PHẦN HAI PHẦN VỀ AMALFITANO
Mình không biết mình đến Santa Teresa làm gì, Amalfitano tự nhủ sau khi đã sống ở thành phố này được một tuần. Không biết sao? Mày không biết thật sao? ông tự hỏi. Thật tình là không biết mà, ông tự nhủ, và ông chỉ có thể hùng biện được đến thế.
♣ ♣ ♣Ông có một căn nhà nhỏ một tầng, ba phòng ngủ, một buồng tắm hoàn thiện và một nhà vệ sinh, một căn bếp kiểu Mỹ, một phòng khách kiêm phòng ăn có cửa sổ quay ra hướng Tây, một hàng hiên nhỏ bằng gạch ở đó có một băng ghế gỗ bị bào mòn bởi gió từ trên núi và từ biển, gió từ phương Bắc, gió lùa qua các kẽ hở, rồi gió mang mùi khói từ phương Nam. Ông có những cuốn sách ông đã giữ từ hơn hai mươi lăm năm qua. Không nhiều. Toàn sách cũ. Ông có những cuốn sách mới mua trong mười năm trở lại đây, những cuốn sách ông không ngại ngần cho mượn và có bị mất hoặc bị cướp ông cũng chẳng màng. Ông có những cuốn sách đôi khi nhận được từ những địa chỉ không quen biết, được gói ghém cẩn thận và giờ thậm chí ông chẳng mở ra nữa. Ông có một khu vườn lý tưởng để nuôi cỏ trồng hoa, dù ông không biết ở đấy trồng những hoa nào là thích hợp nhất, hoa chứ không phải xương rồng hoặc cây mọng nước. Rồi sẽ có lúc (ông nghĩ) mình dành thời gian làm vườn. Ông có một cánh cổng gỗ cần sơn một lượt sơn. Ông có một khoản lương tháng.
♣ ♣ ♣Ông có một cô con gái tên là Rosa xưa nay luôn sống với ông. Có vẻ khó tin, nhưng đúng thế.
♣ ♣ ♣Thỉnh thoảng, về đêm, ông nhớ tới mẹ của Rosa và lúc thì ông cười phá lên, lúc ông lại muốn khóc. Ông nghĩ đến nàng những khi ông giam mình trong thư phòng còn Rosa ngủ trong phòng cô. Phòng khách trống trải tĩnh mịch và đèn tắt. Nơi sân hiên, nếu ai đó lắng tai chăm chú thì có thể nghe được tiếng vài con muỗi vo vo. Nhưng không ai lắng tai nghe. Các nhà hàng xóm đều tĩnh lặng tối om.
♣ ♣ ♣Rosa mười bảy tuổi, là người Tây Ban Nha. Amalfitano năm mươi tuổi và là người Chile. Rosa có hộ chiếu từ năm mười tuổi. Trong một vài chuyến đi, Amalfitano nhớ lại, họ gặp những tình huống lạ lùng, bởi Rosa làm thủ tục hải quan theo cửa dành cho công dân EU còn Amalfitano thì theo cửa dành cho công dân ngoài EU. Lần đầu tiên, Rosa làm toáng lên, bật khóc và khăng khăng không chịu tách khỏi cha. Lần khác, do hai hàng di chuyển theo tốc độ rất khác nhau, bên phía EU nhanh hơn còn bên phía ngoài EU thì chậm hơn và ậm ạch nhiêu khê hơn, Rosa bị lạc và Amalfitano phải mất nửa giờ mới tìm được cô. Đôi khi nhân viên hải quan thấy Rosa còn nhỏ quá, bèn hỏi có phải cô đi một mình không hay liệu có ai đang chờ cô ngoài kia không. Rosa sẽ trả lời là cô đi với bố, bố cô là người Nam Mỹ, nên cô phải đợi bố ngay ở đây. Có lần vali của Rosa bị lục soát vì người ta tình nghi bố cô buôn lậu ma túy hay vũ khí dưới vỏ bọc là sự ngây thơ và cái quốc tịch của cô con gái. Nhưng Amalfitano chưa bao giờ buôn ma túy, vũ khí cũng không.
♣ ♣ ♣Người luôn luôn mang theo vũ khí, chưa bao giờ đi đâu mà không mang theo con dao bấm lò xo bằng thép không gỉ, Amalfitano nhớ lại trong khi ngồi hút một điếu xì gà Mexico trong thư phòng hoặc ngoài hiên trong bóng tối, chính là Lola, mẹ của Rosa. Một lần họ bị chặn lại trong sân bay, hồi Rosa còn chưa ra đời, và người ta hỏi Lola nàng làm gì với con dao này. Để gọt trái cây, Lola nói. Cam, táo, kiwi, đủ loại hết cả. Viên cảnh sát nhìn nàng thêm một lát rồi để cho nàng đi. Một năm vài tháng sau sự cố đó thì Rosa ra đời. Hai năm sau Lola ra đi, vẫn mang theo con dao gấp.
