CHƯƠNG 7
Bước trên những bậc cầu thang dẫn vào một cái hố đen ngòm trong khi trên tay chỉ có duy nhất chiếc đèn pin thực sự là một điều đáng sợ hơn rất nhiều so với tưởng tượng của Nate. Mỗi bước đi xuống tạo ra một quầng sáng tròn đung đưa lắc qua lắc lại khiến cho các bậc thang chìm trong bóng tối trong một thoáng cho đến khi Nate soi đèn trở lại phía chúng. Cảnh này đã xuất hiện trong cả tá những bộ phim kinh dị. Nate vẫn chờ đợi ánh đèn sẽ làm lộ ra một bộ xương, một vệt máu hay thậm chí một sinh vật trắng bệch vì bạch tạng do bị nhốt ở dưới căn hầm ngầm này trong suốt bao nhiêu năm qua. Bàn tay đang siết chặt của Veek trên vai giúp anh cảm thấy bình tĩnh hơn đôi chút. Mỗi bước đi xuống, cô lại nắm chặt vai anh hơn một chút và đến bậc thứ mười thì anh đảm bảo là bàn tay Veek đã hằn dấu lên vai mình.
“Tôi nghĩ là chúng ta đến nơi rồi,” Nate nói sau khi bước đến bước thứ mười tám. Nate dùng đen pin soi một khoảng rộng xung quanh chân mình để chắc rằng anh có thể tiếp đất an toàn. Những gì bên dưới có thể khiến anh trượt ngã và làm hỏng chiếc đèn pin. Cũng có thể nó sẽ khiến anh ngã gãy cổ.
Cầu thang chạy về phía một bức tường đằng trước. Sàn hầm được làm bằng thép, nhìn giống như thể anh đang đứng trên thân của một con tàu chiến. Một vài chiếc đinh tán được vẽ vòng quanh bởi những vòng tròn màu cam. Tất cả chúng đều bị bụi phủi kín.
Nate cảm nhận được Veek đã bước xuống sàn đằng sau mình, một lát sau thì Tim cũng xuống đến nơi. “Tất cả mọi người đều ở đây rồi chứ?”
“Vâng.”
“Có tôi đây,” Tim nói. “Cậu có nhìn thấy cái công tắc đèn nào không? Có thể dưới này cũng có một cái ở đâu đó. ”
Nate xoay đèn pin về phía bức tường và tìm được một công tắc bấm ngay chỗ mà anh không ngờ tới. Nút bấm ở phía dưới đã được ấn vào, nút ở bên trên thì không. Nate bấm chiếc nút bên trên và làm nó tụt hẳn vào trong.
Sáu chiếc đèn chụp được bật lên đồng loạt ngay sau đó và chiếu sáng cả căn hầm, chúng được treo thành hai hàng, mỗi hàng có ba chiếc. Chiếc ở gần phía họ nhất nhấp nháy mất một lúc, vụt sáng lên rồi tắt hẳn. Mấy nhà thám hiểm chớp mắt. Một vài điểm màu xanh, màu sắc tươi sáng duy nhất trong căn phòng cũng biến mất. Phải mất một lúc ba người họ mới nhận ra được hình dạng của những đồ vật bị “chôn vùi” dưới một lớp bụi dày xung quanh. Họ chia nhau ra và tìm kiếm tất cả mọi ngóc ngách trong căn hầm.
Ba người đang đứng trong một căn hầm hình chữ nhật có diện tích lớn hơn một chút so với phòng sinh hoạt chung phía trên. Các bức tường được ép ván gỗ nhưng thời gian đã làm chúng bị co lại và biến dạng. Trần hầm được làm bằng dầm thép và bê tông.
Một chiếc bàn làm việc và một cái bàn dài gần phía cầu thang đã chiếm hết một nửa diện tích căn hầm. Có đến mấy lớp thảm được trải ra bên dưới chúng, che đi sàn thép bên dưới.
Sáu chiếc ghế được bày quanh một chiếc bàn dài. Một vài lọ nhỏ đặt ở chính giữa bàn, Tim thổi lớp bụi quấn quanh chúng. Trong một chiếc lọ đựng thứ bột gì đó màu trắng mà ông tin rằng nó chính là muối, qua đó có thể đoán ra được chiếc lọ đựng toàn hạt đen và xám bên cạnh là tiêu thô.
