NGÀY THỨ MƯỜI HAI
Thứ Sáu, ngày 8 tháng 6 năm 2018
❖ ❖ ❖
Roy Wallis dành hàng giờ tiếp theo quan sát hai đối tượng tham gia thử nghiệm và ghi chép như thường lệ. Việc giam mình ở phòng quan sát nhỏ 24/7 trong tương lai gần không phải điều lý tưởng, nhưng anh có thể chịu đựng tất cả vì công trình nghiên cứu của mình. Anh mua một chiếc thảm để ngủ ngay tại phòng và giải quyết hầu hết các bữa ăn ở mấy quán gần trường Berkeley. Anh chỉ trở về nhà để tắm rửa và thay đồ, nhưng anh không thấy phiền vì những chuyện đó. Hai người Úc vẫn muốn tiếp tục tham gia thí nghiệm. Mọi việc sẽ ổn thôi.
2 giờ sáng, Wallis băng qua màn đêm ẩm ướt đến bãi đậu xe, đánh lái đến ngay trước cửa tòa nhà Tolman. Anh quay trở lại căn phòng trống ở tầng hầm, nơi anh cất giữ thi thể của Penny, vác theo cái xác được giấu kín trong một bao màu đen, sau đó cẩn thận đi về phía xe, đặt nó nằm ngang trên dãy ghế chật hẹp phía sau.
Anh trượt vào sau tay lái, nhấn nút khởi động và dành chút thời gian nhập điểm đến vào hệ thống định vị GPS. Một phút sau, khi chiếc xe đã sẵn sàng lăn bánh, một tiếng gõ vào cửa sổ khiến anh giật nảy. Anh ngoài đầu sang bên, nhìn thấy khuôn mặt tròn trịa của viên cảnh sát Roger Henn trong khuôn viên trường. Anh ta mỉm cười bên dưới bộ ria mép được cắt tỉa như người đàn ông trên bộ cờ tỉ phủ, vì vậy Wallis không nghĩ anh ta đã nhìn thấy xác của Penny. Hơn nữa, Audi TT là một loại xe thể thao hai cửa, cửa kính phía sau hình tam giác hẹp, rất khó để nhìn thấy bên trong. Nhưng, để đảm bảo, Wallis vẫn bước ra khỏi xe.
“Rodge, chào anh bạn,” Wallis nói, lôi bao thuốc lá từ trong túi ra, cố gắng hướng sự chú ý của người đàn ông to lớn này rời khỏi chiếc xe.
“Anh thế nào rồi, tiến sĩ?” Roger Henn chào hỏi. Chiếc mũ lưỡi trai — in dòng chữ CẢNH SÁT: Đại học California – được kéo thấp quá trán, tạo thành một bóng che trước đôi mắt xanh lục. Hai má anh ta hồng hào và chiếc mũi đỏ ửng như đang say, hơi thở sực mùi kẹo cao su bạc hà.
“Tôi khỏe. Có bắt được mấy đứa học sinh làm trò trong bụi rậm tối nay không?”
“Xịt cay dọa chết chúng rồi.”
Hai người cùng cười phá lên. Wallis châm một điếu thuốc.
“Cuộc thí nghiệm của anh thế nào rồi?” Roger Henn hỏi. “Mà anh đang làm gì dưới đó?”
“Ồ, anh biết đấy, mấy việc mà mọi nhà khoa học đều làm. Cho lũ chuột chạy vòng quanh mê cung và chơi với mấy ống nghiệm sủi bọt.”
“Trong khi lải nhải mấy lời đáng sợ và phô trương kiểu dáng kỳ cục.”
“Chính xác” Wallis bắt chước Gene Wilder trong Young Frankenstein, dang tay và nói: “Nó còn sống!”
Họ lại bật cười.
“Còn anh thì sao, Roger?” Wallis hỏi. “Một đêm yên bình chứ?”
