← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ MƯỜI BA

Thứ Bảy, ngày 9 tháng 6 năm 2018

❖ ❖ ❖

Sharon rất vui vì họ không thấy được cô nữa. Sự thăm dò, quan sát của họ khiến cô phát điên. Tay cô toàn mùi phân, cả căn phòng thí nghiệm này cũng vậy, nhưng sự riêng tư này xứng đáng để đánh đổi. Cô cảm thấy vui sướng với thành quả mà cô và Chad đã làm… Vui đến độ choáng váng và tự do.

Họ không thể thấy mình! Họ không thể thấy mình! Họ không thể thấy mình!

Một tràng cười khúc khích thoát ra từ cổ họng cô.

Chad, từ phía bên kia căn phòng, liếc nhìn cô. Cô nghĩ anh ta sẽ bắt đầu rống lên như anh ta vẫn làm, nhưng thay vào đó, anh ta cũng khục khặc cười.

Cô bò về phía anh ta bằng cả tứ chi.

“Họ không thể thấy chúng ta!” Cô thì thầm.

“Mẹ kiếp chúng nó!” Anh nói.

Cả hai cùng cười hí hửng.

“Chad…?” Cô nói nhỏ.

“Gì…” Anh đáp.

“Anh có nghe thấy tiếng gì không…”

“Có.”

“Không phải tiếng từ cái loa…”

“Không…”

“Chúng tới từ bên trong tôi…

“Tôi cũng thế…”

“Chúng muốn tôi làm… vài thứ…”

“Tôi cũng thế.”

“Chúng muốn… ra…”

“Tôi biết…”

“Chúng ta có nên để họ ra….”

Anh bắt đầu cười phá lên, nhanh tay che miệng mình lại, và chỉ sau ít phút quan sát anh ta, cô cũng làm theo.

Chad và Sharon từ chối giao tiếp với Wallis, và tất cả những gì anh có thể nghe thấy qua micro loa thu âm trên trần nhà là tiếng đi lại và thỉnh thoảng là những tiếng cười thầm kín.

Anh không biết liệu họ có còn đeo chiếc đồng hồ thông minh mà anh đã đưa cho họ không, hay chúng đã bị tắt, hoặc hết pin, bởi bảng điều khiển không thể ghi lại nhịp tim hay huyết áp của họ nữa.

Anh một lần nữa nhấn nút Trò Chuyện, nhưng lần này, anh nói: “Hai vị? Tôi sẽ đi vào trong đó, được chứ? Chỉ để kiểm tra rằng mọi thứ vẫn ổn.”

Tiếng cười chói tai vang lên.

Wallis đi tới trước cánh cửa căn phòng thí nghiệm ngủ.

Nó không hề nhúc nhích.

Anh cố gắng vặn tay nắm cửa một lần nữa, nhận ra rằng cửa đã bị chặn từ bên trong, anh dồn lực vào vai đẩy mạnh cánh cửa.

Không có tác dụng.

Họ đã chặn cái quái gì ở trước cửa vậy?

Anh quay trở bàn làm việc và ngồi xuống. Mặc dù bực bội vì không thể quan sát trực quan những gì đang diễn ra bên trong, nhưng anh có cảm giác kích động kỳ lạ.

Cuộc thí nghiệm về giấc ngủ đang bước vào giai đoạn mới.

1 giờ 43 phút sáng hôm đó, Sharon bắt đầu la hét.

3 giờ sáng cùng ngày, tiếng la hét và khóc lóc của cô dừng lại.

Nửa giờ sau đó, sau khi cố gắng nói chuyện với hai người Úc nhiều lần, Wallis gọi điện thoại.

“Thầy Roy?” Giọng Guru Rampal vang lên, ngái ngủ.

“Thầy cần em tới tòa nhà Tolman. Ngay bây giờ.”

Ngay khi đặt chân vào căn phòng, Guru Rampal đứng khựng lại ngay tại chỗ, như thể có một bức tường chắn trước mặt. “Lạy Chúa!” Cậu ta thốt lên, nhìn chằm chằm vào cửa kính quan sát. “Họ đã làm gì vậy?”

Wallis đứng lên và nhường ghế cho Guru. “Ngồi xuống đi, Guru. Chúng ta cần nói chuyện một chút.”

Cậu ngồi xuống ghế, khuôn mặt nhăn nhúm. “Em đã làm gì sai phải không, tiến sĩ?”

“Không, đây là việc liên quan đến cuộc thí nghiệm giấc ngủ. Những chi tiết mà em không biết, và em sẽ cần phải biết, nếu như em muốn giúp thầy.”

“Thầy muốn em giúp gì ạ?”

“Em rất thông minh, Guru. Em phải hiểu rằng không một bước tiến quan trọng nào không cần đến sự hy sinh.”

“Vâng, em hiểu điều đó, thưa tiến sĩ. Bản thân em đã hy sinh rất nhiều khi rời Ấn Độ và gia đình của mình để sang Mỹ học tập.

Wallis gật đầu. “Thầy cũng đã hy sinh rất nhiều thứ – một cuộc sống bình thường, hôn nhân và con cái – tất cả đều vì công việc. Mười năm qua, thầy đã cống hiến cho một giả thuyết, mà nếu nó được chứng minh là đúng thì sẽ thay đổi cả thế giới này, mãi mãi. Thành công đang ở ngay trước mắt. Nó đang ở ngay trong kết quả của cuộc thi nghiệm này.”

