← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Nate đang làm việc cho một tạp chí ở Hollywood.

Không giống như danh tiếng và những hình ảnh đẹp đẽ luôn được trưng diện lên truyền hình, anh ta lại làm việc tại một nơi có những chiếc thang máy rung lên bần bật, không điều hòa nhiệt độ, và những chiếc máy tính có tuổi thọ đến mười năm. Tờ tạp chí mà anh ta đang làm việc cũng không khá gì hơn - Không có mặt trong danh sách top A và nằm “bền vững” tại top B. Anh ta thừa biết rằng có đủ thứ để viết về các bộ phim hay các nhân vật nổi tiếng, hoặc có hàng trăm con người trong đoàn làm phim đằng sau mỗi cảnh quay, nhưng sự thật mà nói anh ta chưa bao giờ thực sự đủ hứng thú để có thể cầm lên một bài báo của chính tạp chí mình đang làm việc và đọc.

Anh ta đã “sa chân” vào công việc nhập dữ liệu và gắn bó với nó trong suốt gần hai năm nay. Anh ta cũng là một kỹ thuật viên làm việc bán thời gian nhưng những ông chủ của Nate luôn luôn ép anh ta làm việc đến bốn mươi giờ một tuần. Ý tưởng về một công việc toàn thời gian chưa bao giờ được đưa ra bởi cả đôi bên. Đây có lẽ là một sự ngầm hiểu không cần được nói ra.

Công việc này là cách kiếm được 9,25 đô một giờ mà không cần phải suy nghĩ nhiều. Tờ tạp chí phát hành và cho ra hàng nghìn ấn phẩm, tờ rơi quảng cáo, cùng các bài viết mẫu mỗi tháng, và một phần thư báo được phát đi tới tay bạn đọc theo danh sách đăng ký, sẽ bị gửi trở lại dưới dạng những thùng bưu kiện, với hàng trăm tờ tạp chí được đính lại với nhau. Nhiệm vụ của anh ta là so sánh các địa chỉ người nhận với các cơ sở dữ liệu sẵn có và xác định xem những địa chỉ này có còn giá trị giao hàng hay đã được gắn cờ vô hiệu. Cái khó ở đây là, cơ sở dữ liệu mỗi tuần sẽ tăng thêm khoảng một trăm hoặc hơn một trăm địa chỉ mới, một vài trong số đó có cùng tên khách hàng, và chẳng qua là họ được liệt kê vào danh sách dưới một cái tên khác. Thêm nữa, mỗi tuần lại có khoảng một hoặc hai thùng bưu phẩm được gửi trở lại văn phòng của anh ta.

Khái niệm “văn phòng” ở công ty Nate được định nghĩa theo rất nhiều cách. Chúng là những căn phòng với những vách ngăn cồng kềnh đã bị phồng rộp, được tận dụng từ những khu văn phòng của một công ty lớn nào đó. Mỗi mặt tường quá khổ và chân đế của mỗi bức vách chiếm khá nhiều diện tích khiến cho căn phòng trở thành một điển hình cho một khuôn viên làm việc không được sử dụng hiệu quả. Anne và Zack, hai nhân viên bán thời gian khác, phải nghiêng sang một bên để có thể lách người vào ô làm việc của mình. Jimmy, nhân viên tập sự văn phòng, phải trèo qua những chiếc ghế để vào đến chỗ ngồi của mình. Nate ngồi tại vị trí ô làm việc gần ngay cửa, vì chẳng ai muốn vật lộn để di chuyển những hòm thư báo từ vị trí này qua vị trí khác.

Anh ta vớ lấy một bó thư báo và nghe thấy một tiếng thở dài phía sau. Anh ta đã cố gắng để không bị phân tâm bởi tiếng thở dài ấy.

“Tôi đã cố gọi cho anh vào đêm qua,” Eddie nói.

