← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ HAI Thứ Ba, ngày 29 tháng 5 năm 2018

Tiến sĩ Roy Wallis bước vào phòng quan sát trong tầng hầm của tòa nhà Tolman với một chiếc vali và hai ly cà phê đựng trong khay các-tông mang đi. Anh đặt khay lên bàn và nói: “Cappuccino và latte hương vani. Cho hai em chọn.”

“Em thật ra không thích cà phê lắm, thầy ạ,” Penny Park trả lời. “Em thích trà.”

“Vậy là tiếp thêm cà-phê-in cho thầy rồi.” Anh ngồi sụp xuống chiếc ghế thứ hai, thở dài đầy mệt mỏi. “Thầy có thể uống cả hai.”

“Thầy trông mệt mỏi quá.” Cô nheo mắt nhìn anh nghi ngờ. “Thầy đã đi quẩy cả đêm hả?”

“Thầy đã quá già cho mấy câu lạc bộ đêm đó rồi, Penny. Thầy chỉ uống vài ly ở nhà thôi.”

“Một mình ạ?”

“Ừ, một mình,” anh đáp, điều này cũng không hẳn là sai. Sau khi Brandy rời đi, anh đã thức đến khuya hút thuốc và uống rượu, thậm chí còn mở nhạc rất to. Anh dụi mắt và quan sát hai người Úc trong phòng thí nghiệm ngủ. Chad đang nằm ngửa trên ghế tập tạ, có thể anh ta đang nghỉ giữa hiệp, còn Sharon thì đang nằm nghiêng trên giường đọc sách. “Họ thế nào rồi?”

“Tất cả đều tốt,” Penny đáp lại với một nỗ lực hết sức giả âm giọng của người Úc.

“Chúa ơi,” anh thốt lên.

“Không hay ạ?”

“Có cố gắng đấy.”

“Shaz đã dạy em rất nhiều cách phát âm của người Úc.”

“Shaz?”

“Đấy là tên thân mật của cô ấy.”

“Thầy biết điều đó…”

“Cô ấy muốn em gọi như vậy. Đó là cách họ gọi tắt tên người khác trong tiếng Úc. Em, em sẽ không là Penz, bởi nó nghe như bút viết vậy.”

“Nghe như một đơn vị tiền tệ ấy.

Penny bật cười. “Thay vào đó, Shaz gợi ý là Parksy. Em không biết tên của thầy là gì. Không thể là Royz được. Nghe như tên một loài hoa ấy, hơi nữ tính quá với một người nam tính như thầy.”

“Nam tính như thầy?”

“Thầy rất nam tính mà. Hừm… Có thể thầy sẽ được gọi là Wallsy? Thầy tự hỏi cô ấy đi.”

“Chắc chắn rồi, thầy sẽ ưu tiên việc này,” anh đáp. “Hai người còn nói chuyện gì nữa?”

“Thầy có biết bản đồ của vùng Tassie là gì không?”

“Thầy biết, Penny.”

“Có thật không ạ? Thầy chứng minh đi.”

“Đó là một từ lóng để chỉ phần lông vùng kín của phụ nữ.”

“Bởi vì hình dạng của Tasmania là..”

“Có thực sự phải dành thời gian để bàn luận về nó không?”

“Thì thầy hỏi tụi em đã nói chuyện gì mà.”

“Thầy sẽ đọc ghi chép của em sau. Sao em không chuẩn bị về nghỉ ngơi đi? Em đã thức từ sáng sớm tới giờ rồi đấy.”

“Em thực sự rất tỉnh táo. Thầy có biết điều gì thú vị ở đây không? Chad đã dùng phòng tắm vào 6 rưỡi sáng.

“Sao điều đó lại thú vị?”

“Bởi vì đó là thời gian mà cậu ấy thường thức dậy hằng ngày. Và khi ta thức dậy, ta luôn phải đi vệ sinh. Vì vậy, thú vị bởi cậu ấy vẫn đi vệ sinh vào đúng thời điểm đó, mặc dù không hề ngủ. Có nghĩa là gan cậu ấy đã được lập trình sẵn.”

“Đó chỉ đơn thuần là dao động nội sinh đang hoạt động theo chu kỳ hai mươi tư tiếng của nó thôi.”

“Gì ạ? Tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ của em, thầy biết mà.”

“Đồng hồ sinh học của cậu ấy, Penny ạ. Dao động nội sinh có nghĩa là những nhịp sống hằng ngày tự duy trì. Còn rèn luyện nghĩa là chúng đã được thay đổi để thích nghi với các nhân tố môi trường xung quanh như ánh sáng và nhiệt độ.”

“Vậy đồng hồ sinh học của cậu ta sẽ điều chỉnh để thích nghi với môi trường mới?”

“Đúng thế.”

“Vậy cậu ta sẽ đi vệ sinh vào bất kỳ thời điểm nào?”

“Guru sẽ đi khi cần, không phải khi đồng hồ sinh học báo.”

“Em có thể hỏi thêm thầy điều này được không ạ?”

“Em không nghĩ đến việc cạo đầu phải không?”

“Dạ?”

“Cứ hỏi đi.”

“Sáng nay, em có đọc máy thông tin về những thí nghiệm giấc ngủ. Em có quá nhiều thời gian ấy mà. Nên em đã xem qua về thí nghiệm giấc ngủ của Liên Xô vào thế kỷ trước…”

Wallis cười. “Thầy đã thắc mắc khi nào em hay Guru sẽ hỏi thầy về điều đó.”

Cô đang để cập đến một truyền thuyết bí ẩn đã khuấy đảo mạng xã hội vài năm về trước. Theo phiên bản nổi tiếng nhất, vào cuối những năm 1940, năm tù nhân chính trị của Liên bang Xô viết đã được hứa sẽ được trao trả tự do nếu tham gia vào một cuộc thí nghiệm của chính phủ, mà trong đó họ phải thức trắng trong một môi trường khép kín hoàn toàn trong vòng mười lăm ngày – bằng việc hít thở một loại khí gây kích thích.

“Bởi vì, thầy biết đấy,” Penny nói, “nó giống như những gì mà chúng ta đang làm…”

“Thầy hy vọng khí ga của chúng ta không độc hại như của họ,” anh đáp.

“Thầy đang nói đùa ạ?”

“Thí nghiệm về giấc ngủ của người Nga là một truyền thuyết, Penny. Hoàn toàn giả tưởng. Cái mà chúng ta đang thực hiện rất cẩn trọng, đã qua nghiên cứu khoa học và tính toán kỹ lưỡng.”

“Nhưng thầy có nghĩ tới thứ gì đó… rất đáng sợ… có thể xảy ra trong đời thật không?”

“Rằng thức trắng trong một khoảng thời gian dài có thể làm người ta điên loạn, tự hủy, giết người và ăn thịt người? Em nghĩ sao, Penny?”

“Không ạ,” cô rụt rè đáp. “Chỉ là truyền thuyết đó quá đáng sợ. Có lẽ bởi vì em ở đây một mình…”

“Cần lời khuyên của thầy không? Hãy mang đến một quyển sách thật hay để tiêu tốn thời gian hơn là đọc mấy thứ nhảm nhí trên mạng.”

“Vâng, đúng ạ, đó là ý hay,” cô ngáp dài. “Có lẽ em mệt mỏi hơn mình tưởng” Cô thu dọn túi xách và đứng lên. “Thầy làm việc nhiều quá, tiến sĩ ạ. Thầy thường làm gì vào lúc rảnh?”

“Thầy có một vài sở thích. Thầy luôn cố gắng đến phòng tập mỗi khi có thời gian.”