“Nhưng thầy nói là cuộc thí nghiệm đã kết thúc rồi mà?”

Wallis vân vê chòm râu. “Khi thầy còn nhỏ, Guru, cha mẹ dẫn thầy tới nhà thờ vào mỗi sáng Chủ nhật. Thầy nhớ rất rõ những sự kiện thường diễn ra trong đó. Họ luôn bắt đầu bằng việc diễu hành dọc lối đi giữa hai bên hàng ghế. Chiếc đàn organ Hammond cũ kỹ sẽ ngân lên những nốt nhạc truyền thống, còn cậu bé phụ giúp cho linh mục sẽ cầm theo cây thánh giá khổng lồ, dẫn đầu đoàn người chậm chạp tiến về phía trước. Theo sau cậu bé sẽ là những người cầm nến, rồi tới vị linh mục, và cuối cùng là người phó tế với cuốn Kinh Thánh trên tay. Từng người ngồi trên những hàng ghế sẽ lần lượt đứng dậy và nối đuôi theo đoàn người diễu hành, ngân nga giai điệu của bản thánh ca. Mặc dù bài hát được chơi ở những âm trưởng cao độ, để tiếng nhạc nghe vui tươi hơn, và mọi người đều đang cố cất giọng mình lên cao nhất có thể, nhưng tôi luôn luôn bị nhầm lẫn giữa những đoạn nhạc. Bài hát ám chỉ rằng quỷ Satan không bị nhốt ở trong hố lửa giữa lòng đất như những gì tôi vẫn hằng tin tưởng. Mà thật ra, nó vẫn ở trên thế gian này, dẫn đầu một đội quân ác quỷ vô hình. Khi thầy hỏi mẹ về điều này, bà đã trích một đoạn trong thánh thư, nói rằng: ‘Quỷ Satan luôn khát khao có được con. Đây là lời Chúa Jesus đã nói với tông đồ Peter của mình ở một khu vườn tại Gethsemane, Jerusalem. Bởi Peter sẵn sàng hy sinh thân thể và máu thịt để bảo vệ Chúa Jesus khỏi kẻ thù, nhưng anh ta không sẵn sàng để đối đầu với Satan bằng cả tâm trí và con tim. Và đó là nơi Satan và đội quân của nó sẽ chiến thắng. Thầy nghiệm ra một điều vào ngày hôm đó, rằng lũ quỷ sẽ chiếm được bạn, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào chúng muốn, thậm chí ngay khi bạn không hề hay biết. Trong tâm trí và trong trái tim.” Wallis châm một điếu thuốc. “Sau này lớn lên, quan niệm bất biến này vẫn luôn khiến thầy sợ hãi. Trên thực tế, những ác mộng vẫn ám ảnh thầy cho tới tận bây giờ. Thầy đang muốn nói gì sao? Chỉ là một câu tường thuật rất đơn giản – ‘Satan vẫn luôn khát khao chiếm lấy chúng ta – câu nói đã thay đổi cuộc đời thầy. Đó là lý do tại sao thầy theo đuổi Khoa học Tâm lý.” Anh dừng lại một lúc trước khi nói tiếp. “Em biết không, Guru, cha mẹ thầy qua đời khi thầy ít hơn em bây giờ vài tuổi. Họ đang đi thuyền tới Bahamas thì bị cướp biển tấn công, em có tin nổi không. Lũ cướp biển. Chúng chiếm thuyền, cướp đi tất cả những thứ có giá trị, rồi quăng họ xuống biển. Đó là điều mà cảnh sát địa phương làm như vậy, và thầy không có lý do gì để nghi ngờ. Thầy đã rơi vào bóng đêm tuyệt vọng, thầy không nói dối đâu. Bóng đêm tối tăm mù mịt, không lối thoát. Thầy không quan tâm mình sống hay chết. Thầy đã nghĩ tới chuyện tự vẫn. Một lần, khi đang lái xe trên quốc lộ, thầy có một ham muốn gần như không thể cưỡng lại được là lao đầu vào một chiếc xe nào đó đang đi tới, mà không thèm suy nghĩ đến chuyện người khác cũng sẽ bị liên luỵ bởi ý định tự vẫn của mình – và đó là khoảnh khắc thầy nhận ra rằng quỷ Satan đã chiếm được mình.” Wallis hít một hơi thuốc thật sâu và dài, thở khói ra dưới hai cánh mũi. “Thầy quyết định xoay chuyển cuộc đời mình từ đó. Thầy cố gắng hết sức để xua tan sự tăm tối trong tâm trí. Thầy đổi chuyên ngành sang Tâm lý học để hiểu rõ hơn tại sao con người lại làm những việc kinh tởm như vậy, để giúp họ nếu mình có thể. Tuy nhiên, những nghiên cứu về giấc ngủ lại hấp dẫn thầy một cách kỳ lạ. Thầy gia nhập vào làn sóng những nhà nghiên cứu đang nỗ lực khám phá những bí mật trong bộ não của con người khi ngủ. Trước những năm 1950, mọi người đều nghĩ ngủ là một hành vi thụ động, nhưng điện não đồ đã thay đổi toàn bộ. Chúng ta được cho biết rằng có bốn giai đoạn trong giấc ngủ lặp đi lặp lại, cho đến khi chúng ta thức giấc vào cuối giai đoạn REM (chuyển động của mắt), tâm trí chứa đầy những ký ức, những địa điểm và khuôn mặt mà chúng ta không thể nhớ.”