Eddie là một ông chủ tồi tệ nhất. Ông ta cứ nghĩ mình là một người hào phóng, một người đàn ông tốt với một vốn hiểu biết chắc chắn về kinh doanh. Thực tế ông ta là một người quản lý tầm trung keo kiệt cũng có vài ý tưởng không tồi, và chuyên đi soi mói từng li từng tí. Nate vừa chân ướt chân ráo làm việc trong văn phòng này mới được hai tuần thì đã nghe ông ta “giảng đạo” về việc anh ta không chú tâm vào công việc và đạt được các mục tiêu đã đề ra như thế nào. Ông ta phản đối một số thuật toán rất đơn giản và chỉ ra rằng sự mong đợi của ông ta về hiệu suất làm việc là điều không thể cho bất cứ ai muốn đạt được. Lúc đó, sếp của Eddie đang đứng phía sau, nhìn chằm chằm vào ông ta, và sau đó bỏ đi. Ba ngày sau, Eddie trở lại và than vãn về việc ông ta đã mong đợi cả dự án được hoàn thành đến mức nào vào tuần trước.

Có tiếng ghế ma sát lên sàn khi Zack và Anne đang ngả ra nghe ngóng xem liệu họ có phải là mục tiêu của Eddie trong ngày hôm nay, và khi nhận ra rằng chính Nate đang nằm trong tầm ngắm của ông ta, họ lại trượt ghế trở lại ô làm việc riêng bé nhỏ của mình.

“Xin lỗi,” Nate nói. “Có chuyện gì vậy?” “Tại sao anh không trả lời điện thoại?” “Nó có đổ chuông đâu.”

“Tôi đã gọi anh ba cuộc,” Eddie nói.

Nate cảm thấy có một chút nhẹ nhõm nhưng cũng cảm thấy hơi phiền phức. Nếu có việc gì đó quan trọng cần phải thực hiện ba cuộc gọi liên tục trong một tối thứ tư vừa rồi, thì Eddie sẽ ghé qua chỗ làm việc của Nate đầu tiên ngay trong sáng thứ năm, chứ không phải chờ đến tận buổi chiều như thế này. Ông ta đã tìm đến vì việc gì đó rất nhỏ nhặt, và đang cảm thấy bực bội khi ông ta không thể cho qua được; chỉ nhớ rằng, sự tức giận của ông ta mới bắt đầu từ sau bữa trưa.

“Tôi nghĩ mình đã phạm phải một sai lầm chết người nào đó ư,” Nate nói. Anh ta hướng sự tập trung của mình vào các bọc bưu kiện mới được trả lại và tháo dây cao su.

“Chúng ta đang ở giữa thành phố Los Angeles và anh lại đang cố gắng phân trần với tôi rằng anh không bắt được tín hiệu của một cuộc điện thoại ư?”

“Tôi cá là do chỗ ở mới của tôi,” Nate nói sau một vài giây suy nghĩ. Anh ta nhún vai. “Các bức tường nơi tôi ở đều xây bằng gạch vữa. Tôi nghĩ là nó có lẽ dày gấp đôi so với thông thường, giống như một hầm trú bom, khi chiến tranh xảy ra, tất cả mọi người đều có thể ẩn trốn tại nơi tôi đang ở.”

Anh ta nghe thấy một tiếng khịt mũi đột nhiên phát ra từ tiếng cười của Anne. Cô ta là một trong những điểm sáng của văn phòng này. Cô ta cũng chỉ là một nhân viên tạm thời như Nate, với hai gò má cao, đôi mắt và cơ thể như một người mẫu. Mái tóc dài tới eo. Anne đã làm việc trong văn phòng này tám tháng nay.

Eddie gằn giọng để chắc chắn rằng Nate biết điều này không dễ chịu một chút nào. “Hãy đảm bảo rằng họ sẽ mang chiếc điện thoại mới của anh lên tầng,” ông ta nói.

“Ngay khi tôi có một cái,” Nate đáp. Người đàn ông quá khổ lại đi tha thẩn ra lối hành lang mà chẳng hề nói bất cứ điều gì về việc vì sao ông ta lại gọi cho Nate. Nate lại nhìn màn hình máy tính. Ít nhất thì ngày hôm nay trôi đi bình lặng.

Nate có thể tới văn phòng nhanh hơn từ nơi ở mới, nhưng đúng như Sean đã nói. Anh ta có thể tiết kiệm được mười lăm phút thời gian đi lại, nhưng phải mất tới hai mươi phút mỗi tối khi trở về nhà để tìm được một chỗ để xe. Thay vì làm cho công việc của anh ta trở nên “dễ thở” hơn, việc này lại làm tăng thêm nỗi thất vọng cho Nate. Anh ta thường đậu một nửa xe ở cuối một dãy nhà và chòi một nửa ra khu vực khác.