Nate kiểm tra quanh chiếc bàn. Nó là một chiếc bàn gỗ lớn, được làm từ một tấm gỗ cứng nguyên khối, kiểu vẫn thường được nhìn thấy ở trường đại học New England. Nate nhìn lại phía cầu thang và tự hỏi liệu họ có phải tháo rời nó ra để có thể vận chuyển nó xuống dưới này.
Một tấm giấy trải bàn cổ xưa được trải lên mặt bàn làm việc nhiều ngăn. Cạnh của hốc để đồ được khắc hình dây leo và lá. Một chiếc móc đồng đã chuyển sang màu nâu theo thời gian nhô ra trên mặt hốc. Trên móc có treo một chùm ba chiếc chìa khóa xâu vào một chiếc vòng. Cả ba đều có trục dài và răng khóa hình vuông.
Nate tìm thấy vài mẩu giấy trong một hộp được gắn mác “Xuất”, nhưng lại không thấy chiếc hộp nào có gắn mác “Nhập”. Mực in đã mờ hết theo thời gian và khiến mấy mẩu giấy trở nên rất giòn. Một vài trong số chúng thậm chí đã bị mục nát ở cạnh bởi chính sức nặng của nó. Trong những hốc khác còn có vài mẩu giấy được cuộn tròn lại và sắp xếp một cách cụ thể, nhưng đa phần chúng đều đã mục gần hết.
Phía trên bức tường phía sau chiếc bàn có treo một cuốn lịch, nó được treo trên một chiếc đinh nhỏ. Tương tự như mấy mẩu giấy kia, mực in đã mờ gần hết dù chúng được in đậm hơn. Nate cố gắng đọc những ghi chú được viết vào các ngày trên tờ lịch nhưng không thể dịch được chúng viết gì, tuy nhiên tờ lịch được lật ra vào tháng 11 năm 1898.
“Tôi nghĩ rằng bức tường này nằm ngay dưới vị trí phòng giặt là,” Tim nói.
“Dưới này cũng chẳng hề có cái thang máy nào hết,” Veek ca thán. Cô đang đứng cạnh một chiếc lồng sắt được dựng chỉ cách lối cầu thang chừng một mét. Cáp nối chạy xuống khoảng không đen kịt phía dưới. Veek cố dùng sức để kéo cánh cửa lồng sắt ra nhưng chẳng thể làm chúng dịch chuyển chút nào. Cô tìm cách lắc mạnh nó và việc này khiến cho cả một đống bụi lớn bay tứ tung trong không khí.
“Bình tĩnh nào,” Tim nói. “Nếu cô còn tìm cách lay nó thêm nữa thì chúng ta sẽ chết ngạt vì bụi mất.”
Veek hắt hơi một cái rồi dùng điện thoại chụp lại vài bức ảnh của khung sắt bao quanh đường thông thang máy. Sau đó cô đút điện thoại vào trong túi và rút ra một cái gì đó.
Nate quay đầu về phía Veek. “Cô có gì ở đó vậy?” “Một năm đồng xu,” Veek trả lời. “Tôi sẽ dùng nó để ước chừng xem đường thông thang máy này sâu đến đâu?”
Veek quẳng đồng xu qua khe của chiếc lồng sắt xuống dưới đường thông thang máy. Nó biến mất hoàn toàn trong bóng tối. Một lát sau họ nghe thấy tiếng keng của đồng xu va chạm với bề mặt trong đường thông thang máy. Tiếp đó thì không nghe được thêm tiếng động gì khác.
“Cháu nghĩ rằng nó chỉ va vào cạnh của đường thông thang máy thôi,” Veek nói.
Tim tiến lại gần hơn và đưa ngón tay ra hiệu cho hai người im lặng.
“Đồng xu ấy vẫn chưa rơi xuống đáy đâu,” Veek quả quyết.
“Làm sao cô biết được nếu cứ liên tục nói như vậy chứ?” Tim càu nhàu.
