← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 40

Tôi nghĩ chúng ta đã hoàn toàn sai rồi,” Xela nói. Cô nhìn về phía Andrew. Hắn ta đang ngồi, hai mắt nhắm tịt và cằm gục xuống cổ. Đôi môi hắn ta đang mấp máy nhưng không phát ra tiếng. “Anh ta chắc cũng không biết một chút nào về thiết bị điện. Anh ta chỉ biết phá phách bảng điều khiển này.”

Tấn công luôn cả bức tranh vải bố.

Cô tưởng tượng mình đang bắt đầu một bức vẽ. Cây cọ của cô vươn ra và đặt lên chính giữa tấm vải.

“Được rồi,” Xela nói. “Cả về mặt thẩm mỹ và công thái học, chúng ta đều cố gắng nhìn mọi thứ theo một cách đơn giản nhất. Đó là cách mà tạo hóa tạo ra chúng ta.”

Clive và Debbie nhìn nhau. Debbie nhún vai. “Được,” chị nói.

Xela liếc xuống người đàn ông đang lầm rầm cầu nguyện và giữ thăng bằng ngay trước bảng điều khiển trên một chân lành lặn kia. “Chị nói anh ta đã đứng ở đây. Andrew và tôi cao gần bằng nhau. Vậy nếu tôi cũng ngẫu nhiên tắt một nút công tắc nào đó...”

Cô giơ bàn tay ra, chếch xuống dưới một chút. “...Tôi sẽ có thể với tới vài công tắc nào đó ngay chỗ này.” Xela cúi xuống và nghiên cứu những công tắc bám đầy bụi bặm. Chúng là những cần gạt bằng thép to bè, các đầu hình vuông. Một vài trong số chúng đầu bọc cao su đã bị mủn.

“Tất cả những cần gạt này đã có tác dụng nào đó,” Debbie nói. “Andrew đã gạt gần như toàn bộ những cần gạt này, chúng bị động chạm ít nhất một lần.”

Đầu Xela ngước lên ngước xuống trên mặt bảng điều khiển. Cô liếc nhìn Debbie. “Hai người có cái đèn pin nào không?”

“Chắc có đấy.”

Clive gật đầu. “Em xem trong tủ dụng cụ, có thể có một cái nhỏ trong ngăn kéo trên cùng, bên tay trái ấy.”

Debbie tìm thấy một cái và ném nó cho Xela. Xela soi đèn lên khắp bảng điều khiển. Hàng tấn bụi trong cả trăm năm và đất cát chất đống lên hầu hết các công tắc.

Một phần ba trong số chúng đều ánh lên dưới ánh sáng của đèn pin.

“Được rồi,” chị nói khi liếc về phía Andrew. “Anh ta đã không có quá nhiều thời gian. Ai đó có thể đã đi ngang qua, nghe thấy những tiếng ồn ào, và có thể gọi cả cảnh sát. Vậy thì cách nhanh nhất và dễ dàng nhất để thực hiện hành động chính là gạt hết những cần gạt này xuống, phải chứ? Theo thuyết công thái học 35* thì việc đẩy cần gạt lên sẽ là điều vô lý. Anh ta hẳn là đã gạt tất cả những cần gạt này xuống.”

35* Thuyết công thái học: Nghiên cứu thiết kế máy móc, công cụ, máy tính... sao cho dễ tìm - dễ thấy - dễ sử dụng, đạt được sự thoải mái, an toàn, hiệu quả.

Debbie gật đầu. “Có lý đấy.”

Xela chỉ vào một hàng cần điều khiển, cẩn thận để không vô ý chạm vào chúng. “Những con quái vật kia đã thổi tung bụi vào đây, nhưng một số cần gạt vẫn có những vệt bụi được lau sạch. Chị có thể nhìn thấy điều này khi soi đèn vào chúng. Chúng hoàn toàn sạch sẽ. Thậm chí còn có một vài vệt bóng loáng trên phím điều khiển, giống như dầu từ ngón tay của ai đó vẫn còn lưu lại.”