“Có một điều rất thú vị như thế này, thưa thầy,” Guru lên tiếng. “Một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu về giai đoạn chuyển động của mắt đã phát hiện ra rằng ông ta có thể dự đoán thời điểm một đứa trẻ sơ sinh sẽ tỉnh dậy bằng việc quan sát sự chuyển động bên dưới mí mắt.”

Wallis gật đầu, nhấn đầu thuốc vào gạt tàn. “Một mánh khóe để thu hút sự chú ý, chắc chắn vậy. Còn bây giờ, có một sự thật cũng không kém thú vị: bất kỳ một sinh vật nào mà em có thể đo điện não, trong suốt quá trình ngủ của chúng—chim, hải cẩu, mèo, chuột, cá heo… – tất cả đều trải qua bốn giai đoạn của giấc ngủ.”

“Chuột cũng mơ khi ngủ ạ?”

- “Có, và còn nhiều hơn thế, anh bạn ạ. Chuột lông vàng tỉnh dậy khỏi giấc ngủ đông – chỉ để ngủ trưa tiếp. Nên có một thứ rất quan trọng ở đây – có thể nói là tối cần thiết, diễn ra khi đèn tắt. Câu hỏi là, đó là cái gì? Có chuyện gì xảy ra trong giấc ngủ mà quyết định sự sinh tồn của mọi sinh vật?”

“Em xin nhắc lại một chút, thưa tiến sĩ, rằng trong lớp học Giấc ngủ và Giấc mơ của thầy, thầy có nói rằng chúng ta ngủ theo thói quen. Chúng ta ngủ, cho phép em trích lại y nguyên câu nói của thầy, bởi vì chúng ta vẫn thường hay ngủ.”

“Đây là một vấn đề rất thú vị để tranh luận, phải không? Không riêng gì những bộ não trẻ tràn ngập tò mò trong cả hội trường, bản thân thấy liệu có thực sự tin lý thuyết đó?” Wallis bắt đầu đi vòng quanh căn phòng quan sát, hai tay chắp lại phía sau lưng. “Mười năm trước – mùa hè năm 2008 – thầy đã tiến hành thí nghiệm đầu tiên về tình trạng thiếu ngủ trên chuột. Vào thời điểm đó, hầu hết các cuộc thí nghiệm tương tự chỉ được tiến hành trên ruồi giấm, bởi chúng rẻ và dễ duy trì. Nhưng cái hay của mấy con chuột là: chúng có thể kết nối được với máy đo điện não. Trong những thí nghiệm đó, thầy thường xuyên kích thích lũ chuột ngay khi chúng tiến vào giai đoạn REM, khiến áp lực ngủ tăng lên. Sau đó, khi để lũ chuột tiếp tục ngủ, thầy xác định xem con chuột nào đang có biểu hiện hành vi kỳ quặc và đi sâu vào nghiên cứu bộ gene của chúng. Cuối cùng, thầy phát hiện ra rằng: chúng đều có chung một đột biến trong cùng một mã gene nhất định. Kết quả trên điện não đồ cho thấy một số lượng lớn sóng ngủ biên độ cao bất thường, có nghĩa là chúng không thể tự kháng cự lại áp lực ngủ, và chúng sẽ tiếp tục sống một cuộc đời luôn ở trạng thái mê man, buồn ngủ. Mặc dù thầy vẫn chưa thể giải thích hoàn toàn mối quan hệ giữa gene bị biến đổi và áp lực ngủ, nhưng nghiên cứu đó đã giúp thầy tạo ra được phiên bản sơ bộ của khí kích thích – thứ đã thay đổi tất cả mọi thứ.”

Guru đổ người về phía trước. “Thay đổi mọi thứ, ý thầy là sao?”

“Lũ chuột bị khống chế để không được ngủ theo cách truyền thống chỉ sống được từ 7 đến 32 ngày. Không tìm được nguyên nhân cái chết; chúng đơn giản chỉ là chết đột ngột, thầy nghi ngờ là do stress hoặc rối loạn chức năng nội tạng. Tuy nhiên, những con chuột không được ngủ do bị kích thích bởi khí ga đều chết trong 14 ngày, và chúng không chết đột ngột. Chúng chết một cách cực kỳ kinh khủng.”

“Cho em hỏi, bằng cách nào mà một con chuột có thể chết một cách cực kỳ kinh khủng, thưa tiến sĩ?”

