← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4

Công cuộc chuyển đồ vào ngày hôm sau diễn ra một cách suôn sẻ, mặc dù, như Sean đã dự đoán, không có chỗ đậu xe nào cho họ cả. Nate lái xe đi vòng vòng trong mười lăm phút và cuối cùng cũng tìm được một chỗ mà anh ta có thể đỗ song song, mặc dù Nate phải đánh tay lái chiếc Volkswagen trở đi trở lại đến năm lần mới có thể đỗ chiếc xe vừa với vỉa hè chỉ trong một khoảng trống nhỏ xíu. Họ khuân đồ lên và Sean chỉ vừa kịp về nhà lúc mặt trời lặn với một nửa số hộp chứa đồ, và hứa sẽ quay trở lại vào cuối tuần tới để lấy nốt số còn lại.

Nate mất một giờ đồng hồ để sắp đặt hệ thống giải trí gồm một chiếc đầu DVD cũ và một chiếc TV thậm chí còn cổ lỗ sĩ hơn. Chiếc giá sách của anh ta được nhồi nhét sách và những thứ đồ trang trí linh tinh. Anh ta xếp chiếc bàn làm việc vào một xó tường đối diện với cửa sổ và bắt đầu mở chiếc máy tính xách tay đã quá nát của mình. Phần màn hình máy bị bung ra tại những mối nối, phần mô men xoắn được mở ra bởi chiếc bản lề với thiết kế tồi tệ, và anh ta phải gắn chúng lại với nhau bằng băng keo. Giờ đây, Nate đã tiêu sạch số tiền tiết kiệm của mình, và vì thế đoạn băng keo đó có lẽ phải làm công việc của mình thêm một thời gian nữa.

Tủ quần áo duy nhất của anh ta có vẻ quá nhỏ so với tất cả số quần áo mà anh ta có. Không nhiều, nhưng đủ để anh ta hiểu rằng đây sẽ là một “cuộc chiến” trường kỳ nếu nhồi nhét tất thảy đống quần áo vào đó. Cuối cùng, Nate kết thúc chuyện này bằng cách gấp một vài chiếc sơ mi và mấy chiếc quần đẹp, xếp chúng vào một ngăn giá sách đang còn trống. Đằng nào thì đó cũng là chỗ anh ta thường cất áo phông.

Bỗng nhiên, Nate đánh rơi một đống móc quần áo trên chiếc giá đỡ trong tủ. Chúng rơi xuống sàn loảng xoảng. Theo phản xạ, anh ta cúi người xuống với theo và chợt để ý đến một chi tiết nhỏ. Thứ gần như vô hình nằm sau tủ quần áo là một tấm ván có kích thước bằng một nửa mặt báo. Nó được sơn phủ cùng màu với màu tường căn hộ, và đã được ngụy trang bởi hàng lớp mối nối xung quanh khiến nó gần như trở nên tàng hình. Anh ta gõ gõ đầu khớp ngón tay lên đó và tiếng kêu lách cách của bề mặt gỗ vang lên trong tủ quần áo. Có một khoảng trống phía sau nó. Nate đứng lên và đi quanh căn hộ nhỏ của mình. Ước lượng bằng mắt, trông nó giống như một tấm ván đi kèm với một chiếc bồn tắm. Có lẽ đó là một van khóa đã bị lãng quên đến hàng “thế kỷ”. Có lẽ đội bảo trì thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của nó. Chỉ có một chi tiết duy nhất chính là sự mập mờ giữa các nhà thầu. Khả năng ở đây là họ phải khóa van nước này đối với toàn bộ tòa nhà cho đến tận bây giờ để thực hiện các công việc tu bổ.

Anh ta cuối cùng cũng xoay xở xong với chiếc tủ quần áo và quyết định đi về phía nhà bếp. Nate chỉ phải mở duy nhất ba chiếc hộp phía trong này, nhưng anh ta lại nhận ra rằng mình cần phải tỉnh táo hơn và bắt đầu đi tìm máy pha cà phê đã được đóng gói ở đâu đó, và có lẽ tách uống cà phê cũng ở quanh đây.

Trời bắt đầu tối dần khi Nate dọn dẹp căn phòng chính của căn hộ. Anh ta cảm nhận được tường bếp, nhưng lại không tìm thấy công tắc. Nate phải mất đến một phút để tìm thấy nó, nhưng là phát hiện ra chiếc công tắc này dưới ánh đèn được phát ra từ một căn phòng khác. Một công tắc điện hai nút bấm nằm cách ngưỡng cửa khoảng một mét, đủ xa để gây cho Nate một cảm giác khó chịu. Nate bật công tắc đầu tiên và chẳng hề có động tĩnh gì. Chiếc công tắc thứ hai gây ra một tiếng òn ọt từ bồn rửa chén. Anh ta rùng mình và tiếng kêu rùng rợn đó chợt dừng lại. Nate bật lại công tắc đầu tiên một lần nữa rồi nhìn lên các vật cố định. Một tia sáng mờ nhạt xuất hiện từ sau chiếc bóng đèn mờ. Anh ta bật tắt công tắc vài lần nữa và kết quả cũng không mấy khả quan.

“Khỉ thật,” Nate thở dài.