“Berkeley bây giờ quá trống trải, phải không ạ? Thật không quen khi trường học vắng vẻ như vậy. Bạn bè em về thăm gia đình hết rồi.”

“Thầy thích sự vắng vẻ. Rất yên bình.”

Penny gật đầu đồng ý nhưng không có động thái rời đi. “Em nghĩ là, có lẽ chúng ta nên ra ngoài ăn tối trong tuần này?”

Wallis cố gắng không để lộ sự ngạc nhiên. Mặc dù biết Penny thích mình, nhưng anh không nghĩ cô có đủ dũng khí để mời anh hẹn hò! Đúng là anh đã cặp kè với Brandy khi cô còn là sinh viên của mình, nhưng lúc đó anh trẻ hơn bây giờ rất nhiều. Anh bây giờ gần gấp đôi tuổi Penny – một nhận thức khiến anh chán nản đến mức gần như chấp nhận lời mời của cô, gần như lại không.

“Nghe tuyệt đó, Penny,” anh đáp. “Trừ việc thầy sẽ không kết thúc ca làm việc của mình cho tới tận mười giờ tối, đến lúc đó thầy cũng đã kiệt sức rồi. Nhưng… vẫn cảm ơn lời mời của em.”

“À, không có gì ạ,” cô đáp, không tỏ thái độ như thực sự tin lý do đó. “Hẹn gặp thầy vào ngày mai!”

“Ừ, cùng thời gian và địa điểm như bây giờ nhé.”

Cô rời đi, nhẹ nhàng khép cửa lại cho đến khi âm thanh chốt cửa cài vào nhau vang lên.

Sự rời đi của cô ít kịch tính hơn nhiều so với Brandy tối hôm trước, nhưng trong căn phòng tĩnh lặng dưới tầng hầm này, hành động của cô khiến không khí nặng nề hơn.

Chad Carter không biết mình đã luẩn quẩn trong phòng thí nghiệm này bao lâu, nhưng anh có thể đoán mình trải qua khoảng một ngày hay lâu hơn một chút – và anh cảm giác như đã rất lâu rồi. 19 hay 20 ngày còn lại sẽ đằng đẵng như cả một cuộc đời đẫm máu.

Ban đầu, khi anh và Shaz còn đang cân nhắc có nên tham gia thí nghiệm kỳ quái này không thì anh nghĩ ba tuần cũng không dài lắm. Nhưng tất nhiên, chẳng ai cho anh biết việc thức thao láo nhiều giờ đồng hồ liền như thế này sẽ có cảm giác thế nào.

Tất nhiên, trước đây anh từng thức nguyên đêm. Nhưng việc thức trắng để nhậu nhẹt, tiệc tùng hay vui chơi khác xa với việc tỉnh như sáo mà chẳng có việc gì để làm ngoài xem ti vi hoặc tập thể dục, hay nhìn chằm chằm vào bức tường chết tiệt trước mặt.

Chúa ơi, chẳng thể tưởng tượng nổi rằng vào thời điểm này năm ngoái, anh còn đang vi vu tiệc tùng khắp châu Âu… Vậy mà giờ anh như một con chuột mắc kẹt trong hộp. Anh rời Melbourne vào tháng Ba cùng một người bạn thân từ trường đại học của mình – Shane Eales. Họ đáp xuống London, nơi chị gái của Shane – Laura, làm việc cho một công ty quảng cáo. Laura có rất nhiều bạn bè và những mối quan hệ thân thiết, vào đêm đầu tiên họ tới thành phố, cô đã dẫn họ đi khắp các quán bar sang chảnh, tất cả đều có màu nhung đỏ, nơi các khay thuỷ tinh trong nhà vệ sinh không được dùng để đựng cốc. Mỗi lần Chad vào nhà vệ sinh đều nghe thấy những âm thanh rên rỉ đằng sau cánh cửa phòng đã khóa. Anh không phải không muốn xếp hàng tới lượt mình, nhưng túi tiền anh có hạn, còn chẳng đủ cho một lần “thổi”.

Khuya hôm đó, Kelly Osbourne, con gái của Hoàng tử Bóng đêm, đã tới quán bar đó và có vô số anh chàng đứng xếp hàng để được nói chuyện với cô nàng. Chad không hiểu nổi. Cô ta chẳng nóng bỏng, cũng chẳng quyến rũ chút nào, chỉ là một tiểu thư con nhà giàu hư hỏng. Nhưng tất cả những gã đó muốn tiếp cận cô ta chỉ bởi “đức hạnh” ấy?

Shane là người thích náo nhiệt, anh quyết định tiến lại gần cô ta trong giây phút hiếm hoi cô gái ở một mình. Anh ngồi xuống cạnh cô ta, bắt chuyện – và cô ả vui vẻ đáp lại. Phần còn lại của cả tối là những lời đùa cợt qua lại giữa hai người.

Ba ngày sau đó, Chad và Shane mua vé máy bay giá rẻ Ryanair tới Tây Ban Nha, nơi họ đã ở lại Barcelona vài đêm trước khi hưởng tới Pamplona. Thành phố nhỏ chật cứng người nước ngoài do lễ hội bò tót hằng năm mà Hemingway đã khiến nó trở nên nổi tiếng trong một tác phẩm của mình. Không còn một chiếc giường trống nào trong mấy nhà nghỉ hay khách sạn gần đó, nên lựa chọn duy nhất là mua lều và cắm trại trong một khu tập trung lớn với hàng ngàn người khác.

Không khó để bắt gặp người Úc khi bạn đi du lịch. Bạn chỉ cần đi theo tiếng gọi của bia và sự huyện nào. Chad và Shane nhanh chóng làm quen với một nhóm khoảng hai mươi người Úc khác, cũng đang dựng trại ở khu tập trung với một lá cờ Úc to bự được cắm ở một bên, và vài ngày tiếp theo là những cuộc nhậu nhẹt tới bến, quăng quật một quả bóng bầu dục, nướng thịt và làm tình trong những cái lều nhỏ xíu.

Hai ngày trước khi lễ hội bắt đầu, Shaz đi đến khu cắm trại một mình. Cô đến châu Âu với một người bạn, nhưng người bạn đó đã quay trở lại Perth. Shaz nghiễm nhiên trở thành người hấp dẫn nhất trong nhóm, và Chad thử tán tỉnh cô nàng nhưng cô không đáp lại, nói rằng mình đã có bạn trai ở quê nhà.

Sáng hôm sau, tất cả mọi người đều mặc đồ trắng với thắt lưng đỏ buộc ngang hông, họ cùng nhau thuê một chiếc xe buýt lớn để vào thành phố. Cảnh tượng trước mắt thật điên rồ. Đường phố đông nghẹt người. Mọi người chạy xung quanh để hắt rượu sangria [*] vào nhau.

Việc đầu tiên phải làm là mua bia, và chỉ tới giữa trưa, đám người Úc đã say bí tỉ. Một gã người Ireland nào đó mà họ làm quen được vào buổi sáng xỉn đến mức leo lên một cái cột và nhảy xuống đất, chết. Tất nhiên điều đó không được dự trù trước. Có vài người nhảy từ đỉnh cột xuống tấm lưới được tạo thành bởi mấy cánh tay đan vào nhau từ những người đứng bên dưới, kiểu như mấy gã siêu sao nhạc rock nhào lộn trên sân khấu nhảy xuống vòng tay của đám người hâm mộ. Tuy nhiên, anh chàng Ireland đô con tội nghiệp này bắt chước nhảy xuống trước khi có ai kịp chú ý. Anh ta tiếp đất bằng đầu và được khiêng đi bởi các nhân viên y tế. Nghe phong thanh là anh ta đã qua đời trong bệnh viện.

[*] Một loại cocktail đặc trưng của Tây Ban Nha.