♣ ♣ ♣Cái cớ mà Lola đưa ra là nàng định đi thăm nhà thơ yêu thích của nàng đang sống trong một nhà thương điên ở Mondragón, gần San Sebastián. Amalfitano nghe những lời giải thích của nàng suốt cả đêm trong khi nàng gói ghém đồ đạc và hứa sẽ chóng về với ông và Rosa. Lola, nhất là trong quãng thời gian cuối, thường cả quyết mình có biết nhà thơ này, rằng nàng gặp và quen ông ta tại một lễ hội ở Barcelona, trước khi Amalfitano bước vào cuộc đời nàng. Ở lễ hội này, mà Lola mô tả là một lễ hội hoang dại, một lễ hội đã lỗi thời từ lâu đột nhiên trỗi dậy giữa lòng cái nóng mùa hè và một biển xe tắc cứng, đèn đỏ bật sáng trưng, nàng đã ngủ với ông ta và họ làm tình suốt đêm, mặc dù Amalfitano biết đó không phải sự thật, không chỉ vì nhà thơ kia là kẻ đồng tính, mà còn bởi Lola biết về sự hiện hữu của nhà thơ kia lần đầu tiên là từ chính ông, khi ông đem một trong các cuốn sách của mình tặng cho nàng. Sau đó Lola tự đặt ra cái mục tiêu mua tất tật các tác phẩm của nhà thơ và kết bạn với những người cho rằng nhà thơ này là một thiên tài, một người từ hành tinh khác, điệp sứ của Chúa, những bạn bè mới ở nhà thương điên Sant Boi ra hoặc đã hóa điên sau khi phải điều trị đi điều trị lại nhiều lần ở trại cai nghiện. Sự thật là, Amalfitano biết sớm muộn gì nàng cũng sẽ lên đường đi San Sebastián, cho nên ông không tranh cãi làm gì mà chỉ đưa cho nàng một phần tiền tiết kiệm của mình, xin nàng chỉ đi vài tháng thôi và hứa với nàng sẽ chăm nom chu đáo đứa con gái. Lola có vẻ chẳng nghe thấy gì. Khi đã sắp đồ xong xuôi, nàng xuống bếp pha hai tách cà phê rồi ngồi im, chờ trời sáng, mặc cho Amalfitano cố tìm những đề tài trò chuyện may ra khiến nàng thích thú hay ít nhất là giúp nàng giết thì giờ. Lúc sáu rưỡi sáng chuông cửa reo và Lola giật nẩy người. Họ đến tìm em đấy, nàng nói, và bởi nàng không nhúc nhích, Amalfitano phải đứng dậy hỏi qua intercom xem ai ở dưới kia vậy. Ông nghe một giọng yếu ớt nói tôi đây. Ai vậy? Amalfitano hỏi. Cho tôi vào, tôi đây mà, giọng đó nói. Ai? Amalfitano hỏi. Giọng ấy, tuy rất nhỏ rất yếu ớt khó mà nghe được, có vẻ bực tức khi bị tra vấn. Tôi tôi tôi tôi, nó nói. Amalfitano nhắm mắt lại và bấm nút cho cửa mở. Ông nghe tiếng cáp thang máy chạy, liền đi xuống bếp. Lola vẫn đang ngồi đó nhấp những ngụm cà phê cuối cùng. Chắc là tìm em đấy, Amalfitano nói. Lola không có vẻ gì là nghe ông nói. Em có chào tạm biệt con bé không? Amalfitano hỏi. Lola ngước nhìn lên nói tốt hơn là đừng đánh thức nó dậy. Quanh đôi mắt xanh lơ của nàng có những quầng thâm rất đậm. Sau đó vang lên hai tiếng chuông reo, Amalfitano liền ra mở. Một phụ nữ nhỏ thó cao không quá mét rưỡi, liếc nhanh lên ông mà lẩm bẩm một tiếng chào không nghe ra được rồi bước ngang qua ông mà tiến thẳng xuống bếp, như thể bà ta biết rõ thói quen của Lola hơn cả Amalfitano. Khi Amalfitano vào lại trong bếp, ông nhìn thấy cái ba lô của người đàn bà, bà ta đã đặt nó bên cạnh tủ lạnh, nó nhỏ hơn ba lô của Lola nhiều, gần như là một cái ba lô thu nhỏ. Người đàn bà tên là Inmaculada nhưng Lola gọi bà là Imma. Đôi lần, khi đi làm về, Amalfitano gặp bà ta trong nhà mình, bà ta nói cho ông biết tên bà ta là gì và bà ta thích được người ta gọi bằng gì. Imma là rút gọn của Immaculada, trong tiếng Catalán, nhưng bà bạn của Lola không phải người Catalán cũng chẳng phải tên là Immaculada, với hai chữ m, mà là Inmaculada, và Amalfitano, vì vấn đề phát âm, thích gọi là Inma hơn, nhưng mỗi lần ông gọi vậy là vợ ông liền trách móc ông, cho đến khi ông quyết định chẳng gọi là gì cả. Từ cửa bếp ông quan sát hai người đàn bà. Ông cảm thấy bình thản hơn mình đã tưởng tượng nhiều. Lola và bạn nàng nhìn chăm chăm vào cái bàn formica mặc dù Amalfitano không thể không nhận thấy thỉnh thoảng hai người bọn họ ngước mắt lên nhìn nhau với một sự mãnh liệt mà ông chưa hề biết. Lola hỏi có ai muốn thêm cà phê không. Cô ấy hỏi mình đấy, Amalfitano nghĩ. Inmaculada lắc đầu rồi nói họ không có thì giờ, rằng tốt nhất là đi ngay thôi, kẻo mà chẳng mấy chốc các ngả đường ra khỏi Barcelona sẽ tắc nghẽn hết. Bà ta nói như thể Barcelona là một thành phố thời Trung cổ, Amalfitano nghĩ. Lola và bạn nàng đứng dậy. Amalfitano bước tới mở cửa tủ lạnh tìm một lon bia, bởi tự dưng ông thấy khát không cưỡng nổi. Muốn làm vậy ông phải dịch ba lô của Imma sang một bên. Nó nhẹ như thể bên trong chỉ có hai cái áo cánh và một cái quần đen. Nó như một bào thai, Amalfitano nghĩ vậy, rồi để cái ba lô sang một bên. Sau đó Lola hôn hai má ông rồi nàng cùng bà bạn ra đi.
