PHẦN HAI (A) PHẦN VỀ AMALFITANO
Hôm sau họ trở lại nhưng người ta nói bệnh nhân đang cần nghỉ ngơi tuyệt đối. Những ngày sau đó cũng vậy. Một hôm họ hết tiền và Imma quyết định lại lên đường lần nữa, lần này đi về phía Nam, đến Madrid, ở đó bà có một người anh đã khá công thành danh toại dưới nền dân chủ, và bà định hỏi vay ông này ít tiền. Lola không đủ sức để đi xa nên họ quyết định là nàng sẽ chờ ở nhà trọ, như chẳng có gì xảy ra, sau một tuần Imma sẽ quay về. Chỉ có một mình, Lola giết thì giờ bằng cách viết cho Amalfitano những bức thư dài trong đó nàng kể về cuộc sống hằng ngày của mình ở San Sebastián và khu vực xung quanh nhà thương điên mà ngày nào nàng cũng ghé thăm. Tì vào hàng rào, nàng tưởng tượng mình lập được mối giao tiếp bằng thần giao cách cảm với nhà thơ. Phần lớn thời gian nàng đi tìm một khoảng trống trong khu rừng cạnh đấy đắm mình đọc sách hay là hái những bông hoa nhỏ và những búi cỏ, dùng các thứ này để tết thành những vong hoa đem thả qua hàng rào hoặc mang về nhà trọ. Có một lần một trong các tài xế dừng lại cho nàng quá giang hỏi nàng có muốn đến thăm nghĩa trang Mondragón không và nàng nhận lời. Anh ta dừng xe ở bên ngoài, dưới một cây keo, và suốt một hồi lâu họ đi giữa những nấm mộ, phần lớn mang những cái tên Basque, cho tới khi đến cái hốc nơi chôn cất mẹ của anh tài xế. Thế rồi anh ta bảo Lola là anh ta muốn chơi nàng ngay tại đó. Lola cười ầm lên và cẩn thận nhắc nhở anh ta rằng họ sẽ phơi mình ra khiến bất cứ ai đi dọc theo đường chính của nghĩa trang cũng nhìn thấy. Tay tài xế nghĩ một thoáng rồi nói: Lạy Chúa, đúng vậy. Họ tìm một chỗ kín đáo hơn và rồi vụ đó không kéo dài quá mười lăm phút. Họ của tay tài xế là Larrazábal và mặc dù có tên riêng nhưng anh ta không muốn cho nàng biết. Chỉ Larrazábal thôi, bạn tôi đều gọi tôi thế, anh ta nói. Đoạn anh ta cho Lola biết đây không phải lần đầu tiên anh ta làm tình trong nghĩa trang. Anh ta từng ở đó với vị hôn thê, với một cô ả anh ta làm quen ở sàn nhảy và với hai cô điếm ở San Sebastián. Khi họ rời khỏi đó, anh ta toan đưa tiền cho nàng nhưng nàng không nhận. Mãi một hồi lâu họ cứ ngồi nói chuyện ở trong xe. Larrazábal hỏi có phải nàng có người thân bị nhốt trong nhà thương điên không, thế là Lola liền kể chuyện mình. Larrazábal bảo anh ta chưa bao giờ đọc bài thơ nào. Anh ta nói thêm là anh ta không hiểu nỗi ám ảnh của Lola đối với nhà thơ. Tôi cũng có hiểu cái thói thích làm tình trong nghĩa trang của anh đâu, Lola nói, tuy nhiên tôi không phê phán anh về chuyện ấy. Đúng vậy thật, Larrazábal nói, mỗi người đều có thứ ám ảnh riêng của mình. Trước khi Lola xuống xe, nơi cổng nhà thương điên, Larrazábal lén luồn một tờ năm ngàn peseta vào túi xách của nàng. Lola biết nhưng không nói gì và sau đó nàng còn lại một mình dưới vòm cây, trước cánh cổng sắt ngôi nhà của những người điên nơi nhà thơ đang sống, nhà thơ, kẻ đã hoàn toàn phớt lờ nàng đi.
