CHƯƠNG 37
Clive lau tay vào một chiếc khăn. Không có quá nhiều máu trên cơ thể anh. Anh cứ nghĩ rằng máu của những xác chết đã rơi rải rác trên khắp hành lang và những bậc cầu thang. Tuy nhiên, nó không đến nỗi tệ như việc phải xử lý một túi rác bị rỉ nước.
Suy nghĩ này đã nảy lên trong đầu anh trong giây lát, và cái dạ dày trống rỗng của anh đang cuộn lên. Clive ngừng lại để kiểm soát những ý nghĩ này. Điều cuối cùng mà dạ dày anh cần là phải quên ý nghĩ này đi. Anh hít thở thật chậm, nghĩ về Debbie, và nghĩ đến viễn cảnh về một ngày họ sẽ sơn sửa lại căn hộ của mình như thế nào.
Nó giống như một công việc đa di năng vậy, anh tự nhủ. Anh đã từng làm một chân rửa bát khi đang học trung học và là người gác cổng trong hai năm học đại học. Đã có rất nhiều chuyện tồi tệ mà anh phải đối mặt khi làm cả hai công việc trên. Bí quyết là hãy giữ khoảng cách giữa bản thân mình với bất cứ điều gì mà ta phải đụng đến.
Chúa ơi, một đồ uống gì đó sẽ là điều tuyệt vời vào ngay lúc này.
Quai hàm của anh vẫn đau nhói từ sau cú đấm của Andrew. Clive đã bao lần dò lưỡi quanh răng hàm và cảm thấy có vẻ như chúng đang lung lay.
Di chuyển một gã nhỏ hơn mình chưa bao giờ là vấn đề. Không ai trong số những xác chết ở đây nặng hơn Clive, vì vậy vấn đề ở đây sẽ chỉ là cách buộc cổ chân của họ vào với nhau như thế nào - một mánh học được từ Tim, và cũng không hề tốt đẹp gì khi tự hỏi rằng vì sao ông lại biết được cách này, và đã bao lần ông thực hành việc này - kéo một người đi qua phòng sinh hoạt chung rồi lôi họ xuống những bậc cầu thang. Việc này diễn ra một cách chậm chạp, Clive tự an ủi bản thân rằng đầu của người đàn ông đầu tiên đã không bị nứt ra làm đôi khi nó nảy tưng tưng trong lúc bị kéo lê xuống cầu thang.
Gã đàn ông cao to nhất đã gây ra rất nhiều sự phiền hà cho anh. Bên cạnh trọng lượng, thân hình hắn ta cũng không hề bình thường. Hắn có đôi mắt to thô lố, cái miệng rộng quá khổ, và còn nhiều vấn đề khác thường hơn thế. Khi Clive nhấc chân hắn lên để buộc lại, thì chúng lệch hẳn nhau. Đầu gối hắn ở quá cao, còn vùng hông thì quá lỏng lẻo. Những ngón tay hắn lại quá dài. Không phải giống độ dài của một quái vật ngoài hành tinh, nhưng cũng đủ để thấy là bất thường. Đáng chú ý nhất là hai ngón tay mà Tim đã làm gẫy trên bàn tay trái của hắn.
Có một thuật ngữ mà bạn bè của Clive hay sử dụng, những người làm việc rất nhiều với trò chơi trên máy tính - “Thung lũng giả tạo.” Đó là một ngưỡng tâm lý nơi mà mọi thứ đều trông rất giống với “con người”, nhưng vẫn không đủ để gọi đó là “con người”. Đó là lý do tại sao mà một vài ma nơ canh trông rất đáng sợ, trong khi những con khác lại không hề như vậy. Con quái vật CGI trông có vẻ đỡ kinh khủng hơn những cư dân CGI.
Người đàn ông cao to kia có lẽ đã ở trong thung lũng giả tạo. Hắn ta là một người sống - hoặc đã từng sống - người có những đặc điểm gần giống với con người nhưng không đủ để có thể được gọi là con người thực thụ. Hắn trông rất đáng sợ. Andrew đã nhắc đến tên của người đàn ông này, nhưng khi Clive dừng lại nhìn vào cái xác này, thì cái tên hiện lên trong đầu anh lại là “Grendel.”
Không hiểu sao, đặc điểm người phụ nữ lớn tuổi lại có vẻ dễ dàng phân biệt hơn. Không thể nhầm lẫn giữa bà với một người bình thường. Khuôn mặt bà trông như một con ếch đội lốt người, làn da xám xịt và trơn tuột như da lươn. Khi chết, cơ thể bà nhũn ra, và phẳng lì như để thể hiện sự đồ sộ của mình.
Tất cả năm xác chết giờ đây đã nằm thành một hàng dài. Có một đường gờ tường bằng bê tông có kích thước tương đối rộng nằm phía sau tòa nhà. Hầu như những mảnh vụn trong cơn cuồng phong đã không thể làm gì được nó. Hàng rào đằng sau không hề bị tổn hại, nó cao khoảng ba mét so với mặt đất.