♣ ♣ ♣Một tuần sau Amalfitano nhận được thư của Lola, mang dấu bưu điện Pamplona. Trong thư nàng kể cho ông nghe rằng chuyến đi cho đến giờ đầy những trải nghiệm cả thú vị lẫn không thú vị. Hầu hết là trải nghiệm thú vị. Còn về những trải nghiệm không thú vị, gọi là không thú vị thì đúng, điều ấy chắc chắn, nhưng còn gọi là trải nghiệm thì có khi không phải. Tất cả những gì không thú vị xảy ra với tụi em, Lola viết, đều chẳng làm tụi em bất ngờ gì cả, bởi vì Imma thì đã trải qua hết rồi. Trong vòng hai ngày, Lola viết, tụi em làm việc ở Lérida, một nhà hàng ven xa lộ, ông chủ nhà hàng cũng đồng thời là chủ một vườn táo. Vườn rộng mênh mông, các cây táo đều lúc lỉu quả xanh. Chỉ ít nữa thôi sẽ đến mùa thu hoạch táo và ông chủ đã đề nghị họ nán lại cho tới khi ấy. Imma đi nói chuyện với ông ta trong khi Lola đọc một cuốn sách của tay nhà thơ ở Mondragón (nàng có trong ba lô tất tật các sách mà ông này đã cho in từ trước đến giờ) cạnh căn lều kiểu Canada nơi nàng và bà kia ngủ. Lều dựng dưới bóng một cây dương, cây dương duy nhất nàng nhìn thấy trong vườn này, cạnh một gara chẳng ai dùng nữa. Chẳng mấy chốc sau Imma xuất hiện và không muốn giải thích cho nàng nghe cái giao kèo mà ông chủ nhà hàng đã đề nghị. Ngày hôm sau họ lại ra ngoài xa lộ bắt xe để quá giang, không chào tạm biệt ai. Ở Zaragoza họ ngủ ở nhà một bạn gái cũ của Imma từ hồi đại học. Lola rất mệt nên nàng đi ngủ sớm và trong mơ nàng nghe thấy những tiếng cười rồi sau đó là những giọng oang oang và gắt gỏng, hầu như luôn luôn là của Imma nhưng đôi khi lại là của bạn bà. Họ nói về những năm tháng khác, về cuộc chiến đấu chống chế độ Franco, về những xà lim nữ giới ở Zaragoza. Họ nói về một cái hố, một cái lỗ rất sâu từ đó có thể rút xăng hay than ra được, về một khu rừng rậm ngầm dưới đất, về một đội biệt động cảm tử gồm toàn phụ nữ. Thế rồi thư của Lola chuyển hướng đột ngột. Em không phải là đồng tính nữ, nàng nói, em không biết tại sao em lại nói với anh chuyện này, không biết tại sao em lại nói với anh như thế, cư xử với anh như với một đứa trẻ. Tính dục đồng giới là một sự dối trá, đó là một hành vi bạo lực chống lại chúng ta trong tuổi thiếu niên của chúng ta, nàng nói. Imma biết điều này. Chị ấy biết, chị ấy biết, chị ấy mà không biết thì thật quá tệ, nhưng chị ấy không thể làm được gì, chỉ giúp thôi. Imma là người đồng tính, mỗi ngày hàng trăm ngàn con bò bị hiến sinh, mỗi ngày một đàn ăn cỏ hay hàng mấy đàn ăn cỏ băng qua thung lũng, từ Bắc xuống Nam, thật chậm mà cũng lại thật nhanh khiến cho em phát buồn nôn, cả bây giờ cũng buồn nôn, ngay bây giờ, ngay lúc này đây, anh có hiểu không, Óscar? Không, Amalfitano nghĩ, anh không hiểu, trong khi ông cầm lá thư bằng cả hai tay, như thể cầm một chiếc bè cứu sinh làm bằng sậy và cỏ, và bằng bàn chân mình ông đu đưa chiếc ghế nhỏ xíu nơi đứa con gái nhỏ đang ngồi.