♣ ♣ ♣Sau một tuần Imma vẫn chưa về. Lola hình dung ra hình dáng nhỏ xíu của bà, cái nhìn thản nhiên, khuôn mặt như của một nông dân có học hoặc của một cô giáo trung học đang ngóng nhìn một vùng đồng bằng tiền sử bao la, một người đàn bà gần năm mươi tuổi mặc đồ đen, đi mà không nhìn phải nhìn trái, không nhìn lại đằng sau, qua một thung lũng nơi vẫn còn có thể phân biệt rõ dấu vết của những loài ăn thịt lớn với dấu vết của những loài ăn cỏ chui lủi. Nàng hình dung thấy bà dừng tại một ngã tư đường nơi những chiếc xe tải hạng nặng chạy qua hết tốc lực sát bên bà, làm tung bụi lên song bụi ấy không bén được đến bà, dường như sự chần chừ và sự yếu đuối của bà hợp thành trạng thái ân sủng, một mái vòm bảo vệ bà khỏi những nghiệt ngã của số phận, của thiên nhiên và của đồng loại mình. Sang ngày thứ chín thì bà chủ nhà trọ tống cổ nàng ra. Từ đó trở đi nàng ngủ ở ga xe lửa, hay trong một nhà kho bỏ hoang nơi có một số ăn mày ngủ, chẳng ai biết ai, hoặc ngủ giữa trời, cạnh ranh giới giữa nhà thương điên và thế giới bên ngoài. Một đêm kia nàng đi nhờ xe đến nghĩa trang rồi ngủ trong một hốc mộ trống. Sáng hôm sau nàng cảm thấy mình hạnh phúc và may mắn, liền quyết định ở luôn đó chờ Imma về. Nàng có nước để uống để rửa mặt súc miệng, nàng ở gần nhà thương điên, nơi này là một chốn thanh bình. Một tối, trong khi nàng đang đem phơi cái áo mới giặt lên một phiến đá trắng tựa vào tường nghĩa trang, nàng nghe thấy những giọng nói từ trong một lăng mộ vọng ra, liền đến đó xem. Lăng này thuộc về gia tộc Lagasca và xét theo tình trạng hiện thời của nó thì có thể suy ra rằng người cuối cùng của nhà Lagasca đã chết hoặc bỏ đất này mà đi từ lâu lắm rồi. Ở bên trong hầm mộ nàng thấy quầng sáng đèn pin, liền hỏi ai vậy. Chúa ơi, em đó à, nàng nghe một giọng từ trong kia nói. Nàng nghĩ chắc là mình đã bắt gặp đám ăn cắp hoặc công nhân trùng tu lăng hoặc quân đào trộm mộ, nhưng rồi nàng nghe thấy âm thanh như tiếng mèo kêu và khi đã dợm đi thì nàng thấy giữa những chấn song cửa hầm mộ thò ra khuôn mặt vàng bủng của Larrazábal. Sau đó một người đàn bà bước ra, và Larrazábal bảo cô này đợi anh ta ngoài xe, thế rồi trong hồi lâu anh ta và Lola, tay trong tay, vừa đi vừa nói chuyện dọc những lối đi trong nghĩa trang cho đến khi mặt trời bắt đầu lặn xuống sau đường gờ mòn vẹt của những ngôi mộ.
♣ ♣ ♣Chứng điên là thứ dễ lây, Amalfitano ngồi giữa sân hiên nhà mà nghĩ trong khi bầu trời đột nhiên xám xịt lại, chẳng còn thấy trăng sao cũng chẳng còn thấy những đốm ma trơi ở miền Bắc Sonora và miền Nam Arizona vốn nổi tiếng là có thể nhìn thấy được không cần ống nhòm hay kính viễn vọng.
♣ ♣ ♣Quả thật chứng điên là thứ dễ lây, và bạn bè là phước lành, nhất là khi ta chỉ có một mình. Đó chính là những lời Lola đã dùng, từ nhiều năm trước khi kể cho Amalfitano nghe trong một bức thư không đề người gửi về cuộc gặp tình cờ của nàng với Larrazábal, cuộc gặp kết thúc bằng việc tay người Basque buộc nàng phải nhận một khoản vay mười ngàn peseta và hứa hôm sau sẽ quay lại, trước khi leo lên xe và ra hiệu để ả điếm đang sốt ruột chờ anh ta cũng cùng lên. Đêm đó Lola ngủ trong cái hốc của mình, tuy nang cảm thấy bị cám dỗ muốn vào trong hầm mộ đang mở cửa, hoan hỉ trong lòng rằng mọi chuyện bắt đầu trở nên tốt đẹp hơn. Sáng hôm sau nàng kì cọ toàn thân bằng một mẩu giẻ ướt, chà răng, chải tóc rồi mặc quần áo sạch, sau đó đi ra xa lộ bắt xe đi nhờ đến Mondragón. Tới thị trấn nàng mua pho mát dê và một ổ bánh mì rồi ăn sáng nơi quảng trường, đói ngấu, bởi vì thực tình nàng không nhớ nổi lần ăn gần nhất trước đó là khi nào nữa. Đoạn nàng vào một quán bar đông nghẹt thợ xây mà uống một tách cà phê sữa. Nàng đã quên mất Larrazábal dặn mấy giờ anh ta sẽ đến nghĩa trang nhưng chuyện đó không quan trọng, cũng theo cái kiểu xa xôi đó cả Larrazábal cả cái nghĩa trang cả cái thị trấn này và cái cảnh quan run rẩy đầu buổi sáng này thảy đều không quan trọng. Trước khi rời khỏi quán nàng vào toilet soi gương. Nàng đi bộ trở lại đường lộ đứng