“Chúng tôi có một thằng khốn đang tạm giam ở đồn,” Henn đáp. “Tên đó một kẻ móc túi, anh phải nghe hắn kể về mấy ngày cuối tuần của hắn cơ. Bắt chuyến tàu địa phương đến sân bay quốc tế San Francisco vào sáng thứ Bảy, đi khắp nơi móc túi. Tại sân bay, mua một bịch bao thư và tem, gửi mấy thứ mà hắn gọi là của nhặt được về địa chỉ nhà mình. Sau đó, làm một chuyến tham quan ở phòng chờ trước khi lên một chuyến bay giá rẻ đến Phoenix, Sante Fe và cả Topeka chết tiệt nữa – bất cứ nơi đâu mà hắn ta muốn dừng chân trong một hoặc hai ngày, vẫn tiếp tục trộm vặt và gửi tiền về nhà, để không một đồng nào được tìm thấy nếu hắn bị bắt. Hắn ta nói mình không bao giờ bị bắt, bởi nếu ai đó nhận thấy mình bị móc túi, hắn sẽ ngay lập tức thả rơi chiếc ví và còn chỉ cho người chủ, như thể nó chẳng may bị rớt, và hắn ta là một người qua đường tốt bụng. Hắn ta không đếm xuể số người đã cám ơn anh ta vì lý do như thế.”
Wallis gõ nhẹ cho tàn thuốc rơi xuống. “Vậy hắn ta làm sao lại bị bắt?”
“Lái xe sau khi uống rượu.”
“À ha. Nỗi khổ của cảnh sát tuần tra đêm. Nhắc mới nhớ, tại sao một cảnh sát điều tra lại mắc kẹt ở mấy vụ như thế này?”
Henn nhún đôi vai cường tráng của mình. “Chúng tôi có chính sách giao ca. Nhiệm vụ tuần tra được giao dựa vào thâm niên.”
“Nhưng anh đã bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? 35? Hay 36? Anh phải có kha khá năm trong nghề rồi chứ hả?”
“37, và đúng là thế. Nhưng tôi không ngại làm việc này. Ít ra không phải mấy cuộc gọi báo cáo tào lao, và hầu hết mấy cậu cảnh sát trẻ ít nghi ngờ về cuộc sống hơn mấy ông già đời. Nhưng đúng là như thế đấy. Anh ta ngáp dài. “Thỉnh thoảng tôi cũng mệt muốn chết.”
“Bởi vì anh đang làm việc trái với tự nhiên, Rodge. Con người là sinh vật ban ngày. Chúng ta không được sinh ra để thức đêm và ngủ ngày. Nó trái với đồng hồ sinh học của chúng ta.
“À, phải rồi, anh là tiến sĩ về giấc ngủ mà. Có gợi ý nào để tôi bớt mệt mỏi hơn không?”
“Có chứ, ngủ đủ giấc.”
“Nói dễ hơn làm. Anh đã từng thử ngủ ngày chưa?”
“Não bộ của chúng ta có thể được điều khiển để đi vào giấc ngủ dưới điều kiện thích hợp. Kéo kín rèm cửa, hoặc bịt mắt. Cả bịt tai nữa, phòng khi hàng xóm quyết định kéo máy cắt cỏ vào giữa giấc ngủ của anh.”
“Được thôi, tôi sẽ thử làm thế, tiến sĩ. Hàng xóm nhà tôi có con chó không bao giờ chịu im miệng.”
“Ông cũng có thể thử điều chỉnh độ sáng của đèn. Chọn mấy loại công suất thấp ấy, hay thậm chí cả mấy cái đèn màu đỏ.”
“Ồ, không! Tôi sẽ không biến nhà mình thành nhà chứa đâu.”
“Thì anh đang hỏi ý kiến của tôi mà.”
“Tôi dùng bịt mắt và bịt tai là được rồi.”
Wallis giẫm điếu thuốc dưới mũi giày. “Vậy nhé, Rodge. Cuộc nói chuyện rất thú vị, nhưng tôi phải về rồi. Chúc làm việc vui vẻ.”
Roger Henn tiếp tục cuộc tuần tra của mình về hướng đông dọc theo đại lộ Hearst, và Wallis quay trở lại chiếc Audi, hài lòng vì biểu hiện bình tĩnh của bản thân trong suốt cuộc nói chuyện với viên cảnh sát, với thi thể của Penny chỉ cách đó vài bước chân.
Xoay bánh lái một đường chữ U, Wallis rời khỏi Berkeley và lái về phía tây dọc theo xa lộ liên tiểu bang 580. Nửa tiếng sau, anh lái xe qua nhà tù nơi Johnny Cash thu âm trực tiếp một album, và tiếp tục đi dọc đại lộ Sir Francis Drake tới công viên tiểu bang Samuel P. Taylor.