Trong lúc đi bộ xuống sườn đồi hướng về phía căn hộ của mình, anh ta nhìn thấy một cô gái trẻ có mái tóc màu xanh sáng đang rời khỏi tòa nhà. Anh ta đã biết một vài người hàng xóm của mình. Nate đã gặp Oskar hai lần, và cả hai lần đều trên vỉa hè. Người đàn ông lớn tuổi này hay mua sắm tại hai siêu thị ở cuối phố. Còn có cả một người phụ nữ tóc xoăn và một người đàn ông tóc đỏ trạc tuổi Nate thường đi với nhau như một cặp vợ chồng lâu năm. Không ai trong số họ có vẻ để ý tới anh ta. Có lẽ ở đây chẳng ai buồn để tâm tới anh ta mà để ý tới cô gái tóc vàng sống ở căn hộ đối diện kia.

Anh ta bước qua cổng, cố gắng tìm chiếc chìa hóa cửa an ninh trong chùm chìa khóa của mình trong khi bước lên cầu thang. Một cái gì đó lóe sáng lên như ánh mặt trời vụt qua mắt, và anh ta liếc nhìn qua phía bên trái. Từ góc này, Nate có thể trông thấy khung cảnh giữa những lùm cây và phần dưới của tòa nhà. Ở phía góc xa xa kia là một phiến đá theo phong cách cổ bóng loáng.

Nate bước xuống cầu thang và đứng trên một bãi cỏ nhỏ. Anh ta có thể nhìn thấy con đường mòn nhỏ lằn giữa trảng cỏ xanh. Một vài bước dẫn anh ta tới góc tòa nhà. Một bụi cây lớn nằm che khuất một góc của phiến đá. Anh ta gạt một tán cây cho đến khi biểu tượng được khắc trên mặt đá hiện ra rõ ràng hơn.

Đó là một khối đá cẩm thạch, với những đường mạch đen chạy ngoằn ngoèo xen một vài đốm sáng lấp lánh trên mặt đá. Những con số và chữ cái được khắc sâu hơn một centimét.

Nate không chắc lắm về lượng thông tin được khắc trên một phiến đá, nhưng anh ta cảm thấy hơi thất vọng về sự quá ít ỏi của những chữ cái này. Một vài phút sau anh ta đã có mặt ở phòng và ném chiếc túi xách lên chiếc ghế dài.

Anh ta vận những bộ đồ thoải mái sau giờ làm việc, nhưng chẳng có bộ quần áo nào còn sạch sẽ. Thực ra, anh ta đã mang theo một giỏ đầy tới nửa những bộ quần áo bẩn từ nhà cũ. Buổi tối ngày thứ năm, có vẻ như, sẽ là lúc để tập trung vào việc “khám phá” phòng giặt là của tòa nhà. Quần áo và các đồng xu lẻ đã được chuẩn bị sẵn sàng, một chai nước giặt cũng đã được ấn vào núi quần áo trong giỏ, và anh ta lôi toàn bộ chúng xuống cầu thang trở lại tầng hầm.

Có tám máy trong phòng giặt là. Bốn máy giặt nằm thành một hàng dựa lưng vào tường đối diện với cửa ra vào. Bốn máy sấy thì người ta xếp hai chiếc chồng lên nhau. Đối diện với những chiếc máy sấy là một chiếc ghế gấp và có một người đang nằm dài trên đó.

Anh ta đang đặt tay che ngang mắt, trông điệu bộ đó giống tín hiệu của một sự thất vọng hơn là một sự bảo vệ. Cánh tay rắn chắc và bờ ngực rộng thuộc dáng dấp của những người lao động cơ bắp thường xuyên, chứ không phải do tập gym. Anh ta không cao hơn Nate là mấy, tầm ba, năm phân là cùng. Mặc dù Nate thừa hiểu được sự khác biệt giữa chiều cao một mét bảy mươi tám và một mét tám mươi ba còn xa hơn rất nhiều so với khoảng cách ba, năm phân kia.

Trong khi Nate vật lộn với đống đồ, người này hạ bàn tay xuống và để lộ ra hàng râu có lẽ đã ít nhất hai ngày không cạo. “Chào,” anh ta lên tiếng.

“Chào,” Nate chào lại. “Thật là một ngày dài phải không?”

“Ngày nào cũng dài hết á,” anh ta thở dài với một nụ cười nhăn nhở. “Tôi quên mất không giặt đống quần áo này vào cuối tuần vừa rồi. Giờ tôi cần sơ mi, tất và tôi lại có một cuộc hẹn vào sớm mai.”