Không còn gì để nói, đây là điều rất đáng tiếc, và nó không phải cách người ta bắt đầu một lễ hội. Nhưng bất chấp điều buồn đau đó, phần còn lại của ngày diễn ra rất suôn sẻ, với những trò uống rượu, đồ nhắm, đánh nhau và thậm chí cả những điệu nhảy nối đuôi conga. Hầu hết mọi người trong đám họ đều bất tỉnh hoặc quay trở lại lều để ăn tối, nhưng Chad và Shane vẫn tiếp tục cuộc vui suốt đêm để giữ vị trí tốt quanh hàng rào, nơi mấy con bò tót sẽ chạy qua. Chad đã tính chạy song song với chúng, nhưng đó là trước khi xảy ra vụ việc của anh chàng người Ireland kia, điều này làm cho việc chạy song song với mấy con bò tót trở nên đáng sợ hơn một chút.

Trong cuộc đua, toàn bộ mọi thứ trôi qua nhanh một cách khủng khiếp, từ tiếng còi hú khai cuộc cho đến con bò tót cuối cùng lao qua chỗ anh đứng chỉ diễn ra không quá vài phút.

Ngày hôm sau, đoàn người Úc đi tới Bồ Đào Nha, Chad và Shaz đi cùng họ. Họ đã dành gần ba tháng để đi du lịch hết các thị trấn nhỏ, tới cả những thị trấn nằm dọc theo đại dương, lướt sóng, uống rượu và tiệc tùng, cho đến khi họ chia tay. Có ba người tách ra thuê xe hướng về nước Đức để tham dự lễ hội Oktoberfest, trong khi nhiều người khác về nước hoặc tách lẻ. Sharon nói với Chad rằng cô muốn nhìn thấy nước Pháp, và với bất kể lý do gì (trong tâm trí mình, anh nghĩ mình vẫn có hy vọng được trở thành bạn trai của cô), anh nói sẽ đi cùng cô.

Anh tách khỏi Shane, người đang rất háo hức được tham dự lễ hội Oktoberfest. Chad và Shaz bắt xe buýt tới Bordeaux, nơi họ qua đêm trong một khách sạn cổ kính (chung phòng, khác giường). Vào buổi sáng, họ thuê một chiếc xe và lái qua vùng nông thôn của Pháp để tới Paris, nơi mà, cho tới tận bây giờ, vẫn là điểm sáng của cả chuyến đi. Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn, Bảo tàng Louvre – tất cả những gì bạn thấy trên ti vi bây giờ đều hiện ra trước mắt.

Hai người ở lại Paris trong một tháng… và có lẽ sự lãng mạn của thành phố này đã khiến cô lay động, bởi cô cuối cùng cũng buông lỏng để lên giường với anh một đêm, mặc cho cô luôn nói “không” mỗi lần anh cố gắng cởi nút quần jean của mình.

Sao chẳng được. Làm tình là một chuyện vui sướng, và cuộc vui này kéo dài thêm một tháng trước khi Sharon nói với anh rằng mình đã đặt vé máy bay đi California. Cô không có nhiều lựa chọn. Cô phải tiếp tục đi về phía Tây bởi tấm vé vòng quanh thế giới của mình. Chad đáng lý sẽ bay trở lại Melbourne sau ba tuần nữa, nhưng anh quyết định không về nữa và đặt vé mới đi California.

Shaz có vẻ không quá phấn khích trước việc này, còn Chad tự cho rằng hành động ấy liên quan đến việc cô bị anh hấp dẫn và đang đấu tranh với tội lỗi khi phản bội bạn trai ở nhà.

Dù sao thì anh vẫn đi chung với cô tới California, và họ kiếm được một căn nhà trọ ở Los Angeles, ở chung với ba người Úc khác và một người Canada.

Los Angeles nhanh chóng vét sạch số tiền còn lại, nên cả hai bắt đầu kiếm việc làm. Sharon làm bồi bàn cho một quán ăn Ý, nhưng Chad gặp nhiều khó khăn hơn và cuối cùng quyết định trở thành đối tượng thử nghiệm cho mấy cuộc thử nghiệm thuốc. Anh đã tham gia vào ba cuộc thử nghiệm – hai trong số đó là với Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và thử nghiệm còn lại là với một nhà sản xuất dược phẩm lớn – trước khi đọc được bài viết về Thí nghiệm giấc ngủ, nó nghe như một món hời.

Không ngủ trong vòng ba tuần, kiếm được cả đống tiền. Còn muốn gì thêm nữa?

Bài viết đề cập rằng: Một vị tiến sĩ đang tìm kiếm hai người tham gia vào một thí nghiệm của mình, họ phải quen biết nhau nhưng không được có quan hệ tình cảm. Chad thuyết phục Shaz nộp đơn cùng mình và hướng dẫn cô không được nhắc đến mối quan hệ không rõ ràng và mấy “cuộc vui” của họ.

Và bây giờ thì họ đã ở đây.

Một hay hai ngày gì đấy, trong phòng thí nghiệm này.

Còn 19 hoặc 20 ngày nữa.

Không có buổi sáng, buổi trưa hay buổi tối. Không có gì giúp phân định thời gian trong một ngày. Chỉ có những thứ không hồi kết như mấy bộ phim Trò chơi vương quyền, Tập làm người xấu và cả lố những bộ khác trên Netflix.

Chad nằm xuống ghế tập và nắm chặt thanh tạ đòn treo lơ lửng phía trên. Ít nhất thì mình cũng sẽ một hình thể đẹp khi chuyện này kết thúc, anh nghĩ, rồi nhấc thanh tạ ra khỏi giá đỡ và bắt đầu những nhịp nâng đầu tiên.

Roy Wallis vẫn đang chăm chú quan sát hai người Úc qua tấm kính. Sharon đang nằm trên giường, đọc một cuốn tiểu thuyết của Rex Stout. Chad đang nâng tạ. Anh nhấn nút Trò Chuyện trên bảng điều khiển và lên tiếng: “Hai người thế nào rồi?”

Sharon ngước lên ngay tức khắc từ cuốn tiểu thuyết, có vẻ như bị giật mình bởi âm thanh vang lên một cách đột ngột. “Xin chào, tiến sĩ. Ông đã trở lại.”

“Cô thích quyển sách chứ?”

“Tôi rất thích nhân vật chính Nero Wolfe. Anh ta là một thám tử tài ba, giải quyết tất cả những vụ án chỉ từ phòng khách nhà mình. Anh ta không bao giờ đi ra ngoài, chỉ nhốt mình trong nhà đọc sách.” Cô cười ngọt ngào. “Như tôi bây giờ ấy, tôi nghĩ thế.”

“Lẽ ra tôi nên mang cho cô chậu phong lan để chăm sóc?” Anh nói, ám chỉ tới một trong những sở thích của Nero Wolfe.

“Thật sao? Thế thì hay quá.”

Chad hoàn thành các bài tập của mình, anh ngồi dậy. “Chúng tôi đã sống sót qua ngày thứ nhất, phải không?”

“Điều này có nghĩa là đã đến giờ ăn sáng?” Sharon hỏi.

Không có đồng hồ trong phòng thí nghiệm, do muốn tránh việc hai người Úc theo dõi thời gian họ bị cô lập. Để họ đếm ngược hơn ba trăm giờ cho đến khi thí nghiệm kết thúc không phải là việc làm có đạo đức cho lắm.

Tiến sĩ Wallis lại ấn vào nút Trò Chuyện. “Cô dạy cho Penny vài từ tiếng lóng thú vị đấy.”

“Cô ấy học nhanh lắm!” Sharon đáp.