Họ liếc nhìn Andrew. Đầu hắn ta đã gục xuống, và đôi môi đã ngừng mấp máy. Clive nâng khẩu súng chĩa thẳng vào đầu Andrew.

“Và cái núm này,” Xela nói, đồng thời soi đèn pin vào nó, “Có bụi phía dưới, nhưng trên chóp núm thì không. Nó gần như đã bị quay ngược một trăm tám mươi độ so với vị trí cũ.”

“Cô chắc không?” Clive hỏi.

“Khá chắc,” Xela nói. Cô bước thật cẩn trọng rời khỏi bảng điều khiển. “Có thể sẽ mất chút thời gian, nhưng tôi nghĩ mình có thể hình dung ra vị trí của tất cả những phím điều khiển này trước khi chúng làm cỗ máy dừng hoạt động. Chị có tờ giấy nào không? Hoặc chỉ cần một cái gì đó để viết vào thôi.”

“Có,” Debbie nói. “Tôi có giấy.” “Tuyệt, và một chiếc bút chì nữa.”

Đỉnh núi là một vùng bị sụt xuống. Có thể đó là một miệng núi lửa khổng lồ, hoặc cũng có thể là một vùng điểm khai quật. Nó sâu phải đến nửa dặm. Phía xa trở nên mờ nhạt và mất hút nơi chân trời.

Ngay chính giữa, sừng sững giữa nền trời là một tòa tháp, trông rất mơ hồ vì ở rất xa.

Tòa tháp có một số đặc điểm giống một đài tưởng niệm, trông rất giống Đài Tưởng niệm lục giác Washington, được bao phủ bởi những vật bị cuốn đi khắc sâu trên bề mặt. Đỉnh tháp là một sự sắp xếp khá quen thuộc của các mấu chạc và xà ngang. Mỗi chiếc trong số chúng có đường kính từ mười lăm đến mười tám mét nếu quan sát từ chỗ họ đang đứng, trông như những tòa tháp khổng lồ được xây dựng trên các xa lộ.

Nate phải mất một lúc mới nhận ra toàn bộ những thứ này trông giống một khuôn đúc nữ trang khổng lồ để làm nhẫn.

Anh thử ước lượng chiều cao của tòa tháp này, nhưng xung quanh nó không có bất cứ một vật gì để so sánh. Xung quanh chân tháp là một quần thể những cột hình tháp, những tòa nhà và các hội trường nhỏ hơn, giống như một lâu đài đầy màu sắc rực rỡ hoặc tương đương với một thành phố nhỏ. Nate nhận thấy những tòa nhà ở đây không hề có cửa sổ. Một cổng vòm gần rìa của khu phức hợp này trông có vẻ hơi nhỏ để so sánh, nhưng nó có lẽ cũng phải cao tới ba mươi mét.

Quan sát kĩ hơn, ánh mắt Nate đang nhìn chằm chằm vào thứ gì đó trên sườn dốc. Anh thở hổn hển. Tim đã phải bịt một tay lên miệng Nate trước khi anh có thể phát ra bất cứ một tiếng động nào.

Cách đó khoảng một trăm thước về bên dưới, họ trông thấy một hàng dài gồm những người đàn ông và đàn bà. Da họ hoàn toàn là thật, tóc họ bện thành những lọn dài xơ xác. Nhiều người trong số họ đang lê lết trên hai tay và đầu gối, họ lăn lộn trên nền cát. Một vài người đang khênh những tảng đá.

“Họ là người,” Veek nói. Giọng cô hạ xuống khi nhìn thấy những người khác.“Có người ở đây sao?”

“Sao lại thế được nhỉ?” Tim nói. Ông mở túi và lấy ra hai ống nhòm nhỏ. Một chiếc đưa cho Nate.

“Ở đây không có gì để ăn, cũng không có nước uống.”