“Trong 5 hoặc 6 ngày đầu tiên của cuộc thử nghiệm, chúng vẫn hoạt động bình thường như mấy con chuột bị khống chế theo cách truyền thống. Chúng có biểu hiện mất khẩu vị khi sự tiêu thụ năng lượng tăng gấp đôi so với bình thường, điều đó khiến sự tụt giảm thể trọng nhanh chóng và hao mòn hình thể. Tất cả đều có thể dự đoán được. Nhưng sau đó, từ ngày thứ mười đến ngày thứ mười bốn, chúng bắt đầu tấn công nhau bằng răng và móng. Những cuộc tranh đấu không hề nhẹ nhàng hơn do mệt mỏi, Guru. Chúng tấn công nhau cho đến chết – còn vượt qua cả cái chết. Bởi, khi một con chết đi, những con còn lại tiếp tục tấn công cái xác không rõ lý do. Nhai mắt, gặm đứt chân và đuôi, cắn mở phần ruột và lôi ra khỏi ổ bụng. Những hành vi này hoàn toàn bất thường ở chuột, hay với bất kỳ một sinh vật nào, tất nhiên ngoại trừ những kẻ biến thái trong loài người chúng ta. Và sau đó, cho tới khi chỉ còn lại một con cuối cùng, nó sẽ quay lại bản thân và làm những hành động tự hủy đó, cho tới khi không thể hoạt động được nữa bởi những vết thương chí mạng. Wallis dừng lại một cách kịch tính. “Đó, anh bạn, đó là cách mà một con chuột có thể chết một cách cực kỳ kinh khủng.”

“Vậy nếu những con chuột bị khống chế hoạt động một cách bình thường cho tới khi chết tự nhiên,” Guru nói, “thì tại sao những con chuột dưới sự ảnh hưởng của khí ga lại có những hành vi kỳ quái đến vậy?”

“Thầy cũng luôn tự hỏi mình câu hỏi đó hằng ngày trong nhiều tháng liền,” Wallis nói. “Cho đến một buổi sáng, câu trả lời xuất hiện ngay trước mặt. Lúc thầy ra ngoài ăn sáng thì một vị linh mục ngồi xuống chiếc bàn bên cạnh. Chẳng bao lâu sau, một người khác tới ngồi chung với ông ta, có thể là một người bạn, hoặc một vị linh mục khác không mặc áo choàng. Họ bàn luận về những giáo lý mà thầy không có hứng thú muốn nghe lén, nhưng không thể tránh được bởi khoảng cách giữa thầy và họ rất gần. Thầy không gọi thêm ly cà phê thứ hai như mọi khi mà đi thẳng về nhà, bắt đầu nhớ lại những ngày Chủ nhật mà mình đã trải qua ở nhà thờ khi còn bé. Bài hát thánh ca mà đám đông hòa nhịp lại vọng lên trong đầu tôi. Lời mẹ thầy trích ra từ thánh thư, cảnh báo về sự khát khao chiếm lĩnh của quỷ Satan, và cách mà chúng chiến thắng là từ trái tim…”

“Và tâm trí,” Guru nói đầy ẩn ý. “Đừng nói với em là lũ chuột dưới khí kích thích kia bị quỷ ám nhé, tiến sĩ.”

“Quỷ ám?” Wallis nhún vai. “Thầy đã không còn tin vào tín ngưỡng nữa, Guru, nhưng thầy cho rằng quỷ ám là một miêu tả chính xác về những gì đã xảy ra với lũ chuột, bởi vì còn gì có thể lý giải tốt hơn cho một tâm trí hỗn loạn? Và đây là quan điểm của thầy, anh bạn trẻ ạ. Mọi sinh vật sống – từ vi khuẩn và vi-rút đa bào tới động vật có vú và con người – tất cả đều điên loạn theo một trật tự riêng. Nói cách khác, chúng ta được sinh ra với cái điên có sẵn trong người, mặc dù nó được kiểm chế lại bởi những hành vi bản năng cố định.”

“Ý thầy là bản năng?” Guru hỏi.

“Chính xác. Bản năng – một quyển hướng dẫn về cách hoạt động có lý trí, ta có thể ví von như vậy. Bởi vì, hãy tưởng tượng, nếu một con sư tử cái không có bản năng nuôi con thì sao? Hoặc nếu một con rùa biển mới nở không biết cách chạy về phía đại dương hay những nơi an toàn tương tự? Hay nếu một loài động vật có túi, trước khi được sinh ra, không có bản năng chui ra khỏi túi của mẹ? Thật vậy, nếu không có bản năng, một con nhện sẽ không bao giờ biết giăng tơ. Một con chim cũng sẽ không biết cách làm tổ hoặc bắt sâu. Một con gấu sẽ không đi trú đông khi vào mùa lạnh và có thể chết vì đói. Một con chó sẽ không biết lắc mình giũ nước và sẽ bị bệnh. Em thấy đó, nếu không có bản năng, sự sinh tồn sẽ trở nên hỗn loạn.”

“Thế còn chúng ta? Loài người? Chúng ta không phải là những con rối của bản năng.”

“Tất nhiên chúng ta có, Guru!” Wallis nói. “Sợ hãi, tức giận, yêu thương. Bản năng điều khiển tất cả mọi khoảnh khắc trong cuộc sống này. Nhưng em đã đúng ở một khía cạnh. Với bộ não phức tạp, khả năng lý giải thông tin và ý chí tự do, chúng ta ở vị trí tối cao trong thế giới động vật, để có thể lén nhìn ra phía sau tấm màn của Mẹ Thiên nhiên, để tận hưởng một chút điên loạn trong chính chúng ta. Bởi vì, để thầy nói với em, anh bạn, bản năng sẽ không bao giờ bảo ai đi nhảy cầu, hay lái xe tông vào đám người đi bộ, hay bắt cóc và tra tấn trẻ em. Đó là những sự điên rồ bên trong chúng ta mách bảo, sự điên rồ không bị kiểm soát bởi bản năng.”