chờ cho đến khi một phụ nữ dừng xe lại cạnh nàng, hỏi nàng đi đâu. Đến nhà thương điên, Lola nói. Câu trả lời của nàng rõ ràng làm người đàn bà sửng sốt, tuy vậy bà ta vẫn bảo nàng lên xe. Bà ta cũng đang đi đến đấy. Chị đến thăm ai đó hay chị là bệnh nhân? bà hỏi Lola. Tôi đến thăm, Lola đáp. Mặt người đàn bà choắt, hơi dài, đôi môi gần như không hiện hữu khiến cho bà ta có vẻ lạnh lùng tính toán, mặc dù bà ta có cặp xương hàm đẹp và bà ăn mặc như một phụ nữ có nghề nghiệp không còn độc thân, có gia đình, có chồng, có khi cả một đứa con để phải chăm lo. Bố tôi ở đấy, bà thú nhận. Lola không nói gì. Khi họ đến cổng Lola xuống xe và người đàn bà đi tiếp một mình. Một hồi lâu nàng lang thang ven phía trước nhà thương. Nàng nghe có tiếng ngựa ồn ã liền đoán rằng ở đâu đó bên kia rừng có một câu lạc bộ cưỡi ngựa hoặc trường dạy cưỡi ngựa. Có một lúc nàng nhìn thấy mái ngói đỏ của một căn nhà không hề thuộc nhà thương điên. Nàng đi ngược lại. Nàng trở lại đoạn hàng rào nơi có thể nhìn rõ nhất toàn bộ khu vườn. Khi mặt trời lên cao hơn nàng thấy một nhóm bệnh nhân ríu sát vào nhau từ trong một tòa nhà phụ bằng đá lát đi ra rồi tản mát ngồi xuống các băng ghế trong vườn châm thuốc hút. Nàng nghĩ mình nhận ra nhà thơ. Anh đi cùng hai bệnh nhân khác và mặc quần bò, áo thun màu trắng rộng thùng thình. Nàng huơ tay ra hiệu cho anh, ban đầu rụt rè, như thể hai tay nàng bị cóng vì lạnh, sau đó thì công nhiên hơn, vẽ ra những hình thù kỳ quặc trong làn không khí hãy còn lạnh, cố làm sao cho những tín hiệu của mình có được sự khẩn thiết của tia laser, muốn truyền đi những lời nhắn gửi bằng thần giao cách cảm. Năm phút trôi qua, nàng nhìn thấy nhà thơ đứng dậy khỏi ghế và một trong hai người điên đá vào chân anh. Nàng cố ghìm lại nỗi thôi thúc muốn hét lên. Nhà thơ xoay người đá trả. Gã điên, lúc bấy giờ đã ngồi xuống lại, lãnh trọn cú đá vào ngực và liền sụm xuống như một con chim nhỏ. Tay khùng đang hút thuốc cạnh gã ta liền đứng dậy đuổi theo nhà thơ chừng chục mét, ráng đá vào đít và đấm vào lưng anh. Đoạn gã bình thản quay về chỗ ngồi, ở đó gã điên kia đã hồi lại và đang xoa ngực xoa cổ xoa cả đầu, bất cứ ai nhìn thấy hẳn đều sẽ bảo làm thế quá thừa bởi gã chỉ ăn đá có mỗi vào ngực thôi. Đến lúc đó Lola thôi không ra hiệu nữa. Một trong hai người điên ngồi trên băng ghế bắt đầu thủ dâm. Gã kia, gã đang tỏ ra đau nhiều hơn thực tế, thò tay vào lục trong túi rút ra một điếu thuốc. Nhà thơ lại gần họ. Lola nghĩ mình nghe thấy anh cười ha hả. Một tiếng cười mai mỉa, tựa như anh đang nói: mấy bồ ơi, mấy bồ không biết đùa là thế nào sao. Nhưng có lẽ nhà thơ không phải đang cười. Có lẽ là, Lola viết trong thư gửi Amalfitano, chính cái sự điên của em nó mới đang cười. Dù thế nào, dù có phải do cái sự điên của nàng hay không, thì nhà thơ vẫn tiến lại chỗ hai người kia đang ngồi mà nói gì đó với họ. Không ai trong hai người điên kia trả lời. Lola thấy họ: họ đang nhìn xuống, nhìn sự sống đang thở phập phồng nơi mặt đất, giữa những lá cỏ và dưới những cục đất tơi ra. Một sự sống đui mù nơi tất cả đều trong suốt như nước. Nhà thơ, tuy vậy, ắt hẳn đã nhìn khuôn mặt hai bạn cùng chung nghịch cảnh của mình, trước tiên là người này rồi sau đó người kia, để tìm một dấu hiệu cho anh thấy anh có thể ngồi lại xuống băng ghế mà không gặp nguy hiểm. Điều mà rốt cuộc anh cũng đã làm. Anh giơ một tay lên như kiểu xin ngừng chiến hoặc đầu hàng rồi ngồi xuống giữa hai người kia. Anh giơ một tay lên như kiểu người ta giơ cao một lá cờ rách te tua. Anh cử động các ngón tay, từng ngón một, như kiểu chúng là một lá cờ đang bốc cháy, lá cờ của kẻ không bao giờ chịu đầu hàng. Rồi anh ngồi xuống giữa bọn họ và nhìn tay điên đang thủ dâm mà thì thầm gì đó vào tai gã ta. Lần này Lola không nghe thấy tiếng anh nhưng nàng thấy rõ bàn tay trái nhà thơ mò mẫm vào bên trong áo choàng của tay điên kia. Sau đó nàng nhìn cả ba người hút thuốc. Và nàng nhìn những vòng khói xoắn đầy nghệ thuật bay ra từ miệng nhà thơ và từ hai lỗ mũi anh.