♣ ♣ ♣Rồi Lola lại mô tả thêm lần nữa cái đêm nàng làm tình với nhà thơ hiện đang ngự một cách uy nghi và nửa bí mật ở nhà thương điên Mondragón. Hồi đó anh ấy còn tự do, anh ấy hãy còn chưa bị đưa vào trung tâm thần kinh nào cả. Anh ấy sống ở Barcelona, trong nhà một triết gia đồng tính, và họ cùng nhau tổ chức tiệc tùng một tuần một lần hay nửa tháng một lần. Lúc ấy em còn chưa biết gì về anh. Em không biết ngày đó anh đã đến Tây Ban Nha hay chưa hay anh còn ở Ý hay ở Pháp hay ở cái hốc trời ơi nào đó bên Nam Mỹ. Các bữa tiệc của ông triết gia đồng tính này nổi tiếng khắp Barcelona. Người ta nói nhà thơ này và triết gia kia là tình nhân với nhau, nhưng sự thật là họ chẳng hề trông như đôi tình nhân. Một người có một căn nhà, có ý tưởng và có tiền, người kia thì có truyền thuyết, có những bài thơ và có nhiệt huyết của người kiên tín vô điều kiện, kiểu nhiệt huyết của loài chó, của con chó bị đòn roi đã cuốc bộ suốt đêm hay suốt cả thời tuổi trẻ dưới cơn mưa, cơn bão gàu không bao giờ dứt của Tây Ban Nha, và rốt cuộc đã tìm thấy một nơi có thể đặt đầu xuống được, mặc dù chỗ đó là một xô nước rền mủ, một xô nước ngõ hầu quen thuộc. Một hôm vận may mỉm cười với em và em được dự một trong các bữa tiệc ấy. Nói rằng em được gặp riêng triết gia nọ thì hơi phóng đại. Em nhìn thấy ông ta. Trong một góc phòng, ông đang chuyện vãn với một nhà thơ khác và một triết gia khác. Hình như ông đang diễn thuyết thì phải. Thế rồi mọi thứ bỗng tuồng như hơi lạc lõng. Khách khứa đang đợi nhà thơ xuất hiện. Họ chờ đợi ông này sẽ thụi nhau với một người trong số họ. Hoặc đại tiện ra giữa phòng khách, trên một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ trông như tấm thảm trong Nghìn lẻ một đêm, tấm thảm te tua xơ xác đôi khi có chức năng như một tấm gương, phản chiếu tất cả chúng ta đầu lộn ngược. Em muốn nói: nó biến thành tấm gương tuân theo những cơn co thắt của chúng ta. Những cơn co thắt hóa học thần kinh. Tuy vậy, khi nhà thơ xuất hiện, chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Lúc đầu mọi con mắt đều hướng về anh ấy, để xem liệu chuyện gì có thể xảy ra. Thế rồi mọi người trước đó đang làm gì thì lại tiếp tục làm nấy và nhà thơ chào một số bạn văn rồi nhập vào nhóm đang quây quanh triết gia đồng tính. Em nhảy một mình và tiếp tục nhảy một mình. Đến năm giờ sáng thì em vào một trong các phòng ngủ của ngôi nhà. Nhà thơ cầm tay dẫn em đi. Không cởi đồ ra, em bắt đầu làm tình với anh ấy. Em lên đỉnh ba lần, cảm thấy hơi thở của nhà thơ trên cổ em. Anh ấy thì phải mất nhiều thời gian hơn. Trong cảnh tranh tối tranh sáng em nhìn ra được ba bóng người trong một góc phòng. Một trong ba người hút thuốc. Một người khác thì thầm mãi không ngừng. Người thứ ba là triết gia và em hiểu đó là giường của ông ta và phòng này là căn phòng, theo những kẻ độc mồm độc miệng, nơi ông làm tình với nhà thơ. Nhưng lúc này kẻ đang làm tình là em và nhà thơ rất dịu dàng với em và điều duy nhất em không hiểu là ba người kia vẫn cứ nhìn, nhưng điều đó với em cũng chẳng quan trọng lắm, vào hồi ấy, em không biết anh còn nhớ không, chẳng có gì là quá quan trọng hết. Khi nhà thơ rốt cuộc cũng lên đỉnh, anh ấy hét lên và quay đầu lại nhìn ba người bạn, em lấy làm tiếc mình đang không trong ngày dễ thụ thai, bởi em muốn có một đứa con với anh ấy. Sau đó anh ấy đứng dậy tiến lại gần mấy bóng người. Một trong số đó đặt tay lên vai anh ấy. Một người khác trao anh ấy cái gì đó. Em trở dậy vào buồng tắm mà không nhìn họ. Trong phòng khách chỉ còn những khách cuối cùng còn sót lại sau bữa tiệc. Trong buồng tắm, một cô gái đang ngủ trong bồn. Em rửa mặt rửa tay, em chải tóc, khi em đi ra nhà triết học đang tống tiễn ra khỏi nhà những ai còn đứng vững còn đi được. Ông hoàn toàn không có vẻ say hay phê thuốc tí nào. Ông có vẻ tươi tỉnh thì đúng hơn, như thể ông vừa mới dậy và vừa điểm tâm bằng một vại to nước cam ép. Em ra về cùng với đôi người em mới làm quen trong buổi tiệc. Vào giờ đó chỉ còn Drugstore de las Ramblas là còn mở cửa thế nên bọn em đi đến đấy mà hầu như không nói với nhau một câu. Ở Drugstore em gặp một cô bé em quen từ hai, ba năm trước, cô ấy làm phóng viên cho tờ tạp chí Ajoblanco mặc dù đã ghét làm ở đó lắm rồi. Cô ấy bắt đầu nói với em về ý định chuyển đến Madrid. Cô ấy hỏi em có thấy muốn thay đổi thành phố không. Em nhún vai. Thành phố nào mà chả giống thành phố nào, em bảo cô ấy. Thực ra em đang nghĩ tới nhà thơ nọ và về những gì em với anh ấy vừa làm. Một người đồng tính thì không làm vậy. Ai cũng nói anh ấy đồng tính, nhưng em biết không phải đâu. Sau đó em nghĩ về sự lẫn lộn của các cảm xúc và em hiểu cả. Em biết nhà thơ đã lạc lối, anh ấy là một đứa trẻ lầm đường lạc lối và em có thể giúp anh ấy. Cho anh ấy một ít của cái thứ lớn lao mà anh ấy đã cho em. Trong suốt gần một tháng em túc trực canh chừng trước cửa nhà vị triết gia, những mong một hôm nào đó gặp anh ấy để em xin anh ấy làm tình với em lần nữa. Em không gặp nhà thơ nhưng lại gặp triết gia vào một đêm