“Nó chưa chạm đáy mà,” Veek nhắc lại. “Cháu nghĩ rằng nó vẫn đang tiếp tục rơi.”
Nate lắc đầu nguầy nguậy. “Không thể như vậy được.” Tim rút ra một đồng hai mươi lăm xu từ trong túi mình ra và lườm hai người còn lại để ra hiệu họ giữ yên lặng. Ông đưa bàn tay qua song sắt cánh cửa và thả đồng xu rơi thẳng từ trên xuống. Tim nghiêng đầu ghé sát vào đường thông thang máy và nhắm mắt lại. Khi ông mở mắt ra vừa kịp lúc Nate đã lẩm nhẩm chừng mười lăm lần Mississippi 10* . Vẫn không hề có tiếng vọng lại.
10* Thay vì đếm một, hai, ba,... sẽ nhanh hơn giây đồng hồ thông thường, vì vậy người Mỹ thường chèn thêm từ Mississippi để làm chậm khoảng đếm.
“Thật là kinh khủng,” Veek thốt lên. Tim gật đầu đồng ý.
“Kia là những thứ gì vậy?” Nate hỏi. Có ba bó gì đó nằm dựa vào bức tường, trông giống như những khổ vải lớn bọc quanh những tấm gỗ dài. Mỗi tấm trong số chúng đều được buộc lại bởi thứ gì đó trông giống một cặp đai lưng mỏng.
“Tôi nghĩ chúng là giường cắm trại,” Tim nói. Ông lần tay theo lớp vải quấn quanh chúng, khi tay ông chạm đến đâu thì chúng rách tả tơi đến đó. “Chúng đều là giường cắm trại cũ.”
Veek bước qua chúng, nhìn về phía chiếc bàn làm việc. Cô chụp lại ảnh của chiếc bàn, chùm chìa khóa và tờ lịch cũ. Sau đó, cô tiến về phía còn lại của căn phòng. Nó được ngăn cách bởi hai cột bê tông chìm trong tường, gần như tạo thành một căn phòng khác.
Phía còn lại của căn hầm không có thảm hay những khoảng tường ép ván gỗ. Sàn nhà bằng thép kêu vang dưới gót giày Veek. Phía xa của bức tường sau bàn làm việc có đặt vật gì đó giống một ghế băng dài. Đối diện với chiếc ghế là một dãy những tủ chứa đồ. Veek đếm được tất cả sáu tủ đồ. Chúng được làm bằng gỗ nhưng có thiết kế và kiểu dáng giống hệt như trong những phòng tập thể hình mà cô vẫn thường thấy.
Veek dõi mắt dọc theo cạnh của căn hầm và dừng lại ở bức tường phía sau cùng. Loại đinh tán ở đây hoàn toàn khác những chỗ còn lại. Chúng to gấp đôi và tạo thành một hình chữ nhật lớn trên bức tường. Nếu không đứng ở khoảng cách này thì cô đã không thể nhận ra nó. Phía trong dãy đinh tán là một tay cầm ngắn và dày, dài chừng mười lăm xen ti mét, bị che phủ bởi một lớp bụi và mạng nhện dày đặc. Veek tiến gần thêm một bước và nhận ra một chỗ phồng lớn ở chính giữa hình chữ nhật.
Có vẻ nó đã được sơn màu đen nhưng lớp bụi dày đặc khiến cô khó có thể xác định được màu thật sự của nó.
Veek tiến về phía bức tường, cúi xuống, hít một hơi thật sâu và thổi mạnh vào vết phồng. Đám bụi bật ra, bay tán loạn trong không khí. Một lượng lớn bụi dính đầy mặt Veek khiến cô phải dùng ngón tay để lau chúng.
“Ồ,” Veek ho sù sụ, “thật không thể tin được.” Nate nhìn về phía đó. “Cái gì vậy?”
“Hai người lại đây mà xem.” Veek lau bụi trên mặt và rút điện thoại ra. Cô chụp mấy tấm hình một lúc sau đó cúi xuống, thổi một hơi mạnh vào dãy đinh tán.