♣ ♣ ♣Thư kế tiếp và là thư cuối Amalfitano nhận được từ vợ cũng không đề người gửi nhưng tem thì là tem của Pháp. Trong thư Lola thuật lại một cuộc trò chuyện với Larrazábal. Lạy Chúa, sao mà em may thế, Larrazábal nói, cả đời anh chỉ muốn sống trong nghĩa trang, thế mà xem em kìa, vừa mới tới xong là em chuyển vào ngay tắp lự. Một người tốt, Larrazábal ấy. Anh ta mời nàng đến ở căn hộ của anh ta. Anh ta đề nghị để anh ta mỗi sáng lái xe đưa nàng đến nhà thương điên Mondragón, nơi nhà thơ lớn nhất và nhiều ảo tưởng nhất của Tây Ban Nha đang nghiên cứu côn trùng. Anh ta cho nàng mượn tiền mà không đòi gì đổi lại. Một đêm anh ta đưa nàng đi xem phim. Một đêm khác, anh ta đi cùng nàng về nhà trọ để hỏi xem có tin tức gì của Imma không. Một lần, sáng thứ Bảy, sau khi đã làm tình suốt đêm, anh ta hỏi cưới nàng và không cảm thấy mình bị xúc phạm hay thật lố bịch khi Lola nhắc anh ta nhớ nàng đã có chồng rồi. Một người tốt, cái anh Larrazábal ấy. Anh ta mua cho nàng cái váy ở một chợ trời nhỏ và vài cái quần jean hàng hiệu tại một cửa hàng ở khu trung tâm San Sebastián. Anh ta kể cho nàng nghe về mẹ anh ta, người anh ta hết lòng yêu thương, về hai anh em trai của anh ta, họ thì anh ta không thấy gần gũi chút nào. Chẳng chuyện nào trong số ấy khiến nàng cảm động, hoặc có thể có, nhưng không phải theo cách mà anh ta hy vọng. Với nàng, những ngày đó giống như một cuộc nhảy dù chậm rì rì sau một chuyến bay dài trong không gian. Nay thì nàng không còn đến Mondragón hằng ngày mà ba ngày mới đến một lần, nhìn qua hàng rào mà chẳng mong gì nhìn thấy nhà thơ, nàng chỉ cần tìm một dấu hiệu, một dấu hiệu mà nàng biết trước là mình sẽ không bao giờ hiểu hoặc phải nhiều năm nữa mới hiểu, khi mà chuyện đó chẳng còn quan trọng gì nữa. Thỉnh thoảng, không gọi điện trước cũng không để lại tin nhắn, nàng không ngủ ở nhà Larrazábal thế là anh ta lái xe đi tìm nàng ở nghĩa trang, ở nhà thương điên, ở nhà trọ cũ nơi nàng từng trọ, rồi những nơi mà đám ăn mày và những kẻ vãng lai thường tụ tập tại San Sebastián. Một lần anh ta bắt gặp nàng ở phòng đợi nhà ga. Lần khác anh ta gặp nàng đang ngồi trên một băng ghế tại La Concha, vào cái giờ mà những người duy nhất qua lại đó là những người hoặc không có thì giờ cho bất cứ việc gì hoặc là có vô khối thời gian. Sáng sáng, Larrazábal là người làm bữa điểm tâm. Đêm đêm, đi làm về, anh ta là người làm bữa tối. Thời gian còn lại trong ngày, Lola chỉ uống nước, uống nhiều, và ăn một mẩu bánh mì hay một cái bánh mì ngọt đủ nhỏ để nhét túi, bánh đó nàng mua ở hiệu bánh nơi góc đường trước khi đi lang thang. Một đêm, giữa khi họ đang tắm, nàng nói với Larrazábal là nàng định đi và xin anh ta tiền tàu xe. Anh sẽ cho em tất cả tiền anh có, anh ta bảo nàng, nhưng anh không thể cho em tiền để mà em đi mất không về nữa. Lola không nài xin. Bằng cách nào đó, mà nàng không cho Amalfitano biết, nàng xoay được vừa đủ tiền mua vé và một ngày nọ giữa trưa nàng bắt tàu sang Pháp. Nàng ở Bayonne một thời gian. Nàng lên đường đến Landes. Nàng quay về lại Bayonne. Nàng đến sống ở Pau và ở Lourdes. Một sáng nọ nàng thấy một đoàn tàu toàn những người ốm, người liệt, thiếu niên bại não, nông dân bị ung thư da, quan chức người Castile mắc bệnh ở giai đoạn cuối, bà già thanh lịch ăn mặc như nữ tu dòng Cát Minh, người bị phát ban, trẻ mù, và dẫu không biết phải làm thế nào nàng vẫn bắt tay vào giúp họ, như thể nàng là một bà xơ mặc quần jean được Giáo hội cắt đặt sẵn cho việc giúp đỡ và hướng dẫn những con người