Guru suy ngẫm trong hoài nghi. “Nếu điều này là đúng, thưa tiến sĩ, nếu tự nhiên được cân bằng trên sống dao, giữa hỗn loạn và trật tự, thì em vẫn không hiểu nó có liên quan gì tới lũ chuột và khí ga?”

“Bởi vì bản năng không phải là công cụ duy nhất mà Mẹ Thiên nhiên tạo ra để cung cấp cho chúng ta lý trí và tỉnh táo. Bà ấy còn có một quyền năng khác.”

Ánh sáng lóe lên trong mắt Guru. “Ngủ…?”

“Tại sao mọi sinh vật đều có áp lực ngủ? Tại sao chúng ta có một đai an toàn dưới dạng giấc ngủ siêu ngắn để đảm bảo rằng chúng sẽ gật gà gật gù kể cả khi cố gắng hết sức để tỉnh táo? Bộ não đang làm gì trong một phần ba cuộc đời của chúng ta, mà lại quan trọng và đòi hỏi nhiều đến nỗi vào cuối ngày, nó bắt buộc phải đưa chúng ta vào trạng thái bất tỉnh và tê liệt? Lợi ích tiến hóa nào đáng để bộ não gần như là tự ngắt kết nối với thế giới bên ngoài trong một thời gian dài mỗi ngày? Để thầy nói với em điều này, anh bạn của tôi ạ. Não của chúng ta đang hoạt động hết công suất để kìm hãm sự điên loạn bên trong chúng ta. Đó là sự thật. Thầy đã tận mắt chứng kiến những chuyện đã xảy ra trong suốt quá trình thiếu ngủ kéo dài. Đúng, phải thừa nhận rằng từ trước đến nay chỉ mới thấy ở lũ chuột, còn bây giờ…” Anh nhìn về phía cửa sổ quan sát dính đầy phân.

Guru cũng hướng ánh mắt về phía đó, thở gấp. “Chad và Shaz, thầy nói rằng họ đang không ngủ phải không?”

“Đúng, Guru, họ đang không ngủ.

“Họ… đã nhìn lén phía sau tấm màn của Mẹ Thiên nhiên?”

Wallis gât đầu. “Và họ cần sự giúp đỡ của chúng ta.”

“Chad, Sharon, tôi vào nhé,” Roy Wallis nói.

Anh không mong chờ sẽ có câu trả lời và đúng là như vậy.

Anh quay sang Guru: “Chúng ta sẽ phá cửa vào.”

“Tại sao không phải là cửa sổ quan sát ạ?” Cậu hỏi. “Không phải dễ dàng phá vỡ hơn sao?”

“Dễ hơn, đúng, nhưng khi đó, khí ga sẽ lan ra khắp tiền phòng. Bây giờ, đếm đến ba, em và thầy sẽ cùng xô mạnh vào cánh cửa. Sẵn sàng chưa?”

Hai người dồn toàn lực xô cánh cửa. Có tiếng gì đó nghe như tiếng kim loại rít lên chói tai ở phía bên kia.

“Tiếp tục!” Wallis hô hào.

Cánh cửa mở hé từng tí một, cho đến khi Wallis có thể nhìn thấy một cái tủ lạnh lớn 700 lít nằm nghiêng chắn trước cửa.

“Thêm chút nữa,” anh gắn. Và sau đó, “Được rồi, chừng này đủ rồi.” Anh quan sát khoảng cách hẹp mà họ đã tạo nên giữa cánh cửa và bản lề. Nó vừa đủ để chui vào. “Thầy sẽ vào trước.”

Wallis nghiêng người lách qua khe hở, đặt đầu gối phải lên phần trên cùng của chiếc tủ lạnh bị lật, hạ thấp người để dễ dàng ngã sang một bên. Nửa thân trên của anh đã chui được vào bên trong, vấn đề bây giờ chỉ đơn giản là kéo nốt chân vào. Anh đứng dậy, phủi tay và nhìn quanh căn phòng.

“Chết tiệt!” Anh thầm chửi.

Wallis đi vào giữa căn phòng thí nghiệm ngủ, mùi của nó còn tệ hơn chục lần so với nhà vệ sinh hôi thối nhất mà anh từng bất hạnh đi vào. Chad đang thu mình ngồi ở một góc đằng xa, gần ghế sô pha, dõi theo anh, tia sáng loé lên từ đáy mắt. Nhưng chính Sharon mới là người mà Wallis để ý tới. Cô nằm nghiêng trên giường, trần truồng từ eo trở xuống. Trên trán, hoặc là Chad hoặc là cô, đã rạch một đường ngang từ thái dương bên này sang tới thái dương bên kia, khiến máu tràn ra đỏ lòm cả khuôn mặt.