nọ. Em nhận thấy trên mặt ông có cái gì đó. Khi ông lại gần (ông không nhận ra em) em thấy một mắt ông thâm tím và mặt ông có nhiều vết bầm giập. Nhà thơ thì chả thấy đâu. Đôi lần em cố đoán, dựa vào ánh đèn, xem căn phòng nọ nằm ở tầng nào. Đôi lần em thấy những cái bóng sau rèm cửa, đôi khi ai đó, một người đàn bà luống tuổi, một nam giới thắt cà vạt, một thiếu niên mặt dài ngoẵng, mở cửa sổ ra ngắm cảnh Barcelona lúc hoàng hôn. Có một đêm em phát hiện ra mình không phải người duy nhất ở đấy rình mò hoặc chờ nhà thơ xuất hiện. Một cậu trai chừng mười tám tuổi, có khi nhỏ hơn, lặng lẽ canh chừng nơi vỉa hè đối diện. Cậu ta không nhận thấy em bởi vì cậu ta rõ ràng là loại thiếu niên mơ mộng, ít khi để ý tới cái gì. Cậu ta ngồi ở bàn ngoài trời của một quán bar và luôn luôn gọi một lon Coca-Cola, vừa thong thả nhấp vừa viết vào một cuốn sổ học trò hoặc đọc vài cuốn sách mà em chỉ liếc qua là nhận ra liền. Một đêm nọ, trước khi cậu ta rời quán ấy và vội vã biến đi, em lại gần ngồi cạnh cậu ta. Em bảo cậu ta em biết cậu đang làm gì. Chị là ai? cậu ta hỏi, vẻ kinh hoảng. Em mỉm cười bảo cậu ta em cũng là một người giống như cậu ta. Cậu ta nhìn em như thể em là con điên. Đừng hiểu lầm tôi, em nói, tôi không điên, tôi là một phụ nữ có thần kinh hoàn toàn bình thường. Cậu ta bật cười to. Nếu chị không điên thì cũng giống như điên, cậu ta nói. Sau đó cậu ta ra dấu gọi tính tiền và vừa dợm đứng dậy thì em liền thú nhận với cậu ta là em cũng đang tìm nhà thơ. Lập tức cậu ta ngồi lại xuống ghế, cứ như em vừa gí súng vào đầu cậu ta vậy. Em gọi trà hoa cúc rồi kể cho cậu ta nghe chuyện của mình. Cậu ta bảo em cậu ta cũng làm thơ và cậu ta muốn nhà thơ đọc vài bài thơ của cậu. Không cần hỏi cũng biết cậu ta đồng tính và rất cô đơn. Cho tôi xem đi, em bảo, rồi lôi cuốn sổ ra khỏi tay cậu ta. Thơ không tồi, vấn đề duy nhất là cậu ta viết y như nhà thơ nọ. Những chuyện này không thể xảy ra với cậu được, em bảo cậu ta, cậu còn trẻ quá đâu thể từng trải đến thế được. Cậu ta làm một cử chỉ như muốn nói em có tin hay không cậu ta cũng chả quan tâm. Điều quan trọng là viết hay, cậu ta nói. Không, em bảo, cậu biết đấy không phải là điều quan trọng. Không, không, không, em nói, và cậu ta rốt cuộc cũng nhận là em nói phải. Tên cậu ta là Jordi và hiện nay có lẽ cậu đang giảng dạy đại học hoặc đang viết phê bình điểm sách cho tờ La Vanguardia hay tờ El Periódico.
♣ ♣ ♣Amalfitano nhận được thư kế tiếp của nàng từ San Sebastián. Trong thư, Lola kể nàng đã cùng Imma đến nhà thương điên ở Mondragón để thăm nhà thơ, anh ta đang ở đấy, điên khùng rồ dại, và bảo vệ, linh mục cải trang làm bảo vệ, không cho họ vào. Ở San Sebastián họ định ngủ lại nhà một người bạn của Imma, một cô gái người Basque tên là Edurne, từng là lính biệt kích cho quân ETA và đã từ bỏ đấu tranh vũ trang từ khi có nền dân chủ, cô này không muốn cho họ ở lại nhà cô quá một đêm, bảo rằng cô ta có nhiều việc phải làm và chồng cô ta không thích những vị khách không mời mà tới. Chồng cô ta tên Jon và quả thật các vị khách khiến anh ta đâm bứt rứt bực bội, và điều này Lola đã có dịp tận mắt kiểm chứng. Anh ta run lên, anh ta đỏ phừng lên giống như cái bình bằng đất sét đang cháy nóng, dù không nói năng gì nhưng anh ta có vẻ như sắp sửa thét lên bất cứ lúc nào, anh ta vã mồ hôi và hai tay run bần bật, anh ta đổi vị trí liên tục, dường như không thể ngồi yên một chỗ quá hai phút. Edurne thì rất ung dung tự tại. Cô ta có một thằng con trai nhỏ (mặc dù Lola và Imma chẳng khi nào nhìn thấy nó, vì Jon luôn tìm được cớ để ngăn hai người vào phòng thằng bé) và cô ta hầu như suốt ngày làm việc, nghề của cô ta là giáo dục viên đường phố, làm việc với những gia đình nghiện hút và những kẻ cầu bơ cầu bất thường tụ tập nơi các bậc tam cấp thánh đường San Sebastián và chỉ mong người ta để cho họ yên, Edurne vừa giải thích như vậy vừa cười to, như thể cô ta vừa kể một chuyện đùa mà chỉ một mình Imma hiểu, bởi Lola cũng như Jon đều không cười. Tối hôm đó cả nhà ăn cùng nhau rồi sáng hôm sau hai người họ đi. Họ tìm được một nhà nghỉ rẻ tiền mà Edurne giới thiệu, sau đó họ đi nhờ xe quay lại Mondragón. Lần này họ cũng lại không vào được bên trong nhà thương điên, nhưng họ bằng lòng với việc nghiên cứu nó từ bên ngoài, quan sát và ghi nhớ tất cả những con đường đất rải sỏi mà họ thấy, những bức tường cao màu xám, những chỗ đất nhô cao và uốn lượn, những bệnh nhân tản bộ và những người chăm sóc theo sau một quãng trông chừng họ, những bức rèm cây cối cách nhau những quãng khó lường hoặc theo một mẫu hình mà họ không thể hiểu, và cái bụi cây nơi họ tin là có nhìn thấy ruồi, qua đó suy ra rằng một số bệnh nhân và có khi ngay cả nhân viên nhà thương đã đến đấy đái khi hoàng hôn xuống hay khi đêm đến. Sau đó hai người ngồi bên vệ đường ăn bánh mì kẹp pho mát mang theo từ San Sebastián, ăn mà không trò chuyện, hoặc vừa ăn vừa nghiền ngẫm như thể cho riêng mình về những cái bóng đứt gãy mà nhà thương điên Mondragón hắt lên cảnh trí xung quanh.