tuyệt vọng đó, từng người từng người một leo lên những chiếc xe buýt chờ sẵn bên ngoài ga tàu hỏa hoặc xếp hàng dài mà đợi như thể mỗi người là một cái vảy của một con rắn khổng lồ già cả và tàn ác song vô cùng khỏe mạnh. Thế rồi có tàu từ Ý rồi tàu từ miền Bắc Pháp đến và Lola đi tới đi lui giữa các đoàn tàu như kẻ mộng du, đôi mắt to màu xanh lơ của nàng không chớp, nàng bước đi chậm chạp, bởi những nhọc mệt nhiều ngày tích lại bắt đầu đè nặng lên nàng, và nàng được phép vào tất cả các khu vực của nhà ga, một số phòng được chuyển thành trạm sơ cứu, những phòng khác thì thành trạm hồi sức, và một phòng khác nữa, chỉ một phòng, nằm ở nơi kín đáo nhất, chuyển thành nhà xác dã chiến dành cho xác của những người mà sức lực không kham nổi tình trạng xộc xệch mỏi mệt càng lúc càng tăng của chuyến tàu. Đêm đến nàng ngủ trong tòa nhà hiện đại nhất ở Lourdes, một con quái vật bằng thép và kính theo chủ nghĩa công năng vục cái đầu tua tủa ăng ten vào giữa những đám mây lớn trôi lững lờ từ phương Bắc tới, trắng và u buồn, hoặc từ phía Tây tiến lại như một đoàn quân ô hợp mà sức mạnh duy nhất là số đông, hoặc từ phía dãy Pyrénées trườn xuống như bóng ma của những con thú chết. Ở đó nàng thường ngủ trong khu đựng rác, nàng vào được đấy qua một cánh cửa nhỏ xíu gần sát đất. Những lần khác nàng ở lại nhà ga, nơi quán bar của nhà ga, khi sự hỗn độn của các đoàn tàu đã vãn, nàng để cho các ông già mời nàng cốc cà phê sữa và nói chuyện với nàng về phim ảnh, về nghề nông. Một tối nọ nàng tin mình nhìn thấy Imma từ một chuyến tàu Madrid bước xuống, có một đội người què cụt hộ tống. Bà ta có vóc người giống Imma, mặc váy dài đen giống Imma, khuôn mặt đau khổ kiểu nữ tu Castile cũng y hệt Imma. Nàng ngồi im chờ đến khi bà kia đi ngang qua song nàng không chào bà kia và mãi năm phút sau nàng mới len lỏi tìm đường ra khỏi nhà ga Lourdes, rời khỏi thị trấn Lourdes, đi bộ ra đường lộ và chừng đó mới bắt đầu giơ ngón cái lên ra hiệu xin đi nhờ xe.
♣ ♣ ♣Suốt năm năm Amalfitano không nhận được tin gì của Lola. Một chiều nọ, khi đang ở chỗ sân chơi cùng đứa con gái, ông thấy một phụ nữ tựa người vào hàng rào gỗ ngăn giữa sân chơi trẻ em và phần còn lại của công viên. Ông cảm thấy hình như đó là Imma, liền dõi theo cái nhìn của bà ta và nhẹ cả người khi nhận ra rằng một đứa trẻ khác mới đang thu hút sự chú tâm của bà ta, sự chú tâm của một người điên. Thằng bé mặc quần soóc và lớn hơn con ông một chút, có mái tóc đen rất mượt cứ thỉnh thoảng lại xòa xuống che mất khuôn mặt. Giữa rào ngăn và các băng ghế mà chính quyền kê ở đó để các ông bố bà mẹ có thể ngồi trông chừng con cái có một hàng cây bụi cố sức mọc lên, kéo dài mãi đến tận một cây sồi già nằm ngoài ranh giới khu sân chơi trẻ em. Bàn tay Imma, bàn tay nhỏ cứng sần sùi, thô ráp vì mặt trời và vì những dòng sông lạnh buốt, khẽ vuốt cái bề mặt mới xén của hàng giậu giống như người ta vuốt ve lưng chó. Cạnh bà ta là một cái túi nhựa to. Amalfitano đi về phía bà ta bằng những bước chân cố giữ cho bình thản mà không được. Con gái ông đang chờ đến lượt để chơi cầu trượt. Đột nhiên, trước khi Amalfitano kịp nói gì với bà ta, ông nhận thấy thằng con trai kia rốt cuộc đã nhận ra ánh mắt đầy chăm chú trông chừng của Imma, thế là nó, sau khi gạt một lọn tóc sang bên, liền giơ tay phải lên chào mấy lần. Thế là Imma, như thể nãy giờ chỉ đợi mỗi cái tín hiệu đó, liền lặng lẽ đưa tay trái lên, vẫy nó, đoạn quay gót đi ra khỏi công viên theo cổng phía Bắc dẫn ra một đại lộ nhộn nhịp.