Trần nhà này khá cao. Không đến nỗi cao như kiến trúc của các nhà thờ, nhưng cũng phải cao hơn các căn nhà thông thường khác hai, ba ft 6* . Leo trèo một lúc, cuối cùng anh ta cũng giữ thăng bằng được trên mặt bếp. Những viên gạch xếp hình ô cờ lạnh buốt đang chống lại đôi bàn chân trần của anh ta. Nate nghiêng người qua, vặn mở bulông bằng một tay, và giữ chiếc bóng đèn nằm trên tay kia. Dây tóc bóng đèn phát ra một thứ ánh sáng yếu ớt, nhưng cũng không thể coi đó là ánh sáng thực sự. Nate búng búng móng tay vào chiếc bóng đèn, các sợi dây tóc rung lên nhưng kết cục cũng không thể sáng sủa hơn.

6* 1 ft (foot) ≈ 30,45cm.

Theo kinh nghiệm không nhiều của Nate về lĩnh vực điện, vấn đề có lẽ nằm ở nguồn điện. Một vài ý nghĩ về đội bảo dưỡng của tòa nhà xuất hiện trong tâm trí anh ta. Nate chộp lấy suy nghĩ ấy một cách nhanh chóng. Chẳng ai làm việc ở khu căn hộ vào ban đêm như thế này. Họ không biết rằng chiếc bóng đèn đã hỏng.

Anh ta đặt chiếc bóng đèn xuống mặt quầy bếp và đứng lên gõ vào nó một lần cuối. Trong khi đó, anh ta để ý đến bàn tay mình. Những đầu móng tay, và những lớp biểu bì đang nhuốm một màu xanh sáng. Nó sáng đến nỗi gần như trở nên rực rỡ.

Không, Nate nghĩ, chúng đang phát sáng. Nó hẳn là một bóng đèn dùng cho các buổi tiệc.

Người thuê căn phòng này trước đây đã để lại chiếc bóng đèn cực tím này trong bếp. Nó không thuộc vào trong những loại bóng rẻ tiền làm bằng lớp thủy tinh màu tím, và nó đã được dùng như một chiếc bóng đèn thông thường. Những viên gạch trắng trên mặt bếp cũng lập lờ thứ ánh sáng được phát ra từ chiếc bóng này.

Anh ta nghiêng người qua thêm một lần nữa và đặt những ngón tay của mình lên đó. Mặt bóng đèn rất nóng, nhưng không đủ gây bỏng. Chỉ qua một vài động tác vặn xoáy, chiếc bóng đèn đã nằm gọn trong lòng bàn tay anh ta. Nate lăn qua lăn lại chiếc bóng đèn trong tay mình, không để cho nó tiếp xúc với da tại một vị trí quá lâu, và đặt nó xuống một chồng khăn lau bát đĩa và khăn ăn vải. Có hai chiếc bóng đèn sơ cua nằm ở một trong những chiếc hộp kia. Chỉ mất vài phút để tìm thấy chúng, anh ta lắc lắc chiếc bóng trên tay mình, lắng nghe những tiếng leng keng của một sợi dây tóc bị lỏng. Anh ta tắt công tắc bóng đèn, đặt chiếc bóng đèn mới ngay cạnh chiếc bóng đèn cực tím và quay trở lại vị trí của mình trên kệ bếp.

Không khó gì để Nate lắp chiếc bóng mới vào vị trí của nó. Anh ta lấy lại thăng bằng một lần nữa trên tủ bếp và nhoài người ra phía công tắc. Nate bật công tắc.

Không có gì thay đổi.

Anh ta đứng thẳng trên kệ bếp. “Thật là ngu ngốc”, Nate bực tức. Anh ta dò dẫm xung quanh trong bóng tối và tra chiếc đèn cực tím trở lại vào ổ điện. Da của anh ta lại phát sáng một lần nữa. Nate kiễng chân lên và dùng ngón chân để tắt công tắc. Anh ta tháo chiếc bóng đèn cực tím ra và cẩn thận chuyển đổi hai chiếc bóng đèn với nhau. Khi chiếc bóng mới đã vào vị trí, anh ta lại với ra bật công tắc lên một lần nữa.

Chiếc bóng đèn phát ra một thứ ánh sáng lờ mờ giống như bóng cực tím. Nate nhăn mày. Anh ta đã đổi đèn. Anh ta chắc chắn về điều này. Nate tắt công tắc, kéo chiếc bóng đèn, rồi nhảy xuống khỏi kệ bếp. Anh ta mang cả hai chiếc bóng đèn vào phòng, nơi có đủ ánh sáng. Chiếc bên tay trái là đèn General Electric. Anh ta nhận ra những chữ cái G E được ghi trên đầu bóng thủy tinh. Bên dưới là logo với dòng chữ LONG LIFE WHITE 7* được in theo hình vòng cung. Chiếc bóng đèn có công suất 57W, và thuộc dòng tiết kiệm điện. Đây chính là một trong những chiếc bóng mà anh ta mang theo. Chiếc còn lại trong tay phải, chính là chiếc mà anh ta động đến đầu tiên, không có logo của bất cứ hãng nào nổi tiếng. Nó chỉ được đánh dấu với cái tên K-LITE. Công suất cũng là 57W.

7* Long life white: Ánh sáng trắng, bền.

Nó cũng không phải là loại đèn cực tím.