“Ồ, tệ quá.”

“Ừm... Đừng dùng chiếc máy giặt ở bên trái. Nó không bao giờ quay đủ nhanh để làm khô quần áo. Ướt sũng luôn, chứ không phải là ẩm ẩm đâu.” “Ồ, cám ơn nhé,” Nate trả lời.

“Không có gì. Anh mới đến à?” “Vâng. Tôi vừa mới chuyển đến phòng 28 tuần trước.”

“À phải,” người thanh niên đáp. “Tôi nhìn thấy anh khênh bàn, kệ và đồ lặt vặt lên.”

“Đó là bạn tôi, nhưng đúng đấy.” “Ừm.” Anh ta đáp.

Anh ta chỉ lên rìa bức tường phần giao với trần nhà. “Tôi là Roger. Tôi sống ở trên đó. Phòng số 7.”

“Tôi là Nate. Anh đã ở đây lâu rồi chứ?” “Hơn một năm một chút.”

Chiếc máy sấy kêu lên êm dần rồi im bặt. Roger kéo mình ra khỏi chiếc ghế và nặng nhọc đi tới chiếc máy sấy cùng với chiếc gối màu xanh oliu của mình. Chiếc gối bung ra quay trở lại với hình thù của một chiếc ba lô. Nate liếc mắt mình hướng tới tòa nhà nằm phía trên. “Anh thích nơi này chứ?”

“Có gì để không thích sao?” Anh ta nhún vai trong khi nhồi đồ đã giặt vào túi của mình. “Làm việc sáu mươi lăm đến bảy mươi giờ một tuần. Cuối tuần tôi chạy việc vặt hoặc đi ra ngoài. Đây chỉ là nơi tôi ngủ và giữ đồ thôi.

Và nó cũng rất rẻ.”

“Bảy mươi giờ một tuần ư?”

“Thật ra là tám mươi, anh bạn,” Roger nói. “Tôi là nhân viên kỹ thuật hiện trường.”

“Giống như trong đoàn làm phim ư?”

“Đúng vậy. Tôi đã làm nghề này bảy năm rồi.”

Nate nhe răng cười. “Nhân viên kỹ thuật hiện trường làm những nhiệm vụ gì vậy?”

“Chúng tôi là những tay thợ búa anh bạn ạ. Chúng tôi đặt cờ, tạo ra mô hình, giữ cho mọi thứ được an toàn.”

“Cờ ư?”

Roger mỉm cười. “Hãy hiểu nó theo cách này. Những kỹ thuật viên ánh sáng sẽ chịu trách nhiệm xử lý về ánh sáng. Còn chúng tôi chịu trách nhiệm về hiệu ứng đổ bóng.”

Anh ta quăng một vài chiếc áo phông cuối cùng vào túi. “Chúc một buổi tối vui vẻ, anh bạn!”

“Anh cũng vậy.”

Roger bước nặng nhọc lên cầu thang và Nate chỉ còn lại một mình trong phòng giặt là. Anh ta cuốn gói đống quần áo cuối cùng nhét vào máy giặt và lục lọi, moi hai đồng xu ra khỏi túi quần jean của mình. Năm mươi xu cho một lần giặt là một mức giá siêu rẻ như chi phí thuê nhà của anh ta. Nước bắt đầu rít lên trong máy. Anh ta lang thang trở ra phía sảnh. Ngay đối diện cửa phòng giặt là là một cánh cửa khác. Nó đã hoen gỉ với những tấm pano dài thượt hình chữ nhật, trông không giống như những bề mặt phẳng phiu mà một cánh cửa thường có. Một then cài đã được cố định vào khung cửa, ngay trên núm cửa là một chiếc khóa Masterlock lấp loáng treo lủng lẳng.

Anh ta đi thong thả dọc hành lang. Một bóng đèn trần phát ra ánh sáng chói lóa, sáng rực khắp nơi. Mặt sàn đã được sơn xanh cùng màu với phòng giặt là, nhưng chỉ tới hết phần của chiếc đèn trần, mặt sàn lại trở về với vẻ cứng nhắc của lớp bê tông trơ trọi.