Clive đã lau sạch những thứ nhớp nháp ở tay mình dính từ thi thể người phụ nữ và ném một chiếc khăn lên nửa trên cơ thể bà. Ý nghĩ về việc Debbie sẽ chạm vào tay anh, hay nhờ anh lau chén bát, làm dạ dày Clive lại cuộn lên lần nữa.
Oskar không hề có một bảng hướng dẫn nào được dán phía sau cửa phòng. Những gì họ tìm thấy chỉ là một căn hộ chiếm toàn bộ một góc của tòa nhà. Cả ba tầng nhà được nối với nhau bởi một cầu thang xoắn ốc được trang trí công phu. Roger đã tìm kiếm trong các phòng ngủ và tầng trên cùng khi Nate thăm dò khu bếp và Veek lục soát các phòng ở tầng trệt đến hai lần.
Cô giẫm chân lên những bậc cầu thang và kéo theo đó là tiếng lan can sắt vang lên sau mỗi bước chân. “Được rồi,” Veek nói với Nate, “làm sao mà ông ta lại không có lấy một chiếc máy tính cơ chứ? Có những người chỉ sống trong lều tranh thôi mà họ vẫn có máy tính xách tay.”
“Có lẽ ông ta không có vì một lý do nào đó,” Nate nói. “Có thể căn hộ này nằm trong khu vực bị ảnh hưởng bởi từ trường hay một cái gì đó từ cỗ máy. Chúng không thể hoạt động trong này được.”
“Hoặc ông ta chỉ là một lão già không bao giờ động đến máy tính,” cô thở dài. “Em không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy điều gì đó ở đây.”
“Chúng ta chỉ mới tìm kiếm trong bao lâu nhỉ? Một giờ đồng hồ thôi phải không?”
Cô gật đầu. “Vâng. Chúng ta mới chỉ tìm kiếm trong ba căn phòng trong vòng một tiếng và không ai trong chúng ta có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ngoài một chùm chìa khóa.”
Veek đã tìm thấy chùm chìa khóa trong ngăn kéo để mở trên cùng của bàn làm việc và một cuốn séc của Oskar. Chúng là những chìa khóa của các căn hộ khác nhau, những con số được viết rất nhỏ trên một mảnh giấy nhỏ hình tròn được treo dây dưới những chiếc chìa khóa. Có bốn chiếc chìa khóa không đồng đều được buộc lại với nhau bằng băng keo màu vàng. Trên đó là một tấm thẻ nhựa lớn nhất được đánh dấu số 14 với vết mực màu xanh. Nate chợt nghĩ rằng một trong những chiếc chìa khóa kia có thể sẽ vừa với ổ khóa đã bị hút về phía hai vầng mặt trời ngoài hành tinh kia.
Cùng với bà Knight.
“Có lẽ em đã đúng,” anh nói. “Ông ta sẽ tìm cách giấu đồ bắt đầu từ bếp, đến giá sách, và thậm chí là kéo cả chiếc ghế dài tách ra làm đôi.”
“Không có gì trên tầng cả,” Roger nói trong khi bước xuống từ lối cầu thang xoắn ốc. “Chiếc hộp dưới gầm giường của ông ta chẳng có gì ngoài những bức ảnh cũ. Rất nhiều những bức ảnh linh tinh từ Chiến tranh thế giới thứ hai toàn hình xe tăng. Tôi cũng đã kiểm tra quần áo và tủ quần áo của ông ta, tìm thấy vài bức thư cũ, hộp đựng các giấy tờ thuế má từ những thập niên 80.” Anh nhún vai. “Chẳng có gì giống với những thứ chúng ta cần.”
“Bồn cầu thì sao nhỉ?” Nate đề nghị. Roger lắc đầu. “Tôi đã kiểm tra.”
“Phải có một thứ gì đó,” Veek nói. “Làm sao mà anh có thể chịu trách nhiệm về cả tòa nhà này mà không có bất cứ giấy tờ, văn bản gì?”
“Có thể có một hình xăm trên cánh tay ông ta nếu đó là một thứ quan trọng,” Roger nói. “Ai mà biết được cơ chứ?”
“Hoặc,” Nate nói, “có lẽ ông ta biết cách phải ‘kéo chiếc cần gạt nào của cỗ máy này trong trường hợp khẩn cấp’ hoặc một điều tương tự như vậy.” Anh lắc đầu. “Dù thế nào đi nữa, tôi nghĩ đây là hy vọng cuối cùng.”
“Người anh em,” Roger nói, “đừng có bi quan như thế.” Anh lắc đầu.
“Tôi xin lỗi,” Nate nói. “Chúng ta sẽ phải ra khỏi đây và cố gắng tìm ra ông ta. Và nếu chúng ta may mắn, ông ta sẽ còn đủ sức để có thể nói cho chúng ta biết làm thế nào để thoát ra khỏi đây?”