Nate và Tim chạy về phía Veek. “Xem cô gái của chúng ta đã tìm được gì này?” Tim nói.
Phía sau của bức tường là một cửa vòm lớn, cao đến mức đủ cho Tim bước qua một cách dễ dàng mà không cần phải cúi đầu. Veek đã lau sạch hầu như toàn bộ đám bụi bám trên ổ khóa quay số. Ổ khóa màu đen và có các con số màu trắng gắn vào một vòng tròn bằng bạc. Tay cầm ngắn và dày được làm bằng thép đặc bị che phủ bởi một lớp bụi dày. Khi Nate kiểm tra lại cánh cửa thép, anh có thể thấy được bản lề đặt ở phía đối diện. Chúng đã bị vùi dưới lớp bụi cả trăm năm nay.
Tim cúi xuống để kiểm tra ổ khóa quay số. Nó đã được cài lại, vì thế mà số 0 được đặt ở vị trí 12 giờ, ngay dưới một mũi tên trỏ đánh dấu vị trí của ổ xoay. Bên trái của số 0 là bốn vạch kẻ nhỏ và số 95. “Ổ khóa này có đến một trăm số,” Tim nói. Cứ cho là mật khẩu của nó được tạo nên từ ba con số thì cũng có đến cả triệu khả năng.”
Nate nhìn vào ổ khóa số rồi lại nhìn Tim. “Có thể còn nhiều hơn vậy nữa ấy chứ?”
Tim gật đầu. “Người ta phân ra những dòng ổ khóa quay số khác nhau dựa vào cách mà ổ bi bên trong thiết kế như thế nào. Ngày nay hầu hết chúng ta đều thấy loại thứ hai, đó là những ổ khóa móc cơ bản hay là loại khóa tủ,” Tim vừa nói vừa nhìn lại phía dãy tủ đồ bằng gỗ trong phòng. “Hoặc là, chúng ta có thể gặp phải loại ổ khóa số một, chúng thường được dùng trong kho bạc của ngân hàng hay két sắt loại lớn, vân vân. Ổ khóa cổ như chiếc này thường thì không thể xác định được là thuộc về dòng khóa nào, tuy nhiên công nghệ tạo ra chúng hầu như không thay đổi kể từ khi Houdini 11* tìm cách phá chúng và tẩu thoát thành công.” Tim đưa tay ra và ấn mấy đốt ngón tay lên tấm cửa. Âm thanh vang lên cho thấy cánh cửa được làm từ một tấm kim loại rắn và đặc. “Mật khẩu của ổ khóa loại này có thể bao gồm ba con số, cũng có thể là bốn hay năm số...” Ông nhún vai.
11* Harry Houdini (1874 -1926): ảo thuật gia người Áo, nổi tiếng với những màn thoát khỏi xích trong khi bị khóa bằng nhiều loại ổ khóa khác nhau.
Veek đã chuyển qua chụp ảnh căn hầm từ một hướng khác. “Anh có biết nơi này làm tôi nghĩ đến chỗ nào không?”
“Làm sao tôi biết được chứ?” Nate hỏi lại.
“Nơi này có thể là một phòng nghỉ.” Veek nghiêng đầu về phía mấy tủ để đồ. “Ở đây có chỗ để cất đồ lao động và quần áo thường. Có chỗ để cất dụng cụ làm việc nữa.” Veek chĩa chiếc điện thoại trên tay ra hiệu về phía nửa còn lại của căn hầm. “Họ có thể nghỉ ăn trưa ở đây, có thể chợp mắt một lát. Thậm chí còn có chỗ để người quản lý có thể ngồi làm việc nữa.”
“Vậy cô biết tôi nghĩ gì về chỗ này không?” Nate hỏi. “Chỗ này quá gọn gàng.”
Tim cười tủm tỉm và thổi một hơi làm bay nốt đám bụi đang bám trên ổ khóa xoay.