Anh từng là một chàng thanh niên thích những hoạt động ngoài trời, và anh đã phát hiện ra công viên này một cách khá tình cờ cách đây hơn chục năm khi lái xe đến bờ biển Quốc gia Point Reyes. Nó nhanh chóng trở thành điểm đến yêu thích của anh vào những ngày cuối tuần cắm trại một mình, đi bộ đường dài và đạp xe leo núi. Anh không thể nhớ lần cuối cùng mình tới đây là bao giờ, nhưng ít nhất cũng phải hơn năm năm về trước.
Theo truyền thuyết, Wallis nhớ công viên này được đặt tên dựa theo Samuel Penfield Taylor, một người giàu có phất lên trong Cơn sốt vàng ở California và dùng vàng của mình để mua một lô đất dọc con sông Lagunitas, nơi ông ta xây dựng nhà máy giấy đầu tiên trên bờ biển Thái Bình Dương. Khi tuyến đường sắt bờ biển Bắc Thái Bình Dương được mở rộng đến gần đó, doanh nhân Taylor đã xây dựng một khu nghỉ dưỡng dọc tuyến đường, phục vụ cho những người San Francisco mệt mỏi vì cuộc sống xô bồ nơi thành phố. Sau khi Taylor qua đời, chính quyền bang California đã lấy tài sản của ông với lý do không đóng thuế, người dân ghi nhớ công lao của ông và dùng tên ông đặt cho công viên này.
Wallis đỗ chiếc Audi cách lối vào khu cắm trại Taylor khoảng một dặm về phía Tây. Vào giờ này, không có một chiếc xe nào quanh đó. Anh vác xác của Penny ra khỏi ghế sau. Anh thầm cảm ơn hiện tượng đông cứng thi thể đã giúp anh dễ dàng khiêng cơ thể cô lên vai chẳng khác nào một túi đựng khoai tây.
Anh biết phía bên kia con đường dẫn đến Devil’s Gulch, nhưng anh không có ý định đi dọc lối mòn đó. Thay vào đó, anh rẽ về phía Tây, hướng tới cánh rừng già.
Những thân cây gỗ đồ cao chót vót chặn mọi ánh sáng từ bầu trời xuyên qua đám mây chiếu xuống mặt đất, nhưng ánh sáng đèn pin từ điện thoại của anh cũng đủ để chiếu sáng lối đi. Mặc dù anh khá khỏe mạnh, còn Penny thì gầy và nhẹ, nhưng việc bước đi không hề dễ dàng. Những con dốc đứng và lạch quanh co cản bước chân anh chậm lại, làn sương mù nhẹ bao phủ từng gốc cây, hòn đá, khiến anh nhiều lần vấp ngã. Dù chỉ mới di chuyển được mười phút nhưng anh đã thở hổn hển, toàn thân đầm đìa mồ hôi. Sau mười phút nữa, anh phải dừng lại để lấy hơi thở. Tuy nhiên, giờ không phải lúc để được phép lười biếng hay chậm chạp, Càng giấu thi thể sâu trong rừng bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.
Cuối cùng, anh dừng lại sau khoảng ba mươi phút ròng rã, cho rằng mình đã đi đủ xa. Anh vùi thi thể Penny vào trong đống lá rụng, sau đó thở hắt. Lau mồ hồi trên trán, mắt và lắc đối vai cùng cánh tay mỏi nhừ, anh rút ra một con dao mang đi từ nhà. Trước đây anh chỉ dùng nó để cắt dây thừng và làm cá. Tối nay, nhiệm vụ của nó sẽ hơi khác, và trong chốc lát, anh nghĩ rằng mình không có đủ can đảm để chặt đầu cái xác. Nhưng anh biết đây là một việc bắt buộc. Anh không có xẻng, và cũng không tính sẽ đi mua nó vào giữa đêm. Ngay cả khi anh tìm thấy một nơi vẫn còn bán nó vào thời điểm này, anh sẽ phải sử dụng tiền mặt để tránh ghi lại dấu vết trên hóa đơn, hay lưu lại những giao dịch trong hệ thống ngân hàng, và nó sẽ khiến mọi thứ trở nên thật đáng ngờ. Người bán hàng sẽ nhớ mặt anh và có thể sẽ thông báo cho cảnh sát. Anh cho rằng mình có thể đợi đến sáng và đi tới cửa hàng bán vật dụng dành cho nhà cửa, nhưng ở đó có camera an ninh, và việc bị camera quay lại còn tệ hơn so với lời khai của bất kỳ nhân chứng nào.