♣ ♣ ♣Ở lần thử thứ ba, họ gọi điện xin hẹn gặp. Imma làm bộ là phóng viên một tờ báo ở Barcelona còn Lola tự xưng là nhà thơ. Lần này người ta cho họ gặp. Lola cảm thấy nhà thơ trông già hơn, mắt trũng sâu, tóc thưa hơn trước. Ban đầu có một bác sĩ hay một cha cố đưa họ đi, ông này dẫn họ đi dọc những hành lang dài mãi không dứt sơn màu xanh dương và trắng, cho đến khi tới một căn phòng nom xoàng xĩnh nơi nhà thơ đang chờ họ. Ấn tượng của Lola là những người ở trong nhà thương điên lấy làm tự hào có nhà thơ làm bệnh nhân. Tất cả họ đều biết anh, tất cả đều chào nhà thơ khi anh bước ra vườn hoặc đi nhận phần thuốc an thần hằng ngày. Khi chỉ còn lại họ với nhau Lola bảo anh rằng nàng nhớ anh, rằng suốt một thời gian nàng cứ canh trước cửa nhà vị triết gia ở Ensanche song dẫu kiên gan trì chí đến đâu nàng cũng không lần nào gặp lại anh. Không phải lỗi của em, nàng nói, em đã làm hết sức mình. Nhà thơ nhìn vào mắt nàng và xin một điếu thuốc. Imma đang đứng cạnh băng ghế nơi hai người ngồi, liền lẳng lặng chìa ra một điếu. Nhà thơ nói cảm ơn rồi nói kiên gan trì chí. Vâng vâng vâng, Lola nói, nàng đang hướng về phía anh, nhìn anh mãi không thôi, mặc dù qua khóe mắt nàng thấy Imma, sau khi bật lửa châm thuốc xong, liền rút trong túi xách ra một cuốn sách rồi bắt đầu đọc, vẫn đứng, như một nữ chiến binh Amazon tí hon và nhẫn nại kiên trì vô hạn, và cái bật lửa vẫn thập thò nơi một trong hai bàn tay đang cầm cuốn sách. Sau đó Lola bắt đầu nói về cuộc hành trình mà hai người đã thực hiện. Nàng nhắc tới những đường quốc lộ và đường thôn quê khuất nẻo, những rắc rối với đám tài xế xe tải vênh vang ta là đấng nam nhi, những thành phố và làng mạc, những cánh rừng không tên nơi họ quyết định dựng lều ngủ qua đêm, rồi những dòng sông và buồng tắm ở trạm xăng nơi họ đã rửa ráy. Nhà thơ, trong khi nàng kể, phà khói qua đường miệng và đường mũi làm thành những vòng tròn tuyệt hảo, những đám mây giông màu xanh dương nhạt, những đám mây tích màu xám bị làn gió nhẹ trong vườn xua tan mất hoặc mang đến rìa khu đất nơi một khu rừng tối vươn lên với những cành lá được dát bạc trong ánh nắng hắt từ trên đồi xuống. Như để tranh thủ có thêm thời gian mà suy nghĩ, Lola kể về hai lần đến thăm trước, không thành công nhưng mà thú vị. Thế rồi nàng nói với anh điều mà thật ra nàng muốn nói: rằng nàng biết anh không phải là đồng tính, nàng biết anh là một tù nhân đang muốn trốn thoát, nàng biết rằng tình yêu, dẫu bị ngược đãi hay tàn tật, vẫn luôn luôn chừa ngõ cho hy vọng, và niềm hy vọng là kế hoạch của nàng (hay ngược lại), và sự vật thể hóa nó, sự khách thể hóa nó bao hàm việc anh trốn khỏi nhà thương điên cùng với nàng và lên đường sang Pháp. Còn bà này? nhà thơ hỏi, anh đang uống mười sáu viên thuốc một ngày và đang ghi lại những ảo tượng của mình, anh vừa hỏi vừa chỉ về phía Imma đang kiên trì đọc tiếp, vẫn đứng, tuồng như váy và quần lót của bà làm bằng xi măng nên bà không thể ngồi xuống được. Bà ấy sẽ giúp chúng mình, Lola nói. Thực ra, kế hoạch này chủ yếu do bà ấy nghĩ ra. Chúng mình sẽ vượt biên sang Pháp theo đường núi, như những người hành hương. Mình sẽ đến Saint-Jean-de-Luz rồi bắt tàu hỏa ở đó. Tàu sẽ đưa chúng mình qua miền quê, cái miền quê mà vào mùa này trong năm là đẹp nhất trên thế giới, để đến Paris. Mình sẽ sống ở quán trọ. Kế hoạch của Imma là vậy. Bà ấy với em sẽ làm nghề quét dọn hoặc trông trẻ ở các khu giàu có ở Paris trong lúc anh làm thơ. Đêm đêm anh sẽ đọc thơ anh làm cho em nghe và làm tình với em. Đó là kế hoạch của Imma, được tính toán tỉ mỉ đến từng chi tiết. Sau ba bốn tháng em sẽ có thai và điều đó sẽ là chứng cứ hùng hồn nhất cho thấy anh không phải là kẻ mất khả năng phối giống, không phải giọt máu cuối cùng của dòng họ. Những gia đình thù địch với chúng ta còn muốn gì hơn thế nữa! Em sẽ làm việc thêm vài tháng nữa, nhưng rồi sẽ đến lúc Imma phải nỗ lực gấp đôi. Chúng