“Có lẽ tất cả đều có ở trong lâu đài kia,” Roger nói. Anh chỉ về phía khu phức hợp.

“Có thể có những cỗ máy sao chép trong bộ phim Star Trek và tất cả mọi thứ ở trong đó.”

“Họ trông có vẻ không hiện đại cho lắm,” Nate nói. Anh xoay một bên ống nhòm bằng ngón cái và gí sát mắt vào ống kính. “Tôi nghĩ họ đều không có quần áo.”

“Nghiêm túc chứ?” Roger nói. Anh chăm chú nhìn xuống sườn dốc.

“Không,” Tim nói. Ông đưa ống nhòm lên mắt. “Họ không hề trần truồng. Họ đều đeo một tròng cổ. Những tròng cổ bằng kim loại.”

Phải mất một lát để ba người còn lại hiểu được ông đang nói gì. “Để em xem nào,” Veek nói. Cô lấy chiếc ống nhòm từ tay Nate và gọng kính trên trán. Roger với tay ra định lấy ống nhòm từ Tim, nhưng người đàn ông lớn tuổi này từ chối.

“Tôi không thấy bất cứ ổ khóa nào trên người họ,” Tim nói, “nhưng tôi thấy rõ một cái gì đó trông giống như những vết sẹo cũ. Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng chúng đang bị gắn chặt vào họ. Những vết sẹo đó sẽ không bao giờ mất đi.”

“Bác có thấy một... một tay giám sát hay người nào đó tương tự không?” Nate hỏi. “Một tay bảo vệ?”

Tim lắc đầu. “Vẫn chưa.”

“Hãy nhìn họ đi,” Veek nói. “Xương hàm của họ trông giống xương hàm của khỉ đột. Thậm chí cả phụ nữ, bờ trán của họ trông cũng thô kệch.”

“Lông mày ư?” Roger hỏi.

“Không, trán của họ. Xương sọ của họ.” Cô lắc đầu. “Họ trông giống người Neanderthal.” Cô trao ống nhòm cho Nate.

“Người tiền sử làm cái quái gì ở đây?” Roger hỏi. “Trông họ giống người tiền sử,” Tim nói. “Nhưng không có nghĩa họ là người tiền sử.” Ông ngừng lại.

“Những tên lính gác không phải là người.” “Ở đâu cơ?”

Tim chỉ cho họ mà không hề giơ tay ra hoặc hướng nó về bất kể phía nào. “Có một nhóm dưới đó,” ông nói.

“Nhóm lớn hơn. Nhìn gần vào trung tâm đi. Chúng bị lẫn bởi chiếc áo choàng có cùng màu với nền cát.”

Nate dò đi dò lại. Anh lướt qua chúng đến hai lần trước khi nhận ra sự chuyển động của sinh vật trên trảng cát dài vô tận. Chúng gần như vô hình.

Những tay lính gác có dáng cao gầy. Chúng cao hơn ít nhất khoảng từ nửa mét cho tới một mét so với những người tiền sử kia, mặc dù rất khó để có thể chắc chắn với độ nghiêng của bờ vai uốn cong của chúng. Một chiếc áo choàng màu bụi và chiếc nón đã che gần như toàn bộ thân hình những tên lính gác này, nhưng Nate trông thấy thấy chiếc cằm nhọn bên dưới vành nón. Những chiếc răng như những cây kim thò ra khỏi hàm, có vẻ quá dài khiến miệng chúng không thể khép lại. Đôi mắt lấp lánh phía trong chiếc nón, nhưng Nate không thể nhìn kĩ hơn nữa.

Hai tay tên lính gác lăm lăm cầm ngọn giáo, và ép sát vào người. Những ngón tay, và khớp ngón tay có màu da và kết cấu của đất sét ướt, giống hệt với quai hàm của bọn chúng.

Trông giống da của một bà lão.