Đôi mắt cô, cũng giống như của Chad, sáng quắc như mắt mèo, song ánh mắt của Chad thì cảnh giác và thăm dò, còn ánh mắt cô thì xoáy sâu đầy cuồng dại, gợi lên hình ảnh của một người phụ nữ trong vài phút cuối cùng lúc sắp sinh.

“Chuyện quái quỷ gì đây?” Giọng Guru cất lên sau lưng anh.

“Sharon?” Wallis nói. “Cô tự rạch mình Hay là Chad?”

Môi Sharon cong lên thành một nụ cười.

“Con dao ở đâu?” Anh gặng hỏi.

“Nó ở kia, thưa thầy,” Guru nói, chỉ tay về phía một con dao cắt bít tết, lưỡi dao bằng thép không gỉ và tay cầm bằng nhựa đen dính đầy máu, đang nằm trên sàn chỉ cách giường chừng mười bước chân.

“Tới lấy nó đi,” Wallis ra lệnh. “Đừng kinh động đến Chad.”

Guru cẩn thận đi về phía con dao, mắt không rời khỏi Chad. Khi đi tới vị trị của nó, cậu cúi người và chần chừ. “Thầy có chắc rằng em nên chạm vào nó không, tiến sĩ? Nó là bằng chứng.”

“Nếu em để nó ở lại đây, thì Chad hoặc Sharon sẽ tiếp tục dùng nó – để làm điều kinh khủng hơn.”

Guru nhặt con dao lên và đứng dậy. “Bây giờ làm gì tiếp ạ?” Cậu hỏi.

“Mang nó đến phòng quan sát và lấy bộ dụng cụ sơ cứu lại đây.”

Guru làm theo, còn Wallis đưa sự chú ý của mình trở lại Sharon. Vết rạch trên trán cô sâu nhưng không quá mức. Tất nhiên sẽ cần phải khâu lại, nhưng đây không phải là điều anh có khả năng làm. Anh nhận thấy đôi tay của cô dính toàn phân và máu khô, điều khiến anh tin rằng cô chính là người tự làm ra vết cắt trên trán mình.

“Tại sao cô lại rạch trán mình, Sharon?” Anh gặng hỏi.

Sharon lại cười, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười nham hiểm. Wallis không thích nụ cười đó chút nào. Anh quay đầu nhìn về phía cửa. Guru đang lách mình qua khe cửa hẹp để vào lại căn phòng. Cậu ta loạng choạng bước qua tủ lạnh và đến bên giường.

“Của thầy đây, tiến sĩ.” Cậu đưa bộ dụng cụ sơ cứu cho Wallis. “Em nên làm gì tiếp theo?”

“Lấy giùm thầy chút nước ấm pha xà phòng từ bồn rửa và mang nó lại đây.”

Wallis mở khóa bộ dụng cụ sơ cứu và đặt chúng lên giường. Vào lúc anh đeo xong đôi găng tay y tế màu xanh thì Guru đã quay trở lại với một ly nước xà phòng và một cuộn khăn giấy.

“Nó có thể sẽ hơi đau một chút, Sharon,” anh nhẹ nhàng.

“Được rồi, tiến sĩ,” cô trả lời, giọng khô khốc như âm thanh xào xạc của lá vàng mùa thu, đôi mắt xanh lục điên dại không rời khỏi anh.

Wallis thấm nước vào khăn giấy và nhẹ nhàng chấm xung quanh vết rạch. Sharon không hề chớp mắt.

“Đau không?” Anh hỏi cô.

“Tôi thích anh chạm vào tôi, tiến sĩ.”

Wallis khựng lại trong giây lát, rồi tiếp tục lau miệng vết thương, sau đó khử trùng với thuốc xịt và bôi một lớp kem kháng viêm. Anh dán bốn miếng dán vết thương nhỏ vuông góc với nhau, với hy vọng làm khép miệng vết thương khi không có chỉ khâu. Sau đó, anh quấn một lớp vải băng quanh đầu cô, cùng loại với vải băng anh dùng cho vết thương ở tay mình. Anh dùng thêm khăn giấy đã thấm nước để lau đi vết máu khô trên trán, mặt và cổ Sharon.

“Đây là điều tốt nhất mà tôi có thể làm bây giờ, anh nói, ngắm nhìn lớp băng quấn trên đầu Sharon. “Cô cảm thấy thế nào? Băng cuốn có chặt quá không?”

“Nó ổn, tiến sĩ,” Sharon đáp. “Nhưng còn bụng của tôi thì sao?”

Cô đang mặc một trong gần hai chục chiếc áo nỉ giống hệt nhau mà anh đã mua cho cô. Vì quá tập trung vào phần trán nên anh không nhận ra chiếc áo cũng đang thấm đẫm máu.

“Tôi có thể xem qua không?” Anh hỏi.

Sharon ngồi dậy và kéo chiếc áo quá khổ lên tới ngực – rõ ràng đây là cỡ mà anh đã mua cho Chad.

Một vết rạch thứ hai chia đôi cái bụng căng tròn của cô, cách rốn vài phân. Máu phần lớn vẫn còn ướt nóng, chảy xuống khắp vùng bụng dưới, xương chậu và đùi trong.

Guru hít sâu một cách khó nhọc. Còn Wallis chửi thầm.