“Tôi hy vọng hôm nay chúng ta có thể thử một vài bài tập. Nếu các bạn muốn ăn uống trước thì cứ ăn đi.”

“Bài tập gì?”

“Bài đầu tiên là đọc một vài câu líu lưỡi.”

“Tôi thích! Thử luôn đi. Tôi cũng chưa đói lắm.”

“Vậy được. Không có gì khó, hãy làm theo tôi…”

Wallis đưa ra tổng cộng sáu câu nói gây líu lưỡi, và Sharon hoàn thành chúng một cách dễ dàng. Chad mặc vài lỗi, nhưng Wallis kết luận đó là do độ khó của câu nói, chứ không phải do sự đi xuống của năng lực trí tuệ, gây ra bởi thiếu ngủ,

“Rất tốt,” anh nói với họ. “Bài tập thứ hai khó hơn một chút. Tôi có một chiếc khăn bịt mắt, cùng với một tủi vài đồ vật linh tinh…”

“Hơi kỳ rồi đó, tiến sĩ,” Sharon cười khúc khích.

“Tôi sẽ mang chúng tới cửa. Chad, hãy gặp tôi ở đó, Anh có thể nhìn vào cái túi, nhưng Sharon thì không. Hiểu chứ?”.

“Quá dễ,” Chad nói, bắt đầu tiến về phía cửa.

Wallis lấy ra một chiếc túi đựng giày bằng lụa có dây rút đi kèm và một đôi giày lười mà anh mới mua gần đây. Anh cũng lôi thêm ra một chiếc khăn vuông màu đỏ có hoạ tiết. Anh đứng ở cửa phòng thí nghiệm, đưa cả hai vật cho Chad và quay trở lại chỗ ngồi đằng trước tấm kính.

Mặc dù khí ga không mùi không vị, anh vẫn ngửi thấy một mùi như kim loại.

Chắc chỉ là tưởng tượng thôi, anh phớt lờ chính mình.

Anh tiếp tục nhấn vào nút Trò Chuyện. “Chad, tôi muốn anh bịt mắt Sharon lại bằng chiếc khăn vuông đó.”

Chad làm như chỉ dẫn.

“Cô có nhìn thấy gì không, Sharon?”

“Không.”

“Tốt. Tôi muốn cô cho tay vào cái túi mà Chad đang cầm và lấy đồ bên trong ra.”

“Đừng có là mấy thứ như não cừu hay mềm nhũn nhé, tiến sĩ.”

“Tất nhiên rồi.” Anh đảm bảo. “Chúng chỉ là vật dụng hằng ngày trong nhà chúng ta thôi.”

“Điều này có nghĩa là gì thế?” Chad tò mò.

“Tôi muốn biết liệu Sharon có bất kỳ dấu hiệu ban đầu nào của chứng rối loạn xúc giác do thiếu ngủ không - có nghĩa là, liệu cô ấy có cảm thấy khó khăn khi xác định đồ vật chỉ bằng xúc giác mà không có thêm một giác quan nào khác phụ trợ hay không.”

“Anh đúng là sắc bén thật đấy, tiến sĩ ạ. Nhưng mặc kệ những gì anh đang tính toán. Shaz, sẵn sàng chưa?”

“Nếu tôi đoán sai thì sao?” Cô hỏi.

“Thì tiến sĩ thiên tài đằng kia sẽ nhấn nút và em sẽ bị thiêu thành tro,” Chad trêu chọc.

“Cô sẽ không đoán sai,” Wallis nói. “Bất cứ khi nào cô sẵn sàng…”

Sharon thò tay vào túi và lấy ra một khối rubik. Cô đoán ra nó ngay lập tức.

“Rất tốt,” Wallis khen. Hình cầu, hình kim tự tháp và hình khối bình thường không phải là vấn đề. “Tiếp đi.”

Cô đặt khối Rubik sang một bên, và lần này lấy ra một cái nắp bình trà bằng sứ. Cô lật đi lật lại nó trong lòng bàn tay mình.

“Nó là nắp của một cái gì đó.”

“Có thể cụ thể hơn không?” Wallis hỏi.

“Tôi không biết. Có thể là bình trà?”

“Chính xác,” anh đáp.

“Đoán hai đúng hai, Shaz, Chad nói. “Em lập kỷ lục rồi đấy.”

“Tiếp nào,” Wallis nói.

Lần này cô rút ra một cái ổ cắm USB hình con bạch tuộc.

Cô nhăn mặt. “Lạy Chúa, cái gì thế.”

“Cố gắng xác định nó bằng tay khác của mình xem.”

Cô đổi USB sang tay trái. “Không rõ..”

“Thử dùng cả hai tay xem.”

“Nó hơi mềm và đàn hồi, với cái… gì đó… ở một đầu và cái khác sắc nhọn ở đầu còn lại… nhưng… xin lỗi, tôi không đoán ra được, tiến sĩ.”

Họ tiếp tục bài tập cho đến khi không còn vật dụng nào trong túi. Sharon đoán chính xác bảy trong số mười hai đồ vật. Cô tháo khăn bịt mắt ra.

“Cô ấy có mắc bệnh… kia không?” Chad hỏi.

“Đó không phải là một căn bệnh” Wallis sửa lại. “Và không, nhận thức xúc giác của cô ấy không có biểu hiện bị sụt giảm từ quan sát bên ngoài. Chúng ta sẽ xem có gì thay đổi vào ngày mai không.”

“Tôi rất mong chờ,” Chad nói và quay lại chỗ nâng tạ.

Roy Wallis tiếp tục vai trò quan sát viên của mình, và trong vài giờ tiếp theo, âm thanh duy nhất trong căn phòng bên ngoài phòng thí nghiệm là tiếng gõ bàn phím, vì anh đang ghi chú lại những thông tin thu được từ hành vi của hai đối tượng thí nghiệm và các triệu chứng nổi lên liên quan đến mất ngủ.

Guru Rampal đến vào lúc 9 giờ 45 phút tối, đang nghe điện thoại khi bước vào.

Wallis chớp mắt ngạc nhiên nhìn cấu thành niên trẻ.

Đầu cậu ta được cao nhẫn, sáng bóng.

Guru giơ một ngón tay lên ra hiệu, ý chỉ mình sẽ không còn nói chuyện lâu nữa. Wallis châm một điếu thuốc. Guru vẫn chưa nói tiếng nào, Wallis đã nghĩ cậu ta đang ở trạng thái chờ nếu như không nghe thấy giọng nói loáng thoáng phát ra từ đầu dây bên kia. Khi anh hút hết điếu thuốc và vứt đầu lọc vào gạt tàn mang đến từ nhà, Guru vẫn đang im lặng, anh bèn đi tới nhà vệ sinh. Năm phút sau quay lại, anh vẫn thấy Guru đang lắng nghe người đầu dây bên kia nói liên hồi. Anh định lên tiếng thì nghe thấy Guru nói vài từ trong tiếng Hindi, lắng nghe rồi nói thêm vài từ nữa trước khi cúp máy.

“Có chuyện gì thế, Guru?”

“Em nói chuyện với mẹ ở Ấn Độ.”

“Bà ấy có vẻ nói khá nhiều nhỉ?”

“Không, bà ấy ít khi nói lắm.”

“Nhưng em chỉ nói có vài từ trong suốt cuộc nói chuyện kéo dài mười phút.”

“À, đây là một cuộc gọi nhóm trên Facebook với mẹ và bốn anh em của em. Bọn em nói chuyện theo thứ tự, từ lớn nhất tới nhỏ nhất. Bởi vì em nhỏ nhất, nên em luôn phải nói sau cùng. Mà thôi.” Cậu ta chỉ tay vào cái đầu trọc lốc của mình. “Thầy thấy sao ạ?”