♣ ♣ ♣Năm năm sau khi Lola ra đi, Amalfitano lại nhận được tin nàng. Thư ngắn, gửi từ Paris. Trong thư Lola nói nàng đang làm nghề lau dọn cho mấy tòa nhà văn phòng lớn. Nàng làm đêm, bắt đầu từ mười giờ và xong lúc bốn hoặc năm hoặc sáu giờ sáng. Paris thật đẹp vào giờ đó, cũng như tất cả những thành phố lớn lúc thiên hạ đều đang ngủ. Nàng về nhà bằng tàu điện ngầm. Tàu điện ngầm, vào giờ đó, là thứ buồn nhất trên đời. Nàng có một đứa con khác, con trai, tên là Benoît, nàng đang ở cùng với nó. Nàng cũng đã nằm bệnh viện. Nàng không nói rõ là do bệnh gì, cũng không nói hiện giờ nàng có đang ốm không. Nàng không nhắc tới người đàn ông nào cả. Nàng không hỏi gì về Rosa. Với nàng thì cũng bằng như con bé không tồn tại, Amalfitano nghĩ, nhưng sau đó ông nhận ra là chuyện không nhất thiết cứ phải như thế. Ông khóc một chặp, thư vẫn ở trên tay. Tuy nhiên, mãi đến khi lau mắt ông mới nhận ra rằng thư được đánh máy. Ông biết, chẳng nghi ngờ gì nữa, rằng nàng đã đánh máy thư này ở một trong các văn phòng mà nàng đến lau dọn. Trong một thoáng ông nghĩ mọi chuyện thảy đều dối trá, rằng thực ra Lola làm nhân viên hành chính hay thư ký cho một hãng lớn nào đó. Sau đó thì ông nhìn thấy rõ. Ông thấy cái máy hút bụi đặt giữa hai dãy bàn làm việc, ông thấy chiếc máy cọ sàn trông như một thể lai ghép giữa loài chó lớn tai cụp và lợn ngồi ở cạnh một cái cây cảnh, ông thấy một ô kính khổng lồ qua đó có thể thấy những ánh đèn nhấp nháy của Paris, thấy Lola mặc đồng phục của công ty vệ sinh, bộ đồng phục cũ mòn màu xanh lơ, đang ngồi gõ thư, có thể vừa gõ vừa hút thuốc vô cùng chậm rãi, ông thấy những ngón tay của Lola, hai cổ tay của Lola, đôi mắt vô cảm của Lola, thấy một Lola khác phản chiếu trên mặt gương cửa sổ tráng thủy, trôi vô trọng lượng trên bầu trời Paris, như một bức ảnh có chỉnh sửa song không phải ảnh chỉnh sửa, trôi, trôi trầm tư trên bầu trời Paris, mệt mỏi, và gửi thông điệp đi từ vùng lạnh nhất, băng giá nhất của đam mê.
♣ ♣ ♣Hai năm sau khi gửi Lola bức thư cuối cùng này, bảy năm sau khi bỏ Amalfitano và đứa con gái, nàng quay về mà chẳng gặp được ai. Suốt ba tuần nàng đi khắp các địa chỉ cũ mà nàng còn nhớ được đặng hỏi dò tung tích chồng. Vài người không mở cửa cho nàng, bởi họ không nhận ra nổi nàng là ai hoặc họ đã quên nàng từ lâu rồi. Những người khác thì để nàng đứng nơi khung cửa, bởi họ không tin tưởng nàng hoặc bởi chẳng qua là Lola lầm địa chỉ. Một ít người mời nàng vào và mời nàng một tách cà phê hay tách trà nhưng Lola chẳng bao giờ nhận bởi có vẻ nàng rất nôn nóng muốn gặp con và gặp Amalfitano. Ban đầu cuộc tìm kiếm của nàng không có gì khả quan và cũng không có vẻ thực. Nàng nói chuyện với những người mà thậm chí nàng cũng đã quên. Ban đêm nàng ngủ ở một nhà trọ gần Las Ramblas, nơi người lao động nước ngoài chen chúc trong những căn phòng nhỏ xíu. Nàng thấy thành phố đã thay đổi nhưng không thể nói được chính xác cái gì thay đổi. Chiều chiều, sau khi cuốc bộ suốt ngày, nàng ngồi nơi mấy bậc tam cấp một nhà thờ để nghỉ và lắng nghe cuộc chuyện trò của những người ra ra vào vào, chủ yếu là khách du lịch. Nàng đọc sách bằng tiếng Pháp về Hy Lạp hay về thuật phù thủy hay về cuộc sống lành mạnh. Đôi khi nàng cảm thấy mình như Electra, con gái của Agamenón và Clytemnestra, cải trang đi lang thang khắp Mycenae, kẻ giết người trà trộn giữa dân đen, giữa quần chúng, kẻ giết người có tâm trí không ai hiểu được, chuyên gia FBI không hiểu mà những người tốt bụng thường dừng lại thả vào tay nàng dăm đồng lẻ cũng không thể hiểu. Những lúc khác nàng thấy mình như mẹ của Medon và Strophius, một bà mẹ hạnh phúc đứng bên cửa sổ nhìn hai đứa con trai mình chơi