Hơn nữa, anh cũng chẳng cần xẻng. Công viên đầy thú ăn thịt. Gấu đen, cọp Mỹ, cáo xám và linh miêu, chúng đều là những ứng cử viên có tiềm năng, sẵn sàng nhảy bổ vào bữa ăn miễn phí này. Và Penny trong bụng một con gấu sẽ tốt hơn Penny bị chôn vùi dưới đất, nơi nếu bị phát hiện thì cái xác vẫn có thể được nhận diện.
Vấn đề là cái đầu của cô ta.
Nó quá to để lũ động vật xơi tái, dù là tất cả những nhân tố xung quanh và sự phân hủy ăn mòn nó thành một hộp sọ theo thời gian, công nghệ pháp y ngày nay vẫn có thể tái tạo lại cấu trúc mặt của cô ta.
Cho nên, anh phải xử lý cẩn thận.
Wallis cúi người xuống, bắt đầu công việc kinh hoàng là tách phần đầu đầy tóc của Penny ra khỏi cơ thể. Lưỡi dao bằng thép dài gần mười bốn phân sắc lẹm khiến việc này trở nên dễ dàng hơn, ngay cả khi nó cắt đứt đốt sống cổ, mặc dù máu đã kịp bắn tung tóe lên tay anh.
Wallis đứng dậy, cảm giác nhộn nhạo dấy lên trong dạ dày. Anh hít sâu vài lần để kìm nén cảm giác buồn nôn này.
Wallis dùng một mảnh vải nhấc đầu của Penny và đi ngược trở lại một trong những con lạch mà anh đã đi qua trước đó. Anh đặt đầu trên bờ, sau đó lội xuống để kiểm tra độ sâu. Điểm sâu nhất chạm đến gần vai anh, đủ tốt. Anh lau sạch vết máu trên tay rồi quay trở lại bờ. Vi khuẩn trong dạ dày và ngực của người chết sẽ tạo ra đủ khí để khiến cơ thể nổi lên bề mặt nước. Điều này cũng tương tự với một cái đầu. Cho nên, để an toàn, Wallis nhét đầy đá vào miệng của Penny, rồi ném nó ra chỗ sâu nhất ở giữa con lạch.
Nó chìm ngay trong phút chốc, Wallis thỏa mãn quay trở lại xe của mình vì đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Anh trở về căn hộ áp mái của mình khi bình minh đang tô vẽ trên bầu trời vừa được gột rửa sau một cơn mưa, tựa màu hổ phách, màu mơ và màu đỏ châu sa.
Anh tắm rửa và thay đồ, dự định sẽ ra ngoài mua một số vật dụng cần thiết cho những ngày tới, nhưng chiếc giường cỡ lớn của anh quá đỗi cám dỗ.
Chỉ một tiếng thôi , anh tự nhủ trong giây phút yếu lòng, nằm up xuống chiếc đệm êm ái.
Anh mơ thấy công viên Samuel P. Taylor vào ban ngày, cánh rừng vẫn yên tĩnh và bất động. Anh đang nhanh chóng băng qua bóng tối được phủ lên bởi đám gỗ rừng khổng lồ ven biển, liếc nhìn qua vai để tìm kiếm kẻ vô hình đang đuổi theo mình. Một màn sương mù dày đặc lan ra từ hư không, và trong đó, một nhà thờ đá xập xệ mọc lên từ gốc cây mục nát. Những bức tường đá bị nứt và vỡ vụn khắp nơi, một làn khói trắng gần như lẫn vào sương mù bay lên từ ống khói của nhà thờ.
Anh len lỏi vào bên trong qua kẽ hở của gốc cây lởm chởm. Không gian bên trong rộng lớn hơn nhiều so với việc nhìn từ bên ngoài, anh vội và băng qua sảnh cầu nguyện rồi ẩn nấp dưới chiếc bàn phủ khăn. Ngay cả khi anh đang trốn, không khí bên ngoài vẫn đang chuyển động và đặc lại, tụ thành một đám đen. Sau khi lấy hết can đảm để lén nhìn ra từ bên dưới tấm vải phủ bàn, anh thấy mình đang bị bao quanh bởi một khoảng không tối đen vô tận, rộng lớn tới nỗi ngay cả những cây gỗ đỏ cao nhất cũng trở nên nhỏ bé như những chiếc tăm. Nhưng anh không có một mình, một con quái vật khổng lồ không có hình thù rõ ràng cũng đang ở đó, và anh biết rằng thời gian của mình sắp hết…
Wallis giật mình tỉnh giấc trong hơi thở hổn hển. Bóng tối choán hết căn phòng, khiến anh mất phương hướng. Lúc anh nằm xuống trời vẫn còn sáng, chẳng lẽ anh đã ngủ cả ngày.