Nate nhún vai. “Chúng đã không được sử dụng từ rất lâu rồi, vậy mà nhìn xem,” anh chỉ về phía chiếc bàn lớn. “Tất cả những chiếc ghế đều được kê sát vào bàn trong khi chiếc bàn đã được lau dọn cẩn thận. Trên bàn làm việc mọi thứ đều được sắp xếp rất ngăn nắp. Cho dù là ai đã từng làm việc dưới này đi nữa thì họ đều không rời khỏi đây một cách vội vã. Họ dành thời gian để sắp xếp lại mọi thứ trước khi xong việc.”
“Điều này có vẻ trái ngược hoàn toàn với việc để lại những lời nhắn trên tường phòng của anh đấy,” Veek nhận xét.
“Đúng vậy.”
“Cậu đang nghĩ gì vậy Nate?” Tim hỏi.
Nate nhìn quanh căn phòng. “Cháu đang tự hỏi rằng liệu những gì diễn ra ở dưới này có chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn hay không. Sẽ ra sao nếu họ làm gì đó ở dưới này trong suốt nhiều năm trời? Thời gian trên tờ lịch là bốn năm sau so với thời điểm ghi trên phiến đá ngoài kia,” Nate chỉ về phía dãy tủ đồ và bàn làm việc. “Không ai chuẩn bị những thứ này cho một việc chỉ diễn ra trong khoảng thời gian cuối tuần hay thậm chí vài tháng. Cháu nghĩ rằng bọn họ đã thực sự làm việc ở đây, đó là một công việc toàn thời gian và diễn ra trong suốt một thời gian dài. Họ có thời gian để dọn dẹp mọi thứ và thậm chí còn dự định quay trở lại để tiếp tục làm việc sau đó. Mẹ kiếp!”
Veek nghiêng đầu về phía anh. “Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?”
Nate nhìn hết về phía cô, rồi nhìn sang cánh cửa hầm và cuối cùng dừng lại ở chỗ Tim đang đứng. “Có khả năng ổ khóa đó có cài mật mã tới sáu con số không bác?”
Tim gật gù. “Hiện tại loại ổ khóa số một này vẫn có thể được cài đặt với mật khẩu tới sáu con số. Nó thậm chí còn không thay đổi cách thức cài đặt, khoan đã. Cô đã kịp chụp lại ổ khóa đó chưa vậy?”
Hai người cùng nhìn về phía Veek. Cô mở khóa màn hình và trượt nhanh qua mấy tấm ảnh rồi sau đó giơ cao chiếc điện thoại lên. Trên màn hình là một trong những hình ảnh của cánh cửa vòm đã được chụp lại.
66-16-9-4-1-89
“Hãy đọc chúng lên,” Tim nói. Họ thử một lần với dãy số đó nhưng tay nắm cửa không hề có dấu hiệu nhúc nhích. Tim quay vòng ổ khóa vài lần để cài lại chúng từ đầu. Lần này thì ông cài dãy số ngược với thứ tự vừa nãy. Con trỏ khóa được đặt trên vạch chỉ cạnh số 90 và ông thử kéo cánh tay cửa một lần nữa.
Tay nắm bằng thép đặc ban đầu không lay chuyển nhưng sau đó bắt đầu lung lay. Ba người thậm chí cảm nhận được sự rung động của những con ốc đã nằm im lìm trong suốt bao thế kỷ bên trong cánh cửa. Tiếng kêu của kim loại vang lớn trong căn hầm khiến cho sàn nhà bằng thép rung lên bần bật.
“Có vẻ không đáng ngại như chúng ta đã nghĩ,” Veek hào hứng.
Tim kéo mạnh tay nắm cửa. Cánh cửa nặng nề nhích dần từng đoạn một. Bản lề kêu lên thảm thiết và một lần nữa lan truyền rung động ra khắp căn hầm. Nate và Veek ra sức cùng đẩy cánh cửa lớn. Một thanh thép chắn bị hất văng ra khỏi bức tường trước khi một luồng không khí ẩm mốc nồng nặc tràn vào từ sau cánh cửa. Nó rất ấm, chính xác hơn là có vẻ hơi nóng.
Ba người họ lui lại một chút để nhìn lại rõ hơn những gì mà họ vừa khám phá ra.
“Chao ôi,” Nate thốt lên sau một giây kinh ngạc, “đúng ra chúng ta phải có sự chuẩn bị trước cho chuyện này!”