đùa trong khi đằng sau chúng bầu trời xanh ngắt vùng vẫy giữa hai cánh tay trắng muốt của Địa Trung Hải. Nàng thì thầm: Pylades, Orestes, và trong tâm trí nàng hai cái tên đó bao hàm khuôn mặt của nhiều người đàn ông, ngoại trừ của Amalfitano, người nàng đang tìm kiếm lúc này. Đêm nọ nàng gặp một sinh viên cũ của chồng nàng, anh ta nhận ra nàng lập tức, như thể suốt những năm đại học anh ta đã phải lòng nàng vậy. Cậu cựu sinh viên ấy đưa nàng về nhà mình, bảo nàng là nàng có thể ở lại đó bao lâu cũng được, rồi dọn dẹp phòng dành cho khách để nàng được toàn quyền sử dụng. Đêm thứ hai, trong khi họ cùng ăn tối, cậu cựu sinh viên ôm nàng và nàng để cho cậu ta ôm mình trong mấy giây, như thể cả nàng cũng cần cậu ta, rồi sau đó nàng thì thầm vào tai cậu cựu sinh viên thế là cậu ta liền rời nàng ra mà đến ngồi giữa sàn, trong một góc phòng khách. Suốt mấy giờ họ cứ như thế, nàng ngồi trên ghế còn cậu ta ngồi giữa sàn, sàn này lát một thứ gỗ rất chi kỳ quặc, màu vàng sẫm, không giống ván lát mấy mà giống một tấm thảm rơm bện rất chặt thì đúng hơn. Các cây nến trên bàn hồi lâu cũng tắt hết và chừng đó nàng mới sang ngồi trong phòng khách, ở góc đối diện. Trong bóng tối nàng nghĩ mình nghe thấy những tiếng nức nở khẽ. Nàng có cảm giác chàng thanh niên đang khóc và nàng thấy buồn ngủ do được ru bằng tiếng khóc của cậu ta. Suốt hai ngày sau đó cậu cựu sinh viên và nàng tăng cường gấp đôi nỗ lực tìm kiếm. Khi cuối cùng cũng gặp Amalfitano nàng không nhận ra ông. Ông béo hơn trước và đã rụng mất ít tóc. Nàng thấy ông từ xa liền lại gần ông mà không lưỡng lự một giây nào. Amalfitano đang ngồi hút thuốc dưới một cây thông trụi lá, vẻ lơ đãng. Anh thay đổi nhiều quá, nàng nói với ông. Amalfitano nhận ra nàng ngay. Em thì không, ông nói. Cảm ơn, nàng nói. Thế rồi Amalfitano đứng dậy và họ đi.
♣ ♣ ♣Dạo đó Amalfitano sống ở Sant Cugat và dạy triết tại Đại học Tự trị Barcelona, cũng tương đối gần nhà. Rosa học tiểu học ở một trường công trong thị trấn, ngày nào cũng rời nhà lúc tám rưỡi sáng và năm giờ chiều mới về nhà. Lola gặp Rosa và bảo con bé nàng là mẹ nó. Rosa hét lên rồi ôm nàng và gần như ngay sau đó lại ngãng ra mà chạy vào trốn trong phòng nó. Đêm ấy, sau khi tắm và sửa soạn chỗ nằm cho mình trên sofa, Lola nói với Amalfitano rằng nàng đang ốm lắm, chắc nàng sắp chết mất thôi, nên nàng muốn gặp Rosa lần cuối. Amalfitano đề nghị ngày hôm sau đưa nàng đến bệnh viện nhưng Lola từ chối, bảo rằng thầy thuốc Pháp xưa nay luôn luôn giỏi hơn thầy thuốc Tây Ban Nha, đoạn nàng lấy trong túi xách ra mấy tờ giấy, các giấy này, bằng ngôn từ không thể rõ ràng hơn và bằng tiếng Pháp, xác nhận rằng nàng bị AIDS. Ngày hôm sau, khi ở trường đại học về, Amalfitano thấy Lola và Rosa đang đi dạo dọc những con phố gần nhà ga, tay trong tay. Ông không muốn quấy rầy họ nên chỉ đứng nhìn từ xa. Khi về nhà, mở cửa ra ông thấy họ đang ngồi xem tivi cùng nhau. Đêm đến, khi Rosa đã ngủ, ông hỏi nàng về cậu con trai Benoît. Lola im lặng mất một lúc, nàng nhớ lại bằng cái trí nhớ hình ảnh từng bộ phận của cơ thể con trai nàng, từng cử chỉ, từng vẻ mặt sửng sốt hay sợ hãi, sau đó nàng nói Benoît là một đứa trẻ thông minh và nhạy cảm, nàng nói con trai nàng là người đầu tiên biết nàng sắp chết. Amalfitano hỏi ai đã cho nó biết, mặc dù ông nghĩ, trong cam chịu, là ông biết câu trả lời. Nó biết mà chẳng cần ai bảo, Lola nói, chỉ nhìn là biết. Thật khủng khiếp cho một đứa bé khi phải biết rằng mẹ mình sắp chết, Amalfitano nói. Nói dối nó thì còn khủng khiếp hơn, với trẻ con chúng ta không bao giờ nên nói dối, Lola nói. Đến ngày thứ năm lưu lại đó, khi chỗ thuốc nàng mang theo từ bên Pháp sắp