Wallis ngồi dậy và nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Đã 8 giờ 30 tối.
“Chết tiệt” Anh chửi thầm. Sau đó, một thước phim sinh động chiếu lại trong đầu anh, anh nhớ tới chuyến hành trình của mình vào nửa đêm hôm trước, và cả việc anh đã làm với thi thể của Penny, sau đó liên tục chửi thề trong hối hận.
Wallis vào phòng tắm, tạt nước lạnh lên mặt, đánh răng rồi quay trở lại phòng ngủ. Anh cầm điện thoại lên, đang đi ra cửa trước thì nhận thấy có một cuộc gọi nhỡ từ Brook.
Anh dừng lại ở phòng khách và đấu tranh suy nghĩ. Sau đó bấm số gọi lại cho cô.
Brook nhấc máy ở tiếng chuông thứ hai. “Chào anh,” cô nói, không thể hiện rõ sự vui mừng hay buồn bã khi nghe giọng anh. Chỉ mới một ngày trôi qua kể từ hôm qua, khi cô ở đây và Penny tự tiện ghé quá. Vậy mà nó dài như cả một thế kỷ.
“Chào em,” anh nói, cố gắng tỏ ra vui vẻ hơn cảm xúc thật của minh. “Anh đã bỏ lỡ cuộc gọi từ em.”
“Em xin lỗi, em không nên làm phiên anh khi anh làm việc.”
“Bây giờ anh không làm việc,” anh nhanh chóng đáp lại. Anh biết minh phải đến Tolman ngay lúc này. Cuộc thí nghiệm đã không được giám sát hơn mười tám tiếng tới. Tuy nhiên… anh đang rất suy sụp và lo sợ, và giọng nói của Brook khiến anh bình tâm lại. Anh muốn gặp cô, muốn cảm giác quen thuộc, thân thương mà có mang lại, ngay cả khi đó là một sự quen thuộc giả tạo, bởi vụ sát hại Penny sẽ mãi là vết nhơ trong tâm thức của anh. “Em đang làm gì vậy?” Anh hỏi.
“Nhấm nháp một ly rượu và nhìn ra vịnh.”
“Nghe thật thú vị.”
Brook ngập ngừng một lúc rồi nói: “Sẽ thật tốt nếu có anh ở đây?
Wallis không trả lời.
“Roy?”
“Anh chỉ đang nghĩ… em đã ăn tối chưa?”
“Rồi, nhưng em có thể ăn thêm, thứ gì đó nhẹ nhẹ.”
“Vậy nhà hàng Izakaya ở đường San Pablo thì thế nào? Nó không quá xa từ nhà em.”
“Chúng ta cần phải đặt bàn trước.”
“Anh quen người chủ ở đó. Anh ta có thể để cho chúng ta một bàn. Nửa tiếng nữa nhé?”
Wallis lướt nhanh qua cây cầu nối giữa San Francisco và vịnh Oakland trên chiếc Audi mui trần, tận hưởng tiếng gió gào thét bên tai và bầu trời đêm rộng lớn trên đầu. Mặt trăng soi sáng, tròn đầy giữa những vì sao rải rác.
Đỗ xe ở trung tâm thành phố Oakland, Wallis đi bộ qua vài dãy nhà để đến Izakaya. Nỗi lo lắng, bồn chồn vẫn xâm chiếm toàn bộ cơ thể anh, anh sợ rằng Brook có thể đọc ra từ trong mắt anh những gì anh đã làm. Điều này tất nhiên nghe thật vô lý, chỉ là cảm giác tội lỗi khiến anh không thể điều khiển nổi suy nghĩ của mình, và anh phải tự nhủ hàng trăm lần rằng hãy bình tĩnh lại.
