← Quay lại trang sách

3. Rừng đen -

Adam hít một hơi thật sâu rồi chậm rãi tiến về phía khu rừng đen tối kịt trước mặt. Đêm buông thõng một nỗi lạnh lùng đáng sợ. Adam tự hỏi, nơi đó - ở góc tối không người - sẽ còn có thứ đáng sợ hơn những gì Adam vừa chứng kiến chăng?

Tiếng sói tru càng vọng ra rõ ràng hơn. Adam thêm lần nữa - như tất cả mọi lần - tự hỏi, có thật có con sói nào đó sống sót giữa khu rừng không đủ dày để làm chỗ chứa thân cho giống loài vốn cần hoang dã ấy? Hay, chính sự thèm khát hoang dã, thèm khát tự do trong anh đã đưa anh đến cái đoạn anh biết chỉ còn riêng mình đối diện với bóng đêm, để được nghe thứ âm thanh mà ắt hẳn con người không nghe thấy được?

Thêm một tràng tru rền rĩ nữa vọng thẳng ra, gọi mời theo cách đầy khiêu khích. Adam dong mắt nhìn thẳng. Tối đen. Adam lừng khừng thêm chút nữa, rồi, cuối cùng cũng như mọi khi, với Adam, đó có thể là một dấu hiệu trong số những dấu hiệu anh tự đặt tên là chìa khóa mở cánh cửa tìm ra sự thật đời mình, nên, anh bước tới.

Từng tán rậm cây xù xòa trước mặt. Adam bật cười. À, anh cao - so với con người ở đất nước da vàng này, cao so cả với chiều vươn của từng tán cây - theo cách anh luôn cho là bình thường nhưng những kẻ sống cạnh không muốn dung anh gọi là ngạo nghễ. Đã thế, thôi thì cứ ngạo nghễ vươn cánh tay thừa dài, thừa khỏe của anh ra để mở đường cho chính những bước chân anh đã chọn đi tiếp. Tất cả, đáp lại Adam, vẫn chỉ là bóng đêm.

Adam lặng thinh nghe tim mình vỡ thêm nhịp nữa - cái vỡ của khoảnh khắc giận mình tự mị bởi những hoang đường không có thật. Phải, làm gì có tiếng sói nào ở đây, giữa thành phố này?! Adam thở hắt ra, nhìn xoáy thẳng vào bức tường đen kịt đang giễu trước mắt mình, rồi lặng lẽ quay đầu trở lại. Ngoài kia, ánh sáng lập lòa dấy lên trong lòng Adam một nỗi niềm khó tả. Rằng, ngoài đó, con người ta có còn chà đạp, giết chóc lẫn nhau? Tự dặn lòng đừng để mình sợ hãi, hay, chí ít đừng để bất kỳ ai biết mình đang sợ hãi. Phải, chỉ có thế mới có cơ hội để tìm đến hai chữ sinh tồn.

Sương trắng bảng lảng bậu víu vào khoảng đêm đen nhập nhòa trước mắt. Adam dấn thêm bước nữa, đi về phía đất trời không có chỗ dung thân. Bất chợt, thằng đàn ông trong Adam bật khóc...

Adam bước, những bước chậm rãi, nặng nề và chua cay. Cả châu Âu sụp đổ hoàn toàn. Điều không tưởng rồi cũng trở thành sự thật. Bà mù Vanga đã đúng! Trước cả trăm năm, bà ta đã nói chính xác tháng ngày vùng đất hùng mạnh đổ vỡ đến tan tành. Ngày ấy đã tới! Không muốn thừa nhận nó là sự thật thì sự thật cũng phũ phàng phơi bày ra trước mắt rồi đấy thôi.

Adam đến trước tòa tháp đồng hồ London, nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ khổng lồ vẫn đang chạy. Chua chát và châm biếm thay! Mọi thứ đều sụp đổ! Mọi thứ đều thành đổ nát cả rồi, mà nó, thứ đếm thời gian vẫn đều đặn nhích từng giây cây kim to bự. Thời gian không thể ngừng lại. Cho dù có thế nào, thì, thời gian vẫn chuyển động. Có nghĩa, con người vẫn phải sống và vẫn phải tiến về phía trước.

Nghĩ đến đấy, Adam rùng mình. Con người ư? Anh là con người ư? À, vâng! Trong hình hài của một thân xác con người, anh vẫn tồn tại cạnh những con người khác, chỉ khác duy nhất một điều - trái tim anh không đập, thế thôi! Anh, đôi khi thậm chí quên hẳn cảm giác trái tim còn đập là thế nào. Mọi sự đến bất ngờ, trôi qua quãng dài thừa đủ để ký ức anh phai nhạt. Adam thở dài, con người, con người...

Đã có những lời cảnh báo anh về chuyện này - ngày mà châu Âu suy tàn thật sự - nhưng không gì đủ với anh để anh đừng đến. Những dấu hiệu, phải, những dấu hiệu quá rõ ràng đã dẫn anh đến đây, trước đây, lúc này và chắc chắn sẽ lưu anh ở lại được, nếu những dấu hiệu vẫn không mất đi. Suốt cả trăm năm hơn, Adam đuổi theo những ký tự, những hình vẽ, những thứ được anh quy về dấu hiệu dẫn đến sự thật về sự ra đời của anh, đủ để anh biết, những gì mình tin là hoàn toàn đúng. Và, anh phải đi theo!