“Nhìn đẹp đấy, Người Băng ạ.”

Guru cười toe toét. “Sáng nay, Andrea có một cuộc hẹn bị hủy vào phút cuối, nên em đã đến gặp anh ấy. Anh ấy nói có thể giúp em tạo kiểu tóc với keo xịt và vài sản phẩm khác, nhưng sẽ phải chăm sóc rất nhiều, và tóc em sẽ vẫn luôn mỏng thôi. Lời gợi ý tiếp theo là cạo trọc. Em lúc đầu còn do dự, nhưng Andre cũng trọc, và anh ta trông vẫn đẹp trai, nên em càng tự tin hơn để đưa ra quyết định.”

“Thầy mừng là em thấy hài lòng, Guru,” Wallis nói. “Bây giờ thì dễ hơn rồi, có lẽ chỉ phải đi mua kem chống nắng thôi.”

“Ý kiến hay đó thầy. Em sẽ mua vài lọ khi đi sắm thêm vài bộ quần áo mới. Đúng rồi đấy, em đã sẵn sàng cho một sự biến đổi hoàn toàn rồi.” Cậu ngồi xuống chiếc ghế trống và đặt ba lô lên sàn nhà. “Tiến sĩ, em có thể nói thầy ăn mặc rất đẹp, rất có khiếu thẩm mỹ. Thầy có sẵn lòng chia sẻ cho em vài bí quyết về thời trang không?”

Wallis đánh giá trang phục của Guru. Cậu chàng mặc một chiếc áo phông màu cam thêu hình hoạt họa nhân vật trong phần tiếp theo của bộ phim Bảy viên ngọc rồng , một chiếc quần soóc kẻ ca-rô và đôi giày thể thao trắng không tì vết mà cậu đã mang vào hôm trước. Guru trông giống như chàng thanh niên trên tấm áp phích của lính thủy ngày xưa. “Lời khuyên thật lòng hả?” Wallis nói, lựa chọn từ ngữ khéo léo nhất có thể. “Cạo đầu khiến em trông có vẻ chín chắn hơn. Không phải một điều xấu đâu. Để phù hợp với tạo hình trưởng thành này, thầy thấy em nên chú trọng cách ăn mặc hơn. Bớt tùy tiện ngẫu hứng, phải… lịch sự, nhã nhặn hơn.”

“Thầy quan sát chuẩn đấy ạ!” Guru nói, gật đầu vui vẻ. “Nhã nhặn, lịch sự. Vậy là không áo phông nữa? Dù cho đẹp thế nào? Em không muốn mình trông quá già dặn.”

“Ý thầy không phải là mặc vest và đeo cà vạt, Guru, mà chỉ đơn giản là chải chuốt lịch sự hơn một chút. Nếu là em, thầy sẽ chọn áo sơ mi, ôm vừa người và có màu sắc trung tính.”

“Thế còn quần soóc ạ?”

“Thật lòng mà nói, thầy sẽ tránh xa các loại quần ngắn nhất có thể.”

“Chỉ mặc quần dài thôi ạ. Được rồi, quần dài. Quần jean thì sao ạ?”

“Quần jean cũng được. Nó hợp với mọi độ tuổi. Nhưng không nên là jean rách, và nên tối màu thay vì sáng màu.”

“Còn giày ạ?”

“Hừm… Em cũng nên bỏ hết mấy đôi giày thể thao đi.”

Guru thất vọng. “Tất cả giày thể thao của em ư….”

“Nếu em thực sự vẫn muốn chúng, nên lựa chọn đôi nào đơn giản thôi. Tuy nhiên, theo thầy, giày da vẫn thích hợp hơn.”

“Chỉ giày da thôi ạ?” Guru lắc đầu. “Thầy ơi, em vẫn chưa sẵn sàng để thay đổi đến thế đâu. Cảm giác cứ như là Tom Hanks trong phim Big ấy.”

Wallis mỉm cười. “Đúng là có hơi nặng nề thật. Thầy hiểu. Nhưng hãy nhớ rằng, đây chỉ là ý kiến cá nhân của thầy thôi nhé. Em hoàn toàn tự do mặc những gì mình thích.”

“Không đâu ạ, lời khuyên của thầy rất hữu ích.”

Wallis cười khẩy, liếc nhìn ba lô của Guru trên sàn nhà. “Em có mang đồ ăn nhanh tới nữa không?”

“Có chứ ạ.”

“Hai ngày liên tiếp rồi. Em nên cân nhắc đến việc ăn uống lành mạnh hơn cho một phong cách sống mới.”

“Em biết là đồ ăn nhanh không tốt cho sức khỏe. Nhưng đó là thứ duy nhất em có thể ăn.”

Wallis nhíu mày. “Em nói vậy là sao?”

“Đồ ăn mẹ nấu là thứ duy nhất em ăn từ bé tới lớn. Em thèm nó kinh khủng. Từ khi qua Mỹ, chỉ có đồ ăn nhanh của McDonald’s là thứ duy nhất mà em cảm thấy thích.”

“Em đã ở đây được hai năm rồi đấy.”

“Đúng ạ, em biết. Chế độ ăn của em không lý tưởng chút nào.” Cậu vỗ về thứ mà trước đây Wallis từng nghĩ rằng đó là bụng bia, nhưng xem ra đó là bụng của McDonald’s rồi.

“Em không tự nấu ăn à?”

“Có, em có nấu ở nhà. Nhưng khi ra ngoài, em chỉ ăn đồ McDonald’s.”

“Có rất nhiều nhà hàng ngon ở xung quanh, Guru. Thậm chí có cả nhà hàng bán đồ Ấn ở cách đây không xa…”

“Ở đại lộ Solano phải không ạ? Em đã đến đó rồi. Nhưng đồ ăn không có vị như mẹ em nấu…”

“Lạy Chúa tôi!” Wallis thốt lên, lắc mạnh đầu, tỏ vẻ không thể tin tưởng nổi. “Một ngày nào đó, Guru, em sẽ trở thành một người đàn ông thành đạt và khỏe mạnh – nhưng chàng trai ạ, bây giờ em đang là một chú vịt lạc đàn.

Thay vì trở về nhà, Roy Wallis lái xe thêm mười hai cây số để tới thành phố lân cận Oakland, sau đó rẽ vào một con phố mua sắm ở Dogtown (Thị trấn chó) – được đặt tên bởi cảnh sát địa phương do số lượng chó hoang nhiều bất thường ở nơi đây. Anh chậm rãi đánh tay lái qua quán bar Emporium nơi Brook làm việc, nhìn xuyên qua khung cửa sổ lớn. Anh không thể nhìn thấy cô trong đám đông hơn hai mươi người. Anh đỗ xe gần đó rồi bước vào quán bar. Nơi này rất có phong cách, gợi nhớ đến tầng hầm của một nhà quý tộc kỳ dị thời xưa, hoặc như một tiệm đồ cổ của một tay chơi những thế kỷ trước. Quán vẫn đông khách như thường ngày, nhân viên quầy bar đang pha chế Greyhounds và Marquee. Wallis đã từng thử Greyhound một lần. Rượu rất nặng và nồng, nhưng anh chỉ thấy rõ vị bưởi tươi. Brook kể với anh rằng quán bar đặt mua bưởi ở những nhà cung cấp khác nhau theo từng đơn hàng, phụ thuộc vào nhà cung cấp nào có thể cung cấp những trái ngọt nhất vào thời điểm đó, Anh hoàn toàn tin cô.

Wallis ngồi lên chiếc ghế cao ở quây bar và gọi một chai bia IPA đắng, Anh vẫn chưa thấy Brook đầu dù chỉ có hai quầy bar mà cô có thể đứng, anh mang bia ra bên ngoài và đứng hút hai điếu thuốc,

“Anh đang làm gì ở đây?”