Nữ nhân viên phục vụ – một cô gái châu Á mặc trang phục ninja thời kỳ Edo với băng đô, bộ quần áo vải đen rộng và đôi dép gỗ xỏ ngón – dẫn anh tới một chiếc bàn ở góc. Brook vẫn chưa đến, anh nhân cơ hội này gọi một ly đồ uống. Nhà hàng này không có rượu rum, nên anh đã gọi một bình sake 350ml. David, chủ quán, bước ra từ bếp và chào đón anh. Họ biết nhau sau một vài cuộc trò chuyện xã giao nhờ số lần Wallis đã bảo trợ cho nhà hàng trong những năm qua.
Khi người phục vụ mang rượu sake ra, David quay trở lại bếp và Wallis yêu cầu thêm một bình nữa. Nữ nhân viên không có phản ứng gì đặc biệt.
Nhà hàng Izakaya hơi tối, mang phong cách tối giản và không lớn lắm. Tất cả các bàn đều có những vị khách trung niên giàu có, đang thưởng thức bữa ăn mà không có lũ trẻ. Mùi thơm của món tempura chiên giòn và nước xốt teriyaki, cùng thịt ba chỉ nướng ngào ngạt khắp không gian, Wallis nhận ra rằng mình đã không ăn gì kể từ chiều hôm qua.
Mười phút sau, Brook đến trong chiếc váy dài thướt tha cùng đôi xăng-đan. Phục vụ đã dọn một bình sake đi, giờ chỉ còn lại một bình đã vơi nửa trên bàn.
“Xin lỗi, em tới trễ,” cô nói. Anh đứng dậy, họ trao nhau một nụ hôn nhẹ và cùng ngồi xuống. “Em không quyết định được nên mặc gì.”
“Em rất đẹp,” anh khen.
“Anh cũng luôn rất bảnh bao.”
“Thật dễ dàng khi tất cả những gì anh phải làm là mặc một chiếc áo khoác.”
Wallis rót cho cô một ly sake, rồi gọi thêm một bình nữa, cùng với vài món như dưa chua tự làm, đậu edamame, tempura nấm và thịt bò xiên.
“Cạn ly,” anh nói, nâng ly lên và uống.
“Em chỉ muốn nói với anh rằng,” Brook nói, “em không tức giận về chuyện đêm qua. Em có thể đã làm quá lên vì hành động bỏ về nhà. Em không thể trách anh khi cô trợ lý của anh say nắng anh. Em cũng say mê anh. Chỉ là…”
“Em không cần giải thích mà, Brook,” anh an ủi. “Và bây giờ em có lẽ sẽ vui khi biết rằng anh đã đuổi cô ta ra khỏi cuộc thí nghiệm.”
“Anh đuổi cô ấy? Trời ơi, Roy, anh không cần phải làm như vậy!”
“Có, anh nên làm thế. Việc cô ta đến nhà anh như vậy chẳng hay ho chút nào. Cô ta đã điều tra địa chỉ của anh trên mạng hay đại loại thế. Đây là một dạng bám đuôi.”
“Ừm… miễn là anh nghĩ điều đó là nên làm, và nó không phải là từ phản ứng của em.”
“Đó là điều anh phải làm,” anh khẳng định. “Tuy nhiên, anh sẽ phải làm thay tất cả những ca làm tám tiếng của cô ta, có nghĩa là anh sẽ không có nhiều thời gian rảnh cho tới khi cuộc thí nghiệm kết thúc.”
“Khi nào, tuần sau hử?”
Wallis đã kể với Brook về thời gian của cuộc thi nghiệm là 21 ngày, cũng như anh nói với Penny, Guru và hai người Úc, nhưng thực tế là nó sẽ kéo dài cho tới khi cần thiết, để chứng minh hoặc phủ định giả thuyết mang tính đột phá của anh.
Dù vậy, anh vẫn trả lời: “Đúng, khoảng một tuần nữa.”
Cô bĩu môi, vờ giận dỗi. “Vậy em sẽ làm gì khi không có anh?”
“Này, anh có cái này cho em. Hãy nhắm mắt lại đi.”
“Thật hả?” Cô mỉm cười, nhắm mắt lại.
“Đưa tay cho anh.”
Cô chìa lòng bàn tay của mình ra. “Được rồi.”
Wallis lấy từ trong túi áo mình ra chiếc nhẫn mà Beverley St. Clair đã làm cho anh. Anh cố thử đeo nó vào ngón tay giữa nhưng có chút chật, nên thay vào đó, anh đeo nó vào ngón đeo nhẫn của cô.