Bàn tay kia của tay lính canh đang co vào cơ thể mình. Nó giống với cử động của một người đang làm công việc kiểm đếm, hoặc có thể chỉ là một phản ứng giật của dây thần kinh hoặc đại loại như vậy.

Bánh răng tinh thần trong Nate kẹt lại trong giây lát.

Anh bỏ ống nhòm ra, rồi lại đưa lên quan sát. Anh thực hiện lại hành động này một lần nữa để chắc chắn những gì mình vừa trông thấy.

Tên lính canh đặt hai cánh tay trên ngọn giáo. Nhưng hắn còn có một cánh tay phụ khác đang co giật ở một bên cơ thể.

“Không thể nào,” Nate thốt lên.

“Thêm một tên lính gác nữa,” Tim nói trong khi gí sát hai mắt vào ống nhòm. “Và một tên nữa. Chúa ôi, phải có đến hai trăm tên, hoặc có thể hơn.”

“Còn cánh tay của chúng?” Nate hỏi.

“Chúng đều như vậy,” Tim nói. “Và chúng đều có chức năng. Đó không phải là một dị biến hay cái gì đó.”

“Gì cơ?”

“Những tên lính canh có thêm một cánh tay phụ,” Nate nói. “Giống như những con gián.” Anh đưa chiếc ống nhòm cho Veek. Cô đưa ống nhòm lên mắt.

“Tôi đoán phải có khoảng sáu ngàn nô lệ dưới đó,” Tim nói, “dù chúng là sinh vật gì đi chăng nữa, thì bét cũng phải có đến không ít hơn năm trăm tên lính gác.”

Rời mắt ra khỏi những đoàn người nô lệ và những tên lính canh, Nate đoán tòa tháp nằm cách đó khoảng hai dặm. Anh cố gắng ước lượng những con số trong đầu và nhớ về lần anh leo lên hẻm núi Runyon để quan sát toàn thành phố Los Angeles. Vị trí đó giúp anh có một cái nhìn tổng thể về quy mô của thành phố. Nếu anh đúng, thì những tòa nhà khác nằm dưới chân tòa tháp này có lẽ cách chỗ anh đang đứng khoảng một dặm. Riêng tòa tháp chính đã chiếm gần đến một phần tư dặm trên mặt đất. Chiều cao của nó phải hơn gấp năm lần so với chiều rộng.

Nó không chỉ mơ hồ vì khoảng cách, mà chiều cao của tòa tháp còn gần như đã chạm tới bầu trời.

“Chúng ta sẽ không bao giờ tới được đó,” Tim nói. Ông hạ ống nhòm xuống và lắc đầu. “Tính toán theo miệng núi lửa này và khoảng vài dặm của vùng đất trống với mỗi tên lính canh đứng cách nhau khoảng một trăm dặm hoặc hơn, tôi sẽ không liều mình chỉ với một khẩu súng và một một quả lựu đạn đâu. Điều quái quỷ hơn là việc này sẽ rất khó thực hiện dưới sự tác động của không khí.” Ông ngửa người ra và trượt xuống từ đỉnh núi. “Thậm chí nếu chúng ta làm được việc này, thì sẽ có bốn hoặc năm tòa tháp rộng như Lầu Năm Góc nằm sin sít lại với nhau. Chúng ta có thể sẽ phải mất hàng năm trời để tìm kiếm Oskar.”

“Ôi, chết tiệt,” Veek thốt lên. Cô lướt trên điện thoại của mình trong khi ống nhòm vẫn đặt trên mắt.

“Có một cuộc gọi ư?” Roger hỏi.

“Tôi mong là như vậy,” Veek trả lời. Cô mở khóa điện thoại và nó hiện ra những dòng chữ vô nghĩa. Cô liếc vào màn hình, rồi lại dán mắt vào chiếc ống nhòm. “Nó giống nhau.”

Nate nhìn vào chiếc điện thoại. “Cái gì cơ?”