Wallis đang xuyên qua làn sương dày ngắm nhìn đường chân trời duyên dáng của San Francisco ở phía xa. Anh quay lại và thấy Brook đang đứng sau lưng mình. Đôi lông mày cô nhíu lại, khoanh tay như báo trước một cuộc hòa giải không dễ dàng.

“Đây là cách em chào đón khách hàng của mình sao?” Anh nhẹ giọng.

“Em đang nghiêm túc, Roy. Em không biết anh đang làm gì ở đây.”

“Anh muốn gặp em.”

“Sẽ không có một cô nàng tóc vàng nóng bỏng nào đó nhảy ra từ phía sau bụi rậm hay một gốc cây chứ?”

“Tối hôm đó đúng là rất khó xử, anh thừa nhận.”

“Nói như vậy còn nhẹ chán.” Cô liếc nhìn lại về phía quầy bar. “Em phải quay lại làm việc.”

“Mấy giờ em tan ca?”

“Em chỉ là một cô gái đơn giản, Roy. Em thích anh. Em đã nghĩ anh cũng thích em…”

“Anh có thích em, Brook.”

“Cứ coi như em cổ hủ đi, nhưng khi một người đàn ông và một người phụ nữ thích nhau, và khi trở nên thân mật, họ không nên ngủ với người khác. Mà cô gái ấy là ai?” Brook lắc đầu. “Mà thôi, em không quan tâm. Em cũng chẳng muốn biết. Em cũng không quan tâm dạo gần đây anh đã ngủ với bao nhiêu cô gái…”

“Chỉ có lần đó thôi, Brook,” Wallis chân thành. “Anh và cô ấy từng hẹn hò, nhưng đã chia tay hai năm trước. Anh chỉ mới gặp lại cô ấy vài lần. Chỉ vậy thôi.”

“Chỉ vậy thôi?” Brook nhắc lại một cách mỉa mai. “Việc anh ngủ với người yêu cũ thực sự là vấn đề lớn đối với em.”

“Anh biết, anh hiểu,” anh đáp. “Anh dùng sai từ. Ý anh là, cô ấy không còn quan trọng với anh nữa, còn em thì khác. Anh sẽ không tới đây nếu em không là gì đối với anh.”

Có gì đó thay đổi trong mắt Brook. Hy vọng chăng? “Anh sẽ còn gặp lại cô ấy chứ?”

“Không” anh đáp.

Brook thả lỏng cơ thể. Hai tay cô vẫn bắt chéo trước ngực, nhưng dường như không còn cảm giác cô muốn ném ly rượu gần nhất vào người anh nữa. Cô cắn môi. “Em không biết nữa, Roy…”

“Hôm nay mấy giờ em tan ca?”

“Tới khi đóng cửa.”

“Em có thể nhờ ai thay ca cho mình không?”

“Em không chắc… Có lẽ có thể…”

“Tuyệt! Anh sẽ chờ em ở đây cho tới khi em nhờ được người.”

“Chúa ơi, Roy.” Cô lắc đầu.

“Sao nào?” Anh nói, cười toe toét.

“Anh thật là…”

Cô trở lại vào trong.

Từ năm ngoái đến giờ, hầu hết các sáng thứ Bảy hay Chủ nhật, Wallis đều ghé Emporium để đọc báo, uống một ly latte vani và thỉnh thoảng nhấm nháp một chiếc bánh ngọt. Khoảng hai tháng trước, Brook bắt đầu có thói quen phục vụ anh một ly latte kèm theo một chiếc bánh quy sô-cô-la nhỏ mà anh không đặt. Lúc đầu, anh không nghĩ gì nhiều, và cũng chẳng để tâm lắm. Cho đến năm tuần trước, khi anh ngước lên từ chuyên mục thể thao trên tờ báo đang đọc dở của mình, ánh mắt họ chạm nhau. Cô ăn mặc đơn giản, áo sơ mi và quần bó cùng màu đen, đang lau dọn chén đĩa ở mấy bàn xung quanh. Tuy nhiên, có gì đó đang chớm nở bên trong anh. Anh liếc trộm cô thêm vài lần trước khi ra tính tiền. Thứ Bảy tiếp theo, anh bắt chuyện với cô bất cứ khi nào cô đến gần bàn mình, và trước khi rời đi, anh ngỏ lời mời cô đi ăn tối. Cô có phần lúng túng và từ chối lời mời. Anh kiên trì nài nỉ với cả sự ngang bướng và hài hước thân thiện, cuối cùng cô cũng đồng ý. Họ hẹn nhau ăn tối tại một nhà hàng ở trung tâm thành phố, sau đó xem biểu diễn ca nhạc ở Nhà hát Fox. Đó là một buổi tối không thể tuyệt vời hơn, và sau một vài buổi tối khác, Brook qua đêm tại nhà anh. Kể từ đó, họ gặp nhau ít nhất một hoặc hai lần mỗi tuần.

Wallis uống cạn cốc bia của mình và đang tính gọi thêm một cốc nữa thì Brook xuất hiện.

“Nhanh thật đấy,” anh nói.

“Tối nay không đông khách lắm,” cô đáp, dù anh có thể nhìn thấy đám đông bên trong. “Anh có đặc biệt muốn đi đâu không?”

“Có một quán Tây Ban Nha khá ngon trên đường Grace. Anh thèm ăn tapas cả ngày nay.”

“Tốt thôi. Nhưng anh có phiền ghé qua nhà em một chút để em thay đồ không?”

“Tất nhiên rồi,” anh ngạc nhiên đáp. Anh chưa bao giờ đến nhà cô trước đây.

Hóa ra Brook không sống ở đâu xa – cô ở trong một căn nhà nổi trên vịnh San Francisco.

“Chà!” Wallis cảm thán, ngồi xổm xuống quan sát cấu trúc của căn nhà. “Anh không biết em sống như thủy thủ Popeye đấy!”

“Đừng chế giễu vậy chứ, Roy. Giá của nó cũng bằng hai phần ba giá của căn hộ một phòng ngủ đấy.”

“Anh không chế giễu, anh rất thích căn nhà này.”

Nội thất bên trong tương tự như một căn nhà gỗ miền núi mộc mạc: sàn gỗ, tường gỗ, trần gỗ, tủ gỗ. Cùng đồ đạc treo tường phong phú và thảm trang trí đầy màu sắc, thêm cả mấy món đồ thú vị khác như đĩa nhạc cổ, cây hoa, hộp đựng đàn ghi-ta dựa vào chiếc piano màu đen sáng bóng – làm không gian nhỏ bé trở nên ấm cúng và đầy sáng tạo.

“Không có gì nhiều,” Brook nói với vài phần tự tin. “Nhưng nó rất thoải mái.”

“Quá tuyệt,” Wallis đáp. “Anh có cảm giác như đang trong kỳ nghỉ vậy.”

“Có bia trong tủ lạnh đó. Anh tự lấy nhé. Em sẽ tắm qua một chút.”

“Sao em không xuống vịnh tắm?”

“Hài hước đấy, thưa ngài. Sẽ không lâu đâu.”

“Rõ, thưa thuyền trưởng.”

Brook đảo mắt rồi biến mất vào căn phòng khác trong ngôi nhà nổi, cửa đóng lại sau lưng mình.

Wallis lấy chai bia Bỉ ra khỏi tủ lạnh, mở nắp và uống một hơi dài. Anh đang thèm một điếu xì gà nhưng tự thấy sẽ không an toàn khi hút trong một căn nhà toàn gỗ sồi và gỗ đào như thế này.

