…”

Sharon cắt ngang bằng một tràng cười sảng khoái. “Anh nói làm tôi liên tưởng đến cảnh mấy con chó chạy loanh quanh để kiếm cột điện đấy.”

Wallis mỉm cười. “Về cơ bản, nó là cảm giác thôi thúc mạnh mẽ muốn di chuyển, dẫn đến việc gặp khó khăn, hay thậm chí là không thể chìm vào giấc ngủ sâu yên ổn.”

“Tôi cũng cảm thấy khá cuồng chân bây giờ.”

“Bạn đang ở trong một môi trường mới, không quen thuộc. Cố gắng thư giãn nhé, rất nhanh thôi, nơi này sẽ có cảm giác như ở nhà. Con người có khả năng thích ứng đáng kể đấy.”

“Bởi chúng ta có bộ não lớn hả?”

“Là bộ não xã hội,” anh sửa. “Não chúng ta được lập trình để sáng tạo, chia sẻ và truyền kiến thức. Điều này cho phép chúng ta thích ứng với hoàn cảnh mới một cách dễ dàng, tạo ra sự khác biệt giữa con người ngày nay và tổ tiên xa xưa, giữa người tiền sử và động vật linh trưởng. Nhưng chúng ta lạc đề rồi, phải không?” Tiến sĩ Wallis dí điếu thuốc xuống sàn nhà và tự nhủ phải mang theo gạt tàn vào lần tới. Anh vứt đầu lọc vào cốc giấy đã có sẵn ba đầu lọc khác. “Ác mộng, Sharon,” anh kết luận, “là một phần hoàn toàn bình thường của giấc mơ, nó giúp ta giải phóng những cảm xúc dồn nén. Tôi sẽ không quá lo lắng nếu thỉnh thoảng gặp ác mộng. Trên thực tế, chúng rất quan trọng đối với sức khỏe tinh thần. Còn Chad, anh thế nào rồi?”

Chad giơ ngón cái lên ra hiệu mà không rời mắt khỏi ti vi. “Tôi ổn, anh bạn.”

“Cám ơn vì cuộc nói chuyện, tiến sĩ,” Sharon lên tiếng, tiếp tục vén lọn tóc ra sau tai khi nó lại rơi lòa xòa về phía trước. “Tôi không còn cảm thấy chán nữa. Tôi nghĩ mình có thể sẽ tiếp tục trò chuyện rất nhiều với ông trong ba tuần nữa… nếu được?”

“Không thành vấn đề.”

“Tôi chỉ ước có thể nhìn thấy ông. Nói chuyện với hình ảnh phản chiếu của mình trong gương hơi kì quái.”

Trước khi Wallis có thể nghĩ ra câu trả lời phù hợp, Sharon đã di chuyển tới giá sách, nơi có bắt đầu chọn lựa trong số hàng trăm quyển sách mà anh đã mượn từ thư viện trường.

Wallis quan sát cô thêm chốc lát, rồi đứng dậy, vươn vai và đi vào nhà vệ sinh ở hành lang, nơi gần thang máy đã ngừng hoạt động. Tất cả đồ đạc bên trong đều được giữ lại theo yêu cầu của anh, một bồn cầu và một bồn rửa tay. Sau khi đi vệ sinh, anh tự nhẩm trong đầu phải bổ sung giấy vệ sinh, xà phòng và khăn lau tay khi quay lại vào ca làm tiếp theo, rồi trở lại phòng quan sát.

Sharon đã quay trở lại xem ti vi với Chad.

Sáu giờ đồng hồ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Wallis ghi chú được ba trang giấy, anh đang xem lại những gì mình thu thập được thì có tiếng gõ cửa.

Guru Rampal bước vào phòng ngay sau đó, mặc áo phông và quần soóc kaki như lần trước, nhưng không thấy kính đen đâu. “Chào buổi tối, tiến sĩ,” cậu lên tiếng, tháo ba lô ra khỏi với và đặt nó xuống nền đất cạnh bàn.

Wallis có thể ngửi thấy mùi đồ ăn McDonald’s, “Mang theo đồ ăn khuya hả, Guru?” Anh hỏi.

“Em không biết là mình có đói hay không?” Mắt cậu hướng tới ô cửa sổ quan sát phòng thí nghiệm. “Có chuyện gì hay ho diễn ra không ạ?”

Wallis lắc đầu. “Cơ thể họ vẫn đồng bộ, với nhịp sinh học tự nhiên. Chúng ta không nên mong đợi sẽ nhìn thấy bất kỳ sự sai lệch nào so với các kiểu hành vi thông thường cho đến khi họ không ngủ ít nhất một ngày.” Nói đoạn anh đứng lên. “Ngồi xuống đi. Em làm tôi thấy bất an khi cứ đứng kè kè bên cạnh như thế.”

“Cám ơn, tiến sĩ.” Cậu ta ngồi vào ghế. “Có điều gì đặc biệt mà em phải ghi nhớ trước khi thầy đi không ạ?”

“Không, chưa có gì cả, Wallis đáp. “Chỉ cần theo dõi hai đối tượng thí nghiệm cẩn thận và ghi chép hành vi của họ là được. Em có thể xem những ghi chú của tôi trong máy tính nếu muốn biết rõ phải ghi những gì. Ngoài ra… Anh nhún vai. “Đừng ngủ gật nhé.”

“Thầy đừng lo. Em là cú đêm mà. Vậy nếu họ muốn nói chuyện với em thì sao ạ?”

“Cứ trả lời họ.”

“Như vậy cũng được sao?”

“Sao lại không?”