Mỹ và châu Âu khác xa nhau. Adam nhận ra điều này ngay từ giây phút đầu tiên rời Mỹ đến châu Âu để tìm lại chính mình đã đánh mất trong quá khứ. Nhưng, anh không thấy lạ lẫm - hoàn toàn không! Có lẽ, nhanh chóng hòa hợp là một trong số những khả năng Adam có, mà anh chưa từng phải tìm hiểu về nó, theo thể, cứ mặc sức mà phát triển theo tự nhiên, nếu nó có thể. Cái khác lớn nhất mà Adam thấy khó dung hòa, đấy là sự xét nét quá sức của người châu Âu dành cho những người không thuộc nhóm của họ - thứ mà sau này, khi nghĩ đến, Adam thấy đáng đời vì họ không được đón nhận ở những nơi khác, khi họ trở thành những đứa con mất nhà lánh tạm, thật sự là đáng đời - khiến anh có ít nhiều khó khăn khi muốn đến sống ở đây để tìm kiếm thứ anh muốn tìm. Nhưng, chừng ấy không đủ để anh ghét bỏ những người đã dung chứa anh, theo cách nào đấy, mà, để thương yêu cũng khó.

Ngày châu Âu suy tàn, sau một tiếng động duy nhất dữ dội rền lên, tiếp đó là những tiếng rú thét thảm thiết của đớn đau thể xác từ những con người không cố giữ cho mình những giây cuối đời bình thản nghĩ về những điều tươi đẹp, từ những cơ thể vĩnh viễn không còn lành lặn trở lại được nữa, rồi đến những tiếng gào đau thương khi mất đi gia đình, họ hàng, bạn bè, người yêu thương. Châu Âu vẫn rực nắng sau cú chấn động để đời, nhưng, không khí tang thương lớn đến độ, trùm cả màu xám trắng tang tóc cay nghiệt lên toàn khu vực này.

Adam loay hoay với suy nghĩ, mình sẽ bằng cách nào tìm thấy quá khứ của mình giữa mớ hỗn độn còn sót lại này? Rồi, ngay lập tức, một dấu hiệu hoàn toàn mới - một mũi tên ánh vàng lóe sáng - hướng thẳng về bán cầu Đông, châu Á! Adam biết, dấu hiệu đã dẫn mình đi tiếp bước nữa. Anh cần phải tìm ra tất cả mọi dấu hiệu! Anh cần xâu chuỗi chúng lại. Trên hết, anh cần một câu trả lời đủ, anh thật sự là ai? Anh phải đi, tiến về phía da vàng. Ở đó, có lẽ còn có những thứ đáng sợ hơn ở châu Âu này, dẫu sao, anh cũng phải đi!

Mong sao châu Á sẽ không sụp đổ, như châu Âu lúc này - Adam nghĩ - vì nếu không, mình sẽ tự trách bản thân rằng, chính mình là nguyên nhân cho mọi sự đổ vỡ vật chất đau đớn kinh hoàng.

Adam dành hẳn một tuần lễ ở cuối rừng đen, nơi có hốc đất khuyết tạo nên một hang ổ vững chãi để chạm vào tất cả những quyển sách anh có thể đem về. Phải nói, quá trình xin, mua, thậm chí là đánh cắp sách của anh không gặp nhiều trở ngại, trừ những ánh mắt dè bỉu trước một kẻ tay chân lành lặn, to lớn vạm vỡ lại ngồi ngửa tay ăn mày. Chồng sách cao đến độ Adam mất gần một ngày chạm vào chúng, xuyên thẳng vào những ngôn ngữ vốn đã từng xa lạ với anh, rồi tốn thêm đến cả tuần lễ để thẩm thấu, hiểu và biết chắc chắn mình có thể sử dụng thành thạo những ngôn ngữ đã chạm vào.

David từng khuyến cáo Adam, đừng sử dụng quyền năng của anh ở chốn con người, như thế là tự mình dấn vào nguy hiểm. Nhưng ngay lúc này, Adam không thể không sử dụng. Anh cần biết tiếng của đám da vàng ngoài kia để sinh tồn. Anh cần phải làm thế! Có chút nào đấy đau đớn theo một cách kỳ dị, rất quen thuộc từ ngày David chết trỗi dậy trong Adam khi anh nghĩ đến ông. David! David!...

Thêm một đợt sói tru dữ dội vọng từ rừng sâu ra, lôi Adam trở về với thực tại. Anh dừng lại, ngoảnh đầu nhìn rồi quay đi. Anh biết, đó chỉ là một kiểu dấu hiệu mà anh buộc phải tìm kiếm, buộc phải giải mã, chứ, chẳng có con sói nào trong ấy đâu. Và, sau cái hít thật sâu như để tự ép buộc bản thân phải tin vào những gì mình vừa nghĩ, Adam dấn mạnh bước, trở về chốn dung thân mãi mãi anh không biết, có thể nào mình thấy quen hay không?