Sau phòng giặt là là một căn phòng nhỏ hơn, có lẽ chỉ nhỏ bằng căn hộ của anh ta, chứa những bình nước nóng. Chúng được đặt ở tư thế quỳ, và cao tới hông Nate, không có quá nhiều chiếc bình được sắp đặt trong phòng để tránh trường hợp người ta có thể va vào chúng. Hầu hết các bình nước đều có màu trắng đục, chỉ có hai chiếc trắng tinh nằm dựa ở bức tường phía xa. Nate có thể nhìn thấy nhãn dán TIẾT KIỆM NĂNG LƯỢNG trên một vài chiếc bình. Một vài đám mây hơi nước nóng bay lơ lửng trong không khí.

Anh ta nghe thấy một vài tiếng sột soạt. Một con gián với thân mình dài bằng ngón nhẫn vội vã leo lên trên một trong những chiếc bình nước nóng. Đó là một con gián Roachasaurus cổ đại màu xanh sáng, loại tổ tiên của con gián anh ta đã nhìn thấy trong căn hộ của mình vào ngày đầu tiên khi đến đây. Những móng vuốt nhỏ xíu phát ra những âm thanh sắc nhọn khi chà lên bề mặt kim loại. Đó luôn là một điều sai lầm khi cho rằng bọn côn trùng phải thật to lớn thì bạn mới nghe được âm thanh của chúng đang hoạt động.

Một hình ảnh đang hiện dần lên trong tâm trí anh ta. Nữ diễn viên Sigourney Weaver 8* trong vai Ripley đang đứng trong một căn phòng sương mù dày đặc với những quả trứng của người ngoài hành tinh.

8* Sigourney Weaver: (tên khai sinh Susan Alexandra Weaver, sinh ngày 08/10/1949) là một diễn viên Mỹ. Bà tham gia nhiều thể loại phim khác nhau, thường thể hiện rất thành công vai nữ có cá tính mạnh mẽ.

Nate bước ra khỏi căn phòng chứa bình nước nóng. Cuối sảnh tòa nhà có một cửa đôi. Anh ta nhìn lại phía sau lưng và đoán rằng mình đang đứng gần với phần phía trước của tòa nhà. Đường thông thang máy có lẽ nằm ở phía bên kia của cánh cửa.

Giống như chiếc cửa đối diện phòng giặt là, hai chiếc cánh cửa này không hề tương thích với phần còn lại của tòa nhà. Chúng là những chiếc cửa thật tao nhã, thuộc loại cánh cửa được dùng ở lối dẫn vào các phòng khiêu vũ hoặc dãy phòng penthouse 9* ở các khách sạn kiểu cũ. Họ đã đặt một thanh chắn ngang qua chúng, theo cái cách mà chú thỏ Bugs Bunny 10* vẫn dùng để chặn các lối cửa. Thanh gỗ ván trông giống như một đường thẳng hoàn hảo có tỉ lệ 2x4. Một chuỗi dây xích quấn ba hay bốn lần xung quanh thanh gỗ chắn và thắt nút quanh mình hai lần quanh tay nắm cửa.

9* Penthouse: hay còn gọi là căn hộ thông tầng, là loại căn hộ tận dụng tầng trên cùng nhất của tòa nhà, cao ốc.

10* Thỏ Bugs Bunny: một trong những nhân vật hoạt hình được yêu thích trong bộ phim cùng tên, do hãng Warner Bros sản xuất.

Nate bước ra khỏi ánh đèn và nhìn chăm chú vào ổ khóa đã được khóa chặt ở cuối đoạn dây xích. Nó là một loại khóa to, rất chắc chắn với chiếc vòng khóa to bằng ngón tay người. Anh ta có thể nhìn thấy một vài đốm sáng lấp lánh của ánh thép lóe lên. Nếu anh ta phải đoán, anh ta sẽ nói rằng chưa từng có ai mở chiếc ổ khóa này trong vòng ít nhất hai mươi năm qua. Anh ta đặt ngón tay của mình vào cánh cửa bên trái, nó rất ấm.

Ấm hơn cả không khí trong sảnh. Anh ta đẩy nhẹ. Giữa chuỗi dây xích sắt và thanh chắn, hai cánh cửa được khóa rất chặt. Giống như anh ta đang đẩy vào một bức tường vậy. Quay trở lại xuống lối hành lang, anh ta nghe thấy tiếng máy giặt đang quay với tốc độ rất nhanh. Vậy là kết thúc chuyến khám phá ở khu vực hầm rượu, anh ta thầm nghĩ.