“Được rồi,” anh nói.
Brook mở mắt, ánh lên niềm vui sướng khi nhìn thấy chiếc nhẫn. “Ôi, Roy!” Cô cảm động, đưa tay lên trước mặt để chiêm ngưỡng món đồ trang sức. “Đẹp quá! Nó thực sự rất đẹp.
Chiếc nhẫn làm bằng bạc có gắn một viên đá thạch anh màu xanh lá. Trên góc trái của viên đá quý là một chú bọ rùa vàng hồng 18 karat, như thể đang đậu trên mép lá.
“Anh không chắc về kích cỡ ngón tay của em…
“Nó vừa khít.” Cô nắm lấy cả hai bàn tay anh và siết chặt một cách chân thành. “Cám ơn anh, Roy. Em nghĩ là mình sẽ không tháo nó ra.”
Nhân viên phục vụ đi tới với bình sake thứ ba cùng đồ ăn. Wallis gọi thêm vài món, hai người hoàn thành bữa ăn trong vòng một giờ hoặc hơn một xíu. Trong suốt bữa ăn nhàn nhã, Brook và anh nói về tất cả mọi thứ có thể nói tới. Cuộc nói chuyện rất dễ chịu và vui vẻ. Họ có mối liên kết rất tự nhiên. Họ có cùng sở thích, có cùng khiếu hài hước. Tuy nhiên, điều mà Wallis trân trọng nhất trong thời gian ở bên Brook là cách cô khiến tâm trí anh được bình yên. Cuộc sống của cô rất đơn giản, điều đó khiến con người cô cũng vậy, nhưng theo một cách rất đáng yêu. Cô như bỏ bùa anh. Cô không giả tạo, không làm quá vấn đề. Cô không có hoài bão gì quá lớn trong cuộc đời và cũng không có ước mơ gì xa xôi. Cô có công việc của mình, một công việc mà cô yêu thích; cô có những người bạn chân thành và thực tế, những người mà anh đã có cơ hội được gặp; cô còn có căn nhà nổi nhỏ bé, nơi có rất quý trọng; và cô có sức khỏe.
Cô sống ở thực tại, không phải trong những mộng tưởng, và anh cảm thấy mình không những bị hấp dẫn bởi những điều này mà còn cả ghen tỵ nữa.
“Dự báo thời tiết nói trời sẽ mưa một lượng đủ cho cả tháng trong tuần tới,” Brook lên tiếng, lấy miếng đậu edamame cuối cùng từ đĩa và cắn hạt đậu nành từ vỏ. “Sẽ có ba cơn bão trong bảy ngày. Anh có tin nổi không?”
“Những cơn bão lớn như trong mùa đông?” Anh hỏi.
“Không đến mức đó, nhưng trời sẽ mưa không ngừng.”
“Cũng tốt, anh sẽ chỉ làm ổ bên trong Tolman thôi.”
“Em rất tò mò về nó.”
“Vậy thì phải nhanh lên. Tòa nhà sẽ bị dỡ bỏ vào cuối mùa hè này.”
“Ý em là thí nghiệm của anh cơ.
Wallis chớp mắt ngạc nhiên. “Thật sao?”
“Đúng thế, em có thể không?”
“Không có gì đáng xem đâu. Chỉ là hai người sống cô lập trong một căn phòng thôi.”
“Em biết anh không thích nói nhiều về nó, Roy, nhưng em thực sự muốn xem. Em sẽ phát điên nếu không ngủ đủ tám tiếng mỗi đêm. Còn những chú chuột của anh đã trải qua chuyện như vậy tới hai tuần rồi.”
Wallis can ngăn. “Anh không biết, Brook… Anh không phải đang làm một buổi công diễn kỳ quái, một đồng một vé.”
“Em sẽ không can thiệp tới bất cứ thứ gì, em thề đó. Không phải anh nói là có cửa kính hai chiều sao? Vì vậy họ thậm chí còn sẽ không nhìn thấy em nữa.”
“Khi nào em muốn tới?”
“Chúng ta cũng không có gì để làm ngay bây giờ.”
Wallis ngẫm nghĩ một lát, rồi chuốc cạn ly rượu.
“Được rồi,” anh quyết định, dùng khăn giấy lau miệng. “Đi thôi.”
“Chúa ơi!” Wallis thốt lên ngay khi họ bước chân vào phòng quan sát.