“Em không biết. Em đoán vậy thôi… Em chưa bao giờ tham gia một thí nghiệm nào mà đối tượng nghiên cứu là con người cả.”

Wallis chỉ tay về phía bảng điều khiển cảm ứng. “Ở đó có nút Trò Chuyện, hãy nhấn nó nếu muốn họ nghe thấy em, và nhấn nút Nghe nếu muốn nghe họ nói. Chỉ vậy thôi.”

Guru gật đầu, gõ nhịp các ngón tay lên bàn.

Wallis cau mày. “Em đang nghĩ gì thế, Guru?”

“Thầy nghĩ em có nên cạo đầu không ạ?”

Wallis chớp mắt, chưa bắt kịp với câu hỏi. Ánh mắt anh đổ về phần tóc hất ngược của anh chàng. “Tóc như bây giờ là đẹp rồi,” anh đáp.

“Nhìn đằng trước thì có vẻ đẹp,” Guru gật đầu đồng tình. “Em bắt chước kiểu tóc của một ngôi sao nhạc pop rất nổi tiếng ở đất nước em – Ấn Độ đấy. Nhưng vấn đề là ở đây.” Cậu cúi người về phía trước và chỉ vào phần đỉnh đầu bị hói của mình. “Thầy nhìn thấy không?”

“Rất nhiều đàn ông bị rụng tóc.”

Cậu ngồi thẳng lại. “Nhưng em mới hai mươi hai tuổi thôi! Nếu em có vợ rồi thì không sao, nhưng khi mà em đang bị hói thì sẽ rất khó để lấy vợ đấy, thầy biết không?”

Wallis mỉm cười. “Em sẽ có cách của mình mà.”

“Cám ơn thầy. Nhưng thầy vẫn chưa trả lời câu hỏi của em. Em có nên cạo đầu không ạ? Có rất nhiều lời khuyên trên mạng bảo em làm thế.”

“Tôi nói rồi đó, tóc như bây giờ là đẹp rồi. Đây là phong cách của em. Nhưng nếu em vẫn tự ti về phần tóc thưa trên đỉnh đầu mình thì – tất nhiên, cứ cạo đi, sao lại không? Tóc kiểu gì cũng mọc lại mà.”

Guru thở dài. “Vấn đề là, em không chắc mặt mình có hợp với đầu trọc không. Em không được đẹp trai như thầy. Em cũng không có một hình thể lý tưởng.”

“Hay là để râu cho cân đối?”

“Đó lại là vấn đề khác! Em không thể! Em thử rồi. Em chỉ để được vài cọng râu lún phún ở đây và ở đây thôi.” Anh ta đưa tay lên sờ vào nhân trung và cằm của mình. “Chỉ có vài sợi ở đây, đó là tất cả. Nếu không có tóc và râu, chắc trông em như người ngoài hành tinh màu nâu mất.”

“Các cô gái sẽ thích người ngoài hành tinh da nâu lắm đấy.”

Guru ỉu xìu, vai chùng xuống. “Thầy chẳng giúp em được gì cả. Thầy có một mái tóc thời thượng và một bộ râu cũng sang chảnh. Thầy không hiểu em đang trải qua những gì đâu.”

Giờ đến lượt Wallis thở dài. “Thầy xin lỗi, thầy không nên đánh giá thấp việc này. Muốn nghe lời khuyên chân thành nhất của thầy không? Hãy đến gặp một thợ cắt tóc tốt, không phải mấy dịch vụ giá rẻ, người có tay nghề giỏi ấy. Thầy có thể giới thiệu em đến gặp thợ cắt tóc của thầy, nếu em muốn? Tên anh ta là Andre. Anh ta sẽ chỉ cho em nên sử dụng những sản phẩm nào để tạo độ phồng cho tóc và kiểu tóc nào sẽ khắc phục khuyết điểm mà em tự ti.”

Guru tươi tỉnh hẳn lên. “Thật ạ?”

“Tiệm của cậu ấy nằm gần Quảng trường Thống Nhất. Em sẽ dễ dàng tìm thấy nó thôi.”

“Cám ơn thầy! Em sẽ đến gặp anh ấy ngay sáng ngày mai!”

“Em cần phải đặt lịch hẹn…”

“À, phải rồi. Vâng, sáng mai em sẽ gọi điện cho anh ấy.”

“Cứ vậy đi. Buổi tối tốt lành, Guru. Và hãy nhớ là, bất kể vấn đề gì, hay câu hỏi gì – phải là những câu hỏi có liên quan nhé – cứ gọi điện cho thầy.”

Guru Rampal ngồi trên chiếc ghế xoay bọc da màu đen, nhìn quanh căn phòng thí nghiệm nhỏ, mặc dù chẳng có gì nhiều để chú ý. Có một máy tính bảng điều khiển và một máy tính xách tay được đặt trên chiếc bàn trước mặt. Gần đó là một xe đẩy kim loại chất đầy một máy tính để bàn và thiết bị điện não đồ. Và cả thùng chứa hơn 500 lít đang cung cấp khí kích thích vào phòng thí nghiệm giấc ngủ.

Guru tò mò đứng dậy và tiến về phía hộp chứa. Anh đặt một tay lên bề mặt thép không gỉ, cảm nhận sự lạnh lẽo dưới tay mình. Anh ngắm nghía các van và đồng hồ đo áp suất nhưng không dám chạm vào. Amphetamine [*] và các chất kích thích thần kinh khác phải được nén dưới dạng viên hoặc tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch (hoặc, để sáng tạo hơn, có thể dùng để hít dưới dạng bột hoặc dạng khói). Anh chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ thứ gì ở dạn