mình sẽ sống như những người khất thực hay những nhà tiên tri con nít trong khi các cặp mắt của Paris tập trung vào những thứ khác, thời trang, phim ảnh, những trò chơi may rủi, văn chương Pháp và văn chương Mỹ, nghệ thuật ẩm thực, tổng sản phẩm quốc nội, xuất khẩu vũ khí, sản xuất đại trà thuốc gây mê, tất cả chỉ đơn thuần là phông nền trang trí cho mấy tháng đầu của cái bào thai của chúng mình. Thế rồi khi em đã có thai sáu tháng, chúng mình quay về lại Tây Ban Nha, nhưng lần này không băng qua biên giới ở Irún mà ở La Jonquera hay Port Bou, sang đất Catalunia. Nhà thơ nhìn nàng có vẻ thích thú (nhìn cả Imma nữa, nãy giờ bà không hề rời mắt khỏi các bài thơ của anh, những bài thơ anh viết có lẽ chừng năm năm trước theo anh nhớ), và anh lại bắt đầu nhả những vòng khói, nhả thành những hình kỳ quặc khó ngờ nhất hạng, tuồng như suốt thời gian dài sống ở Mondragón anh chỉ làm mỗi một việc là hoàn thiện cái nghệ thuật kỳ khôi này. Anh làm sao được như thế? Lola hỏi. Bằng lưỡi và bằng cách dẩu môi ra theo một cách nhất định, anh nói. Có khi phải làm sao cho miệng mình giống như ống sáo. Có khi phải làm như vừa tự thiêu mình. Có khi giống như mình đang bú một củ giống cỡ trung bình hay cỡ nhỏ. Có khi giống như mình bắn một mũi tên thiền bằng một cái cung thiền vào một căn đình tạ thiền. À, em hiểu, Lola nói. Này bà, đọc một bài thơ đi, nhà thơ nói. Imma nhìn anh và liền nâng cuốn sách lên cao hơn một chút, như thể cố giấu mình đằng sau nó. Bài nào? Bài nào bà thích nhất, nhà thơ nói. Bài nào tôi cũng thích, Imma nói. Vậy thì đọc một bài, nhà thơ nói. Khi Imma đọc xong một bài thơ nói về mê cung và Ariadne bị lạc trong mê cung và về một chàng trai Tây Ban Nha sống trong một căn gác xép ở Paris, nhà thơ hỏi họ có mang theo sô cô la không. Không, Lola nói. Dạo này tụi tôi không hút thuốc, Imma nói, tụi tôi đang tập trung hết sức để làm sao đưa được anh ra khỏi đây. Nhà thơ mỉm cười. Tôi không nói tới loại sô cô la ấy, anh nói, mà là loại khác, loại làm bằng ca cao với sữa và đường ấy. À, em hiểu, Lola nói, và rồi cả hai phải thừa nhận là loại giống như thế họ cũng chẳng mang theo nốt. Họ nhớ ra là trong túi họ có hai cái bánh mì pho mát gói trong khăn giấy và giấy thiếc, liền mời nhà thơ ăn nhưng anh có vẻ chẳng nghe họ nói gì. Trước khi hoàng hôn xuống một bầy chim hét đen bay qua khu vườn rồi biến mất về phương Bắc. Một bác sĩ xuất hiện trên con đường rải sỏi, cái áo khoác màu trắng bay lật phật trong gió chiều. Khi đến gần họ anh bác sĩ liền hỏi nhà thơ cảm thấy trong người thế nào, anh ta gọi nhà thơ bằng tên riêng như thể hai người là bạn từ thời niên thiếu. Nhà thơ nhìn ông bác sĩ bằng cái nhìn trống rỗng, rồi thì, cũng mày tao chí tớ với anh này, bảo là anh thấy hơi mệt. Bác sĩ, tên là Gorka và hẳn chưa quá ba mươi tuổi, ngồi xuống cạnh anh và đặt tay lên trán anh, sau đó nghe mạch anh. Mẹ nó, cậu khỏe như vâm cơ mà, anh ta nói. Còn các cô đây thì thế nào? anh ta hỏi, với một nụ cười đầy vui vẻ và khỏe mạnh sảng khoái. Imma không đáp. Lúc đó Lola có cảm tưởng bà đang hấp hối đằng sau cuốn sách. Rất ổn, nàng nói, đã lâu chúng tôi không gặp nhau, chúng tôi ngồi với nhau nãy giờ tuyệt lắm. Vậy là các vị biết nhau từ trước? bác sĩ hỏi. Tôi thì không, Imma nói, rồi lật trang. Tôi thì biết anh ấy, Lola nói, chúng tôi là bạn từ cách đây mấy năm, ở Barcelona, hồi anh ấy còn ở Barcelona. Thật ra thì, nàng nói trong khi ngước lên ngắm những con chim hét cuối cùng, những con chậm chạp nhất bầy, cất cánh bay lên ngay khi ai đó gạt cái công tắc giấu kín nào đấy trong nhà thương điên để bật đèn trong vườn lên, chúng tôi không chỉ là bạn. Thú vị quá nhỉ, Gorka nói, mắt cũng dõi theo những con chim mà vào giờ này trong ngày và trong cái ánh sáng nhân tạo kia đâm ra có một màu vàng chói ngời. Hồi đó là năm nào? bác sĩ hỏi. Năm 1979 hay là 1978, tôi không nhớ nữa, Lola nói, giọng yếu