hết, một sáng nọ Lola cho họ biết nàng sắp phải đi rồi. Benoît còn nhỏ, nó cần em, nàng nói. Không, thật ra nó chẳng cần em đâu, nhưng nói thế không có nghĩa nó không còn nhỏ, nàng nói. Không biết ai cần ai, cuối cùng nàng nói, nhưng điều chắc chắn là em phải về xem nó thế nào. Amalfitano để lại cho nàng một bức thư trên bàn cùng với một phong bì đựng một khoản lớn tiền tiết kiệm của ông. Khi đi làm về ông nghĩ Lola không còn ở đó nữa. Ông đến trường đón Rosa và hai bố con đi bộ về nhà. Về tới nơi họ thấy Lola ngồi trước tivi đang mở nhưng tiếng thì tắt, đọc cuốn sách về Hy Lạp của nàng. Họ cùng ăn tối. Rosa đi ngủ lúc gần mười hai giờ đêm. Amalfitano đưa con bé về phòng cô, cởi quần áo cho con bé và dém chăn cho nó. Lola đợi ông ở phòng khách, vali đã sẵn sàng. Tốt hơn là em ở lại đêm nay, Amalfitano nói. Giờ này khuya quá rồi đi sao được. Chẳng còn tàu hỏa nào đi Barcelona cả, ông nói dối. Em không đi tàu hỏa, Lola nói. Em bắt xe đi nhờ. Amalfitano cúi đầu bảo rằng nàng có thể đi bất cứ lúc nào. Lola hôn má ông rồi đi. Hôm sau Amalfitano dậy lúc sáu giờ sáng và liền bật radio để nghe xem liệu có phụ nữ nào đi nhờ xe bị hãm hiếp hay giết chết trên một con đường nào ở vùng này không. Không có chuyện gì.
♣ ♣ ♣Thế nhưng cái hình ảnh phỏng đoán đó về Lola cứ còn lại mãi trong tâm trí ông suốt nhiều năm, như một ký ức trỗi dậy chói tai từ những bờ biển đóng băng, mặc dù trên thực tế ông không nhìn thấy gì và do vậy không thể có gì để nhớ, duy chỉ cái bóng của vợ cũ ông mà ánh đèn đường hắt lên mấy tòa nhà lân cận, rồi thì giấc mơ: Lola đi dọc theo một trong các con đường dẫn ra khỏi Sant Cugat, đi men lề đường, một con đường gần như vắng ngắt do hầu hết xe cộ đều rẽ sang xa lộ mới mở để tiết kiệm thời gian dù phải trả tiền phí, một phụ nữ thân oằn xuống vì sức nặng cái vali đang xách, không sợ hãi, bước đi một cách không sợ hãi dọc lề đường.
♣ ♣ ♣Đại học Santa Teresa giống như một nghĩa trang đột nhiên bắt đầu suy nghĩ, một cách vô ích. Nó cũng giống như một sàn nhảy vắng tanh.
♣ ♣ ♣Một chiều nọ Amalfitano mặc sơ mi bước ra sân, như một lãnh chúa cưỡi ngựa đi chiêm quan lãnh địa mênh mông của ngài. Mới một chốc trước đó ông còn ngồi bệt xuống sàn phòng làm việc dùng dao bếp mở các thùng sách, và ở một trong các thùng ông bắt gặp một cuốn sách thật lạ, chẳng nhớ có khi nào mình mua cuốn ấy không mà cũng chẳng nhớ là có ai đó tặng cho ông không. Cuốn sách ấy là Kinh thánh hình học của Rafael Dieste do Nhà xuất bản Castro ở La Coruña ấn hành năm 1975, một cuốn sách rõ ràng là về hình học, một môn mà Amalfitano chẳng hiểu biết gì mấy, chia làm ba phần, phần đầu là “Dẫn nhập về Euclides, Lobachevski và Riemann”, phần thứ hai dành cho “Hình học các vận động” còn phần thứ ba có tít là “Ba cách chứng minh định đề thứ V”, nhất định là phần khó hiểu nhất song Amalfitano chẳng hề biết cái định đề thứ V này là gì và nó bao gồm những cái gì, mà ông cũng chẳng buồn biết, tuy điều này chẳng phải vì ông thiếu tò mò, gì chứ tò mò thì ông có thừa, mà là bởi cái nóng càn quét Santa Teresa vào những buổi chiều, một cái nóng vừa khô vừa bụi của mặt trời bỏng rát, chẳng làm sao tránh nổi trừ phi người ta sống ở một căn hộ mới có điều hòa không khí, mà ông thì không sống ở một căn hộ mới có điều hòa không khí. Sách in được là nhờ sự giúp đỡ của một số bạn bè tác giả, những người bạn đã được bất tử hóa trong một bức ảnh trông như thể được chụp vào cuối một bữa tiệc, ở trang 4, nơi người ta thường cung cấp thông tin về nhà xuất bản. Ở đó ghi: Ấn bản này là một món quà dành tặng Rafael Dieste từ: Ramón BALTAR DOMÍNGUEZ, Isaac DÍAZ PARDO, Felipe FERNÁNDEZ ARMESTO, Fermín FERNÁNDEZ ARMESTO