Thay vào đó, anh nghiên cứu kỹ lưỡng bức tường phía sau bàn bếp. Nó được lấp đầy bởi những tấm ảnh, hầu hết nằm trong những khung hình đơn giản, vài bức được đinh ghim giữ lại. Một số bức là ảnh chụp chân dung của một người đàn ông và phụ nữ mà Wallis đoán là cha mẹ của Brook. Vài tấm khác là của Brook: một cô bé Brook với đôi mắt to, tóc đuôi ngựa; một thiếu nữ Brook xinh đẹp và ngượng ngùng; hình cô gái ở lễ tốt nghiệp mặc áo choàng cử nhân; hình tiệc tùng với mấy cô bạn gái trong nhà, ngoài trời và trên một cái hồ ở đâu đó. Có năm tấm hình Brook chụp với cùng một người đàn ông, anh ta trạc tuổi cô, đẹp trai và khỏe khoắn.

Wallis nhăn mày. Anh không thường xuyên ghen tuông, nhưng ngay lúc này có một ngọn lửa đang bùng lên trong anh.

Tiếng nước chảy qua đường ống ngừng lại. Vài phút sau, Brook bước ra từ căn phòng bên cạnh với một chiếc khăn trắng quấn quanh người. “Phòng tắm không có đủ chỗ để chứa tủ đồ,” cô giải thích. “Chiếc váy em muốn mặc ở đây.” Cô mở cửa tủ và lấy một chiếc váy màu xanh lam ra khỏi móc treo.

“Ai đây?” Wallis hỏi, chỉ tay về phía người đàn ông trong bức ảnh.

Brook theo anh vào bếp. “Ồ, anh ấy hả,” cô thản nhiên. “Chỉ là một người yêu cũ mà em thỉnh thoảng ngủ cùng thôi.”

Wallis trao cho cô một ánh nhìn sắc lẹm.

Cô cười lớn. “Anh nên nhìn thấy khuôn mặt mình lúc này!”

“Anh ta là ai?” Anh cương quyết hỏi.

“Em trai em, Roy ạ!”

Wallis đỏ bừng hai má vì xấu hổ. “Anh không thấy nét giống nhau giữa hai người.” Anh uống hết chai bia và để chai lên bàn bếp. “Nhân lúc nói về người yêu cũ… Anh không nghĩ mình từng nghe em nhắc đến ai?”

“Anh có hỏi đâu.” Brook nhún bờ vai trần mảnh khảnh của mình. “Anh ấy là người trông coi động vật hoang dã ở Sở thú San Francisco. Sau đó anh ấy được nhận vào làm ở một vị trí cao hơn ở Sở thú San Diego.” Cô lại nhún vai. “Anh ấy chấp nhận nó, em không muốn đi theo nên chúng em chia tay. Nhưng người yêu cũ của em có thực sự là điều anh muốn chúng ta bàn luận bây giờ.”

“Không” ” Wallis đáp, vòng cánh tay qua bờ eo thon gọn của Brook và hôn nhẹ lên đôi môi cô. Anh ngay lập tức cảm thấy một luồng nhiệt chạy ngược lên trong người mình. Anh lướt tay xuống bờ mông căng tròn, xoa nắn phần đùi thon thả rồi lại vuốt lên, bên dưới chiếc khăn tắm. Ngực cô áp sát vào ngực anh.

“Em nên mặc đồ,” cô thì thầm.

“Không” anh đáp.

“Hàng xóm có thể nhìn thấy chúng ta từ cửa sổ đấy.”

Anh phát hiện một công tắc đèn trong tầm tay với, liền vươn tay, đưa họ vào bóng tối. Anh giật mạnh chiếc khăn tắm của Brook và thả nó xuống sàn. Cô đưa tay cởi thắt lưng và kéo khóa quần anh xuống.

Họ hôn nhau dịu dàng nhưng nóng bỏng, di chuyển từ phòng khách lấp lánh ánh trăng đến phòng ngủ lộn xộn, cơ thể họ quấn lấy nhau trong vũ điệu chậm rãi mà gợi cảm.

Họ không đến kịp bữa tối.

Brook thức trắng đêm, nằm trên giường, chống khuỷu tay nhìn Roy Wallis ngủ. Cửa sổ và rèm cửa để mở, mang không khí tươi mát tràn vào căn phòng, ánh trăng bạc bên ngoài chiếu vào lưng anh. Tấm ngực trần của anh nâng lên và xẹp xuống theo từng hơi thở.

Đẹp trai quá, cô ngắm nghía đôi lông mày rậm và hàng lông mi dày, chiếc mũi cao và gò má như được khắc gọt cẩn thận, thêm cả bộ râu dài và đầy đặn của anh. Trong tâm trí mình, cô hình dung anh trên trang bìa của mấy quyển tạp chí thời thượng, với chiếc áo sơ mi kẻ ca-rô và dây đeo buộc qua vai.

Lịch lãm, mạnh mẽ và tri thức.

Rất khác so với người bạn trai trước của cô. Không phải George Goldmark không thông minh, anh rất sáng trí. Chỉ có điều hơi nhàm chán, cả về tính cách lẫn ngoại hình. 1m78, không cao cũng không thấp. Mái tóc màu hạt dẻ, rẽ ngôi trái, phần tóc bên phải được chải phồng và giữ cố định bằng keo xịt tóc giữ nếp tối đa. Dưới gọng kính xám là đội mắt đen, quai hàm nhẵn nhụi và cằm chẻ. Thân thiện nhưng xa cách, bằng lòng trở thành một người ngoài cuộc hơn là muốn tham gia. Giọng nói nhẹ nhàng, lịch sự, luôn khen ngợi – rất nhàm chán.

Mặc cho sự nhàm chán tầm thường này, Brook thực sự rất quan tâm đến George. Anh đối xử tốt và hỗ trợ cô rất nhiều. Anh không dùng chất kích thích hay hút thuốc lá, chỉ thỉnh thoảng uống rượu và không bao giờ say xỉn. Anh cũng không bao giờ thô bạo hay lăng nhục cô. Có thể nói, anh thực sự rất an toàn.

Họ gặp nhau trong khu ẩm thực ở Costco, khi cô vừa kết thúc việc mua sắm và quyết định chiều chuộng bản thân bằng một kem dâu. Đó là một buổi chiều Chủ nhật, siêu thị chật ních người, và George, bưng một khay đầy đồ ăn với bánh mì kẹp thịt gà tây, khoai tây chiên và một ly nước ngọt lớn, đi tới và hỏi cô về việc ngồi chung bàn. Cô không muốn ngồi ăn với người lạ, nhưng vẫn lịch sự gật đầu. Cô tính ăn nhanh cho xong ly kem rồi rời đi, nhưng khác với dự đoán của cô, George không chủ động bắt chuyện. Thay vào đó, anh lấy từ trong túi ra một quyển sổ, bắt đầu viết. Cô thả lỏng hơn một chút và lấy điện thoại ra, như thể mình cũng đang bận rộn làm gì đó.

“Một loại cá nhiệt đới nhỏ, được nuôi phổ biến và có thể sống ở nước lợ?”

“Xin lỗi?” Cô bối rối nhìn lên.

Anh lặp lại mấy từ khóa.

“Cá vàng?” Cô đoán.

“Gồm năm chữ cái, chữ cái thứ ba là L.”

Cô đang định trả lời rằng mình không biết nhưng bất chợt đoán: “Molly?”

“A! Đúng rồi, cảm ơn cô.” Anh viết vội vào phần đáp án. “Là một bác sĩ thú y, cô nghĩ tôi phải trả lời được câu hỏi đó.”