ớt. Xin đừng nghĩ tôi là người thóc mách, bác sĩ nói, chẳng là tôi đang viết một tiểu sử về anh bạn chúng ta đây nên càng thu thập được nhiều dữ kiện về anh ấy càng tốt, cô thấy có phải không nào? Ngày nào đó anh ấy sẽ ra khỏi đây, Gorka vừa nói vừa vuốt lông mày, ngày nào đó công chúng Tây Ban Nha sẽ phải thừa nhận anh ấy là một trong những người vĩ đại, tôi không nói là họ sẽ tặng anh ấy giải thưởng gì đó, giải Príncipe de Asturias không, giải Cervantes không, một ghế trong Hàn lâm viện Hoàng gia lại càng không, con đường công danh trong nghiệp văn chương ở Tây Ban Nha chỉ dành cho những kẻ thích trèo cao, những tay cơ hội và những tên liếm đít, xin lỗi tôi dùng từ hơi khiếm nhã. Nhưng ngày nào đó anh ấy sẽ ra khỏi đây. Đó là điều chắc chắn. Ngày nào đó tôi cũng sẽ ra khỏi đây. Và tất cả bệnh nhân của tôi, bệnh nhân của các đồng nghiệp tôi nữa. Ngày nào đó, rốt cuộc tất cả chúng tôi cũng sẽ ra khỏi Mondragón và cái cơ quan quý tộc này, nguồn gốc là thuộc giáo hội còn mục đích là từ thiện, sẽ vắng tanh. Thế rồi cuốn tiểu sử tôi viết sẽ gây chú ý và được xuất bản, nhưng hiện thời thì, quý vị hiểu đấy, việc tôi phải làm là thu thập thông tin, ngày tháng, tên tuổi, kiểm chứng những câu chuyện, một số chuyện có vẻ đáng ngờ và thậm chí là gây thương tổn, số khác thì đẹp đẽ sinh động hơn, những câu chuyện giờ đây xoay quanh một cái tâm trọng lực hỗn loạn, cái tâm ấy là anh bạn chúng ta đây, hay là những gì anh ấy muốn cho ta thấy, cái bề ngoài trật tự của anh ấy, ý tôi là ngôn từ trật tự, vốn đang che giấu, với một chiến lược mà tôi tin là mình hiểu song mục đích nó là gì thì không biết được, một thứ ngôn từ vô trật tự mà, một khi ta đã kinh qua nó rồi, cho dù chỉ với tư cách khán giả trước một màn diễn trên sân khấu, sẽ khiến ta chấn động đến mức khó lòng chịu nổi. Bác sĩ ạ, anh thật tuyệt vời, Lola nói. Imma nghiến răng. Rồi Lola bắt đầu kể cho Gorka nghe kinh nghiệm tính dục dị giới của mình với nhà thơ, nhưng bạn nàng len lén lại gần dùng mũi giày đá vào mắt cá chân nàng. Ngay khi đó, nhà thơ, bấy giờ lại vừa bắt đầu nhả những vòng khói ra không trung, liền nhớ lại ngôi nhà ở khu Ensanche, Barcelona và nhớ lại triết gia nọ, và tuy đôi mắt anh không sáng lên nhưng một phần hệ xương của anh thì có: hàm anh, cằm anh, cặp má hóp của anh, như thể anh đã lạc trong rừng rậm Amazon và ba linh mục người Sevilla đã cứu anh, hoặc là một linh mục kỳ hình dị tướng có ba đầu, nhưng chuyện đó cũng chẳng làm anh sợ. Thế rồi quay sang Lola anh hỏi nàng về vị triết gia, nói ra tên của triết gia, nói về thời gian anh ở nhà ông, những tháng anh sống ở Barcelona không công ăn việc làm, chơi những trò ngớ ngẩn, ném những cuốn sách không phải của anh mua ra ngoài cửa sổ (trong khi vị triết gia chạy xuống cầu thang để nhặt lại, tuy không phải lúc nào cũng nhặt được), mở nhạc to hết cỡ, ngủ ít cười nhiều, thỉnh thoảng nhận những việc làm thời vụ như là dịch hay viết phê bình, một vì sao lỏng bằng nước sôi. Đến đó Lola thấy sợ liền lấy hai tay che mặt. Và Imma, rốt cuộc cũng đã nhét cuốn thơ vào túi xách, cũng làm y như vậy, che mặt bằng hai bàn tay bé nhỏ sần sùi. Và Gorka nhìn hai người đàn bà rồi nhìn nhà thơ và một tràng cười ha hả bùng lên bên trong anh ta. Nhưng, trước khi tràng ha hả kịp bặt đi trong trái tim bình lặng của anh ta, Lola nói rằng vị triết gia vừa mới chết vì bệnh AIDS. Chà chà chà, nhà thơ nói. Chó cứ sủa đoàn người cứ đi, nhà thơ nói. Trời có sáng sớm hơn một tí thì ngày cũng chả dài hơn, nhà thơ nói. Em yêu anh, Lola nói. Nhà thơ đứng dậy xin Imma thêm điếu thuốc nữa. Để dành cho ngày mai, anh nói. Bác sĩ và nhà thơ bước xa dần theo một lối đi dẫn về nhà thương điên. Lola và Imma đi về theo một lối khác dẫn ra cổng, ở đó họ gặp em gái của một người điên khác và con trai của một công nhân cũng điên và một bà có vẻ u sầu có người em họ bị nhốt trong nhà thương điên Mondragón.
♣ ♣ ♣