“Guru,” anh căng thẳng, “lấy giùm thầy thêm chút nước.”

Khi Guru quay trở lại, Wallis gần như đã dùng hết cả cuộn khăn giấy để lau miệng vết thương và những vùng da xung quanh. Nó vẫn đang rỉ máu, nhưng anh không thể làm gì thêm nữa.

“Anh có thích chạm vào người tôi không, tiến sĩ?” Sharon bất ngờ hỏi.

Wallis còn đang lau phần đùi trong bên trái của cô. “Tôi có thể nghĩ về hàng đống những công việc khác mà mình muốn làm hơn là việc này.”

“Tôi thích khi anh chạm vào tôi ở đây. Anh không cần phải dùng găng tay.”

“Guru, đưa cho thầy bình xịt khử trùng, sau đó lấy cho cô ấy một bộ quần áo mới.”

Wallis khử trùng vết thương, băng kín nó bằng miếng dán lớn nhất có thể tìm được và quấn vải băng quanh bụng cô nhiều vòng.

“Cô có cần tôi giúp thay quần áo không” anh hỏi khi Guru mang tới một bộ quần áo sạch. “Hay cô có thể tự làm?”

Sharon nhanh chóng chui đầu qua áo, bây giờ cô đang khỏa thân ngồi trên giường.

“Cô cần phải đứng dậy,” anh nói, chìa tay ra giúp đỡ.

Cô cầm tay anh và đứng lên không mấy khó nhọc, mặc cho những vết thương đang rỉ máu. Guru đưa cho anh quần lót màu trắng. Anh cúi người trước cô. “Nhấc chân trái lên,” anh nói. Cô nghe theo. “Chân phải.” Cô nghe lời. Anh kéo chiếc quần lót lên tới ngang hông. Chun quần chạm vừa khít ngay dưới eo cô. Anh lặp lại quá trình đó với chiếc quần ngủ. “Cô có muốn mặc áo ngực không?”

“Không,” cô đơn giản trả lời.

“Giơ tay lên.”

Sharon nâng tay lên không trung, và anh lần lượt chùm tay cô vào hai ống tay áo, sau đó kéo cổ áo qua đầu, cẩn thận tránh đụng vào vết thương nơi trán cô.

“Cô có thể ngồi xuống rồi,” anh nói.

“Chúng ta có thể nhảy không?” Sharon hỏi.

“Chúng ta sẽ không nhảy.”

“Làm ơn đi? Tôi muốn nhảy.”

Wallis thu dọn hộp đồ sơ cứu, sau đó cùng Guru khiêng tủ lạnh trở lại đúng vị trí. Có bốn bánh xe nhỏ dưới chân, không mấy khó khăn để đẩy nó vào trong bếp. “Thu hết tất cả những con dao còn lại trong ngăn tủ,” anh nói với Guru, “và đợi thầy ở tiền phòng. Thầy sẽ ra ngay.”

Wallis đi tới cửa sổ quan sát, chun mũi khó chịu khi ngửi và nhìn thấy tàn tích trước mặt. Anh chỉ bóc ba trang giấy và lau chỗ đó với số khăn giấy sạch sẽ còn lại.

Anh quay lại và thấy cả hai người Úc đang nhìn mình đăm đăm với cặp mắt sáng bất thường. Chad cũng giống như Sharon, đang nhếch miệng cười anh.

“Tôi tin rằng ô kính nhỏ này là một sự thỏa hiệp công bằng,” Wallis thông báo dõng dạc. “Hai người có nhiều sự riêng tư hơn trước đây, nhưng chúng tôi vẫn có thể nhìn vào bên trong để thỉnh thoảng quan sát.”

Không một ai trong số họ lên tiếng.

“Cả hai đều thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng và cần phải ăn. Nếu các bạn muốn thứ gì đặc biệt mà không có sẵn ở đây, hãy cứ nói cho tôi biết.”

Chad và Sharon bắt đầu cười khúc khích – những âm thanh rít lên rùng rợn, the thé như tiếng móng tay cào lên bảng đen.

“Ít nhất hãy uống đủ nước,” anh nói thêm. “Nó rất quan trọng đối với cơ thể.”

Giờ thì những tiếng rít tràn ngập nơi cổ họng, nghe như tiếng tru của lũ chó sói hiếu chiến, cuồng loạn.

Wallis trở lại phòng quan sát.

“Mấy giờ rồi nhỉ, tiến sĩ?” Guru hỏi. “Em ngủ quên hả? Hình như em vừa gặp ác mộng.”

Và nó sẽ còn tệ hơn nữa, anh bạn ạ, Wallis nghĩ thầm, nhưng không nói thành tiếng.

Họ đang ở trong phòng quan sát, Guru ngồi phịch xuống ghế, như thể đã kiệt sức, còn Wallis ngồi dựa vào bàn, tay khoanh trước ngực.

“Tại sao Sharon lại làm thế với chính mình? Không, thầy không phải giải thích, tiến sĩ. Em biết tại sao. Đó là sự điên rồ.” Đôi vai cậu chùng xuống. “Sao có thể như vậy?”

“Lý do ở ngay trước mặt em, Guru. Họ trở nên điên loạn, hoặc họ đang tới rất gần đỉnh điểm của giới hạn.”