“Ôi trời… kia là?” Brook quay lưng lại, như đang nôn mửa.
Wallis không thể rời mắt khỏi cửa sổ quan sát. Một hoặc cả hai người Úc đã xé hàng trăm trang giấy từ những cuốn sách trên giá, và dùng phân để dính nó lên mặt kính. Những tờ giấy dán kín toàn bộ tấm kính khiến anh không thể nhìn được vào bên trong.
Anh ấn nút Trò Chuyện trên bảng điều khiển. “Này, hai người….” Anh nói, giọng điệu lên xuống như thể một câu hỏi.
Họ không đáp lại.
Brook bước đến và đứng bên cạnh anh. Cô không nói gì.
“Chad?” Anh thử lại. “Sharon? Có chuyện gì trong đó vậy?”
Anh nghe thấy những tiếng thầm thì đáng ngờ và điệu cười điên dại.
“Roy..?” Brook lên tiếng, một cách thận trọng.
“Điều này chưa từng xảy ra trước đây,” anh nói.
“Đây là một trò đùa đúng không? Sao họ lại… làm thế.”
“Họ đang trải qua ảo giác nhẹ. Đây có thể là một trong những biến đổi trong nhận thức sai lệch của họ.”
Wallis nghĩ tới ảo giác của Chad, về những cái nấm mọc trên đầu và gật gù.
“Em không thích điều này, Roy” cô nói thêm. “Chúng ta có nên… em không biết… chúng ta có nên giúp họ không?”
“Không”” anh đáp lại một cách gay gắt, như thể đang trải qua cảm giác déjà vu. Tuy nhiên, anh nhanh chóng gạt bỏ suy nghĩ về việc sẽ làm với Brook như bị kịch với Penny. Brook không bốc đồng, không trung thành, hay bị thúc đẩy bởi tư lợi. Cô sẽ không bao giờ đâm sau lưng anh. “Ý anh là, không phải ngay lúc này,” anh nói thêm. “Anh sẽ theo dõi bọn họ thêm một vài ngày, để họ ra ngoài hít thở không khí trong lành, cho họ chút thời gian để giải toả đầu óc.”
“Anh nghĩ đó là tất cả những gì họ cần hả? Những gì họ đang làm.”
“Anh chắc chắn chín mươi lăm phần trăm rằng đó là tất cả những gì họ cần, Brook ạ. Có lẽ anh còn nên dẫn họ đi ăn kem?” Anh mỉm cười. “Dù sao đi nữa, nếu vì một lý do nào đó mà họ không trở lại bình thường được, anh sẽ đích thân đưa họ tới Hội nghị thượng đỉnh Alta Bates. Tất nhiên, sức khỏe của họ là điều tối quan trọng.”
“Anh không muốn em ở lại với anh cho đến khi chắc chắn rằng mọi thứ đều ổn…”.
“Mọi thứ vẫn ổn, Brook.” Anh lại cười, chỉ riêng lần này tươi sáng hơn. “Hãy tin anh. Anh sẽ dành tám tiếng mỗi ngày để ở với họ trong hai tuần cuối cùng. Anh hiểu họ mà. Họ chỉ cần ra khỏi căn phòng đó một lát. Còn bây giờ, sao không để anh đưa em về nhỉ? Đã muộn rồi, sáng mai em phải đi làm không?”
“Vâng, được ạ. Em nghĩ… ừm, em sẽ không thể gặp anh cho tới hết tuần sau phải không?”
Wallis hôn nhẹ lên má cô và dẫn cô ra khỏi phòng quan sát. “Hy vọng rằng chúng ta có thể sắp xếp được thời gian trước đó. Có lẽ em có thể quay trở lại sau vài ngày để nhìn hai người họ khi đã trở lại bình thường, đọc sách và xem ti vi?”
“Vâng, em mong chờ việc đó.” Họ bước lên bậc thang tiến về phía cổng chính. “Cảm ơn anh vì buổi tối tuyệt vời ngày hôm nay, Roy.” Brook cười ẩn ý, nhìn qua vai về phía căn phòng họ vừa đi ra. “Ý em là, nó thực sự đã rất tuyệt vời… cho tới khi gặp chuyện kia.”
“Em thì thoát khỏi nó dễ dàng,” anh nói, cười lớn. “Anh mới là người ở lại nghĩ cách xem phải dọn dẹp như thế nào.”