“Những dòng chữ ngoằn ngoèo trên điện thoại,” Veek nói, “những thứ chúng ta không thể hiểu ra. Chúng đều nằm trên tòa tháp. Nó nằm trên mọi thứ. Nó nằm trên những tòa nhà và...”

Veek nghẹn lại, cô trao ống nhòm cho người bên cạnh rồi trượt xuống sườn dốc vài xen ti mét. Cô lắc nhẹ đầu để mắt kính từ trên trán rơi về vị trí cũ.

Nate đưa tay ra và nắm lấy bàn tay Veek. “Em không sao chứ?” Anh lo lắng.

“Em nhìn thấy Oskar,” cô bần thần, đôi mắt mở to. Tim trườn bụng trở lại đỉnh núi và lê trên sườn dốc. “Thật sao?”

“Vâng,” Veek nói. “Gần như là ông ấy.” “F*ck,” Roger lẩm bẩm.

Tim dùng ống nhòm quét tầm nhìn quanh miệng núi lửa. “Ở đâu cơ?”

Veek đẩy kính lên, quệt mu bàn tay ngang mắt. “Bên trái tòa tháp, có thứ gì đó rất lớn giống như nhà kho với một hầm chứa dưới lòng đất. Có một mái vòm ngay cạnh đó, và tiếp đó là một quảng trường lớn. Ông ấy ở đó.”

Nate nhận ống nhòm từ tay Veek, và bò lên phía sau Tim. Anh đã nhìn thấy căn nhà kho và lần theo dấu vết đó tìm đến cổng mái vòm. Có một lối đi rất lớn - rộng bằng một đường cao tốc gồm sáu làn xe - nó dẫn tới một quảng trường khổng lồ rải đá cuội thô. Có những cột tháp đứng phía cuối quảng trường. Cách đó khoảng hơn chục thước từ phía cổng mái vòm dẫn tới con đường cao tốc là một đốm sáng màu ngà trên những tảng đá đen. Anh nhìn đi nhìn lại đốm ngà đó cho đến khi nó hiện ra rõ rệt.

Một nửa thân dưới của Oskar đã biến mất. Nate cố gắng lãnh đạm với hình ảnh này và nhận ra một phần thân thể ông ta đã biến mất bằng một vết cắn sắc lẹm. Thứ gì đó đã cắn ngang qua hông ông ta và lấy đi cả phần thân dưới. Từ tàn tích của những phần thân thể còn lại, trông có vẻ như phần lớn ruột gan ông ta cũng đã biến mất. Chúng chỉ để lại một thân người rỗng tuếch được dựng nên với những khung xương sườn bên trong. Da ông ta xanh xao, và Nate băn khoăn liệu máu của ông ta đã nhỏ trên khắp sa mạc kia không, hay những con quái thú kia đã hút cạn máu của ông ta giống như những con dơi ma cà rồng khổng lồ.

Roger chộp lấy chiếc ống nhòm từ tay Nate và nhìn về phía cái xác. “Anh có nghĩ là ông ta đã chết trước khi chúng... cắn nát ông ta ra như thế kia không?”

“Ông ta có lẽ đã chết vì sốc khi chúng lôi ông ta đi,” Tim nói, nhưng gương mặt ông ta không chắc chắn lắm. “Tốt,” Veek nói. “Như thế lại... tốt.”

Tất cả họ đều ngồi sụp xuống phía sườn núi bên kia. “Chúng ta nên ra khỏi đây,” Nate nói. “Quay về tòa nhà và cố gắng tự tìm cách điều khiển cỗ máy kia.”

Một đám mây trôi qua chắn ngang mặt trời, chặn ánh sáng lờ nhờ phát ra trong giây lát. Một đám mây khác giấu nó đi và nhấn chìm họ trong thứ ánh sáng mờ ảo.

“Gió đang nổi lên,” Roger nói. “Có thể sẽ là một chuyến trở về khó khăn đây.”

“Chúa tôi,” Veek thốt lên. “Không phải là gió.” Và những con quái vật đã quay trở lại.