“Thật ra, hầu hết mọi người chỉ đơn giản là thả con cá bị bệnh của mình vào bồn cầu và xả nước, thay vì đưa chúng đến bác sĩ thú y,” cô đáp.

“Họ làm vậy thật á? Nhưng dù sao thì tôi cũng không chữa bệnh cho cá. Tôi làm việc ở sở thú.”

“Sở thú Oakland?”

“Sở thú San Francisco.”

“Tôi đã đến đó khi còn là một đứa trẻ.”

“Đó là một nơi tuyệt vời để dành một ngày với lũ trẻ. Chúng có thể học một vài điều về môi trường và cách bảo tồn nó.”

“Tôi không có con,” cô nói.

“Không?” Anh ngạc nhiên, nhìn vào ngón tay đeo nhẫn của cô. “Tôi xin lỗi, tôi không để ý…”

“Sao anh phải xin lỗi chứ?” Cô xúc thìa kem cuối cùng trong ly của mình rồi đứng dậy. “Chúc may mắn,” cô nói, ám chỉ trò chơi đó chữ.

“Ừm… Tôi là George.” Anh cũng đứng dậy và chìa tay ra. Cô bắt tay anh nhưng không giới thiệu tên của mình. “Nói cho tôi biết tên của cô đi,” anh tiếp tục. “Tôi chưa bao giờ làm bất cứ điều gì như thế này trước đây… nhưng nếu cô muốn một chuyến tham quan sở thú, tôi rất sẵn lòng dẫn cô đi vòng quanh. Nó thực sự là một nơi rất tuyệt để dành một ngày nghỉ đấy. Đây, cầm lấy cái này.” Anh lấy một tấm danh thiếp từ trong ví của mình và đưa cho cô. Cô nhận lấy và liếc nhìn dòng chữ in trên đó.

“Cám ơn anh,” cô trả lời.

Cô chưa từng nghĩ mình sẽ nhận lời mời của George. Nhưng vào tuần tiếp theo, trong một ngày nghỉ của mình, cô tình cờ tìm thấy tấm danh thiếp của anh trong ngăn kéo nhà bếp, nơi cô ném tất cả những thứ linh tinh vào đó. Sau khi nhớ lại cuộc nói chuyện lần trước, cô quyết định gọi cho anh.

Anh nghe có vẻ không giấu nổi phấn khích khi nhận được cuộc gọi từ cô, họ hẹn nhau ở cổng chính của Sở thú San Francisco lúc 10 giờ sáng hôm đó.

Buổi hẹn này là một sự thay đổi thú vị, khác với kiểu đi ăn uống thông thường – ở đây có sư tử, voi và hươu cao cổ ở mọi góc – Brook đã vui đến mức cô nhận lời mời đi ăn tối của George ngay trong tuần đó.

Ba năm chớp mắt qua đi, giờ thì cô đã rời khỏi căn hộ của anh trên đường Grand. Cô biết hầu hết bạn bè của anh và cũng đã gặp cha mẹ anh vài lần. Họ đã nhận nuôi một con mèo từ Hội bảo trợ Động vật, và đặt tên nó là Leo. Họ thậm chí đã bắt đầu bàn về chuyện kết hôn và có con.

Mối quan hệ không phải quá nồng nhiệt theo bất cứ nghĩa nào của từ này. Nó dễ chịu, dễ đoán và đúng, an toàn, không có gì sai với điều đó.

Cho đến khi Brook phát hiện ra George Goldmark là một kẻ hai mặt xảo trá.

Một đồng nghiệp ở Emporium – Jenny Stillwater – vừa ly hôn và đang không ngừng khen ngợi ứng dụng hẹn hò Tinder. Một buổi sáng nọ, khi làm chung ca với Brook, cô nói: “Này, chị có thứ này muốn cho em xem. Có thể là chị nhìn nhầm. Chị hy vọng là mình đã nhầm.”

Nhưng không.

Người đàn ông trên Tinder mà Jenny cho cô xem có tên là George Cohen, nhưng những bức hình chắc chắn là của George Goldmark. Theo thông tin trên tiểu sử thì anh ta vẫn độc thân, có tài chính ổn định và đang tìm kiếm một mối quan hệ nghiêm túc, vân vân và mây mây.

Khỏi phải nói Brook tuyệt vọng đến mức nào, nhưng cô không muốn chìm trong nỗi đau khổ ấy. Cô tan làm sớm, về nhà và vứt hết đồ đạc của George ra khỏi căn nhà nổi của mình vào thùng rác công cộng. Cô từ chối tất cả các cuộc gọi từ anh ta, và khi anh ta chạy tới, cô đã thay khóa cửa mới. Anh ta đập cửa, bối rối và phẫn nộ. Cô ngó lơ cho tới khi anh ta bỏ đi. Anh ta gửi cho cô vài tin nhắn vào tuần tiếp theo, bóng gió rằng anh biết tại sao cô giận nhưng không thừa nhận lý do, và khăng khăng rằng họ có thể cùng nhau giải quyết việc này. Cô xóa tất cả những tin nhắn đó mà không thèm trả lời, và cuối cùng thì anh ta cũng dừng lại.

Cho đến mùa thu năm ngoái, Brook hẹn hò với một huấn luyện viên thể hình hồi tháng Mười hai, một nhân viên xây dựng vào tháng Một, nhưng không ai hợp ý cô,

Rồi Roy Wallis tới.

Chính xác mà nói, anh không tới từ một nơi nào. đó đặc biệt anh ở ngay trong tầm mắt cô, tại quán bar vào mỗi sáng cuối tuần. Luôn ăn mặc lịch sự và chải chuốt, anh khiến mọi người không thể không chú ý đến mình. Brook luôn tươi cười chào đón anh, nhưng có chưa bao giờ cố gắng bắt chuyện. Có gì đó xa cách toát ra từ người đàn ông này khiến cô ngần ngại, khiến cô phải rón rén quanh bàn anh mỗi khi anh đọc báo để không làm phiền đến anh, có gì đó nhắc nhở có về thân phận bởi bàn của mình và không có gì khác.

Đó là lý do tại sao có hoàn toàn choáng váng khi anh mời có đi ăn tối.

Brook có những cảm xúc lẫn lộn khi nghĩ về những gì đã xảy ra tại căn hộ của anh. Họ đã lên kế hoạch cho bữa tối, nhưng cô vẫn chưa xác nhận nó, và bằng cách xuất hiện trước cửa nhà anh mà không báo trước, cô đã xâm nhập vào thế giới riêng của anh. Mặt khác, nếu cô không làm thể, có sẽ không bao giờ biết về người phụ nữ tóc vàng kia. Roy vẫn sẽ tiếp tục ngủ với cô ta sau lưng cô. Mặc dù họ chưa bao giờ đồng ý hẹn hò với nhau một cách rõ ràng, nhưng điều này đối với cô vẫn không tài nào chấp nhận được.

Brook không thích trò chơi tình ái, và cô sẽ không để mình bị tổn thương thêm lần nữa.

Vậy cô đang làm gì trên giường bên cạnh anh?

Anh đã xin lỗi. Anh đã nói rằng mình kết thúc với người phụ nữ kia.

Và cô tin anh?

Đúng.

Roy chợt mở mắt ra, khiến cô giật mình.

“Vẫn chưa sáng phải không?” Anh nói với giọng ngái ngủ.

Cô liếc nhìn đồng hồ phía sau anh trên tủ giường. “Mới 2 giờ sáng.”

“Tốt,” anh đáp, vòng tay qua lưng cô và kéo cô lại gần. Cô tựa má lên ngực anh và lắng nghe từng hơi thở đều đặn.

Cô nhắm hai mắt và cố gắng chìm vào giấc ngủ.