“Chúng ta không nên giúp họ sao? Chúng ta có nên…”

“Đã quá trễ rồi. Họ đã vượt qua giới hạn có thể nhận sự giúp đỡ.”

“Nhưng chúng ta không thể chỉ ngồi đây và nhìn họ phát điên – hoặc hơn cả điên.”

“Đó chính xác là những gì chúng ta phải làm.”

“Nhưng, thầy Roy! Họ không phải là động vật thi nghiệm. Họ là con người!”

“Thầy nhận thức rõ được việc đó, Guru. Nhưng em phải nghĩ tới điều cao cả hơn ở đây. Những ngày tiếp theo đây, những thông tin mà chúng ta thu hoạch được sẽ là vô giá. Hãy nghĩ đi. Chúng ta sẽ chứng minh được rằng cả thầy, em và toàn bộ nhân loại, tất cả những sinh vật sống, đều điên loạn từ bản chất.”

“Đây có phải là điều mà chúng ta muốn thông báo cho cả thế giới.”

“Đúng! Thoạt nhìn nó có vẻ là một tiết lộ tiêu cực, nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Chúng ta từng nghĩ vũ trụ vận hành theo chuỗi những quy luật mà chúng ta gọi là định luật vật lý. Nhưng thuyết lượng tử đã chỉ ra rằng: những định luật này, về bản chất, thực ra rất ngẫu nhiên và không thể dự đoán trước. Hỗn loạn. Tuy nhiên, thay vì thu hẹp tầm mắt của chúng ta về vũ trụ, thuyết này đã khai sáng một nguồn tri thức to lớn mới. Giờ đây chúng ta biết rằng vật chất về bản chất ở khắp mọi nơi, tại mọi thời điểm. Chúng ta biết có thể có nhiều vũ trụ, hoặc một đa vũ trụ. Chúng ta biết rằng khi các hạt hạ nguyên tử biến mất, chúng sẽ tái xuất hiện ở một nơi nào đó, điều này nghe có vẻ nghịch lý nhưng nó đã được chứng minh, và có thể một ngày nào đó sẽ có hy vọng về du hành thời gian. Và nói tới tương lai, trong kỷ tới, việc thành thạo thuyết lượng tử sẽ cho phép ta làm chủ bản thân vật chất. Chúng ta sẽ tạo ra siêu vật liệu với các đặc tính mới không có trong tự nhiên và cả máy tính lượng tử có thể vận hành với tốc độ gấp hàng triệu lần so với máy tính ngày nay. Thậm chí là tàng hình, anh bạn ạ. Dịch chuyển không gian. Thang máy không gian. Năng lượng vô hạn. Những bước tiến trong công nghệ sinh học và y học mà chúng ta thậm chí còn chưa bắt đầu biết tới.”

“Thầy đang nói gì vậy, tiến sĩ?”

“Ý thầy là, Guru, rằng không có một khám phá khoa học nào khiến ta thụt lùi. Hãy tưởng tượng những tri thức mới của khoa học tâm lý mà chúng ta sẽ mở ra sau thí nghiệm này, tri thức về học thuyết lượng tử nhưng áp dụng cho trí não. Chúa ơi, nghiên cứu của chúng ta sẽ là bước đệm, để một ngày nào đó sẽ giải được mật mã về tâm thức của loài người – và sau đó sẽ là sự thật, sự thật chân chính. Em có muốn đào sâu vào nó hơn không, anh bạn của tôi? Em có muốn đào sâu vào sự thật không?”

“Ôi lạy Chúa, thầy ơi. Điều này hơi quá sức với em rồi.”

“Điều quan trọng, Guru, điều quan trọng ở thời điểm này, là mặc dù những điều không may đang diễn ra với Chad và Shaz, nhưng chắc chắn nó đang dẫn chúng ta tới những kết quả tốt đẹp hơn. Hãy nhớ không một bước tiến nào mà không có sự hy sinh. Em đã nói với thầy rằng em hiểu phải không?”

“Vâng, tiến sĩ, đúng vậy.” Khuôn mặt cậu chùng xuống. “Chúa ơi…”

“Penny không thể nắm bắt được bức tranh toàn cảnh này. Trò ấy quá nông cạn. Đó là lý do tại sao thầy đuổi cô ấy ra khỏi cuộc thí nghiệm. Nhưng em không giống cô ấy. Thầy biết điều đó. Thầy vẫn luôn biết vậy. Em là một nhà khoa học từ tận trong tim. Việc tìm kiếm tri thức và sự thật nằm ngay trong gene của em. Nên em sẽ không mắc phải sai lầm giống như Penny đâu, phải không? Em sẽ không rời bỏ thứ mà sẽ trở thành một trong những chiến thắng về tri thức vĩ đại nhất lịch sử nhân loại, phải không?

Gần như tròn một phút yên lặng, chìm trong suy ngẫm sau lời tuyên bố hùng hồn của vị tiến sĩ, sự do dự trong biểu cảm của Guru cứng lại, như thể đã đưa ra một quyết định táo bạo.

“Không, tiến sĩ,” cậu nói một cách dứt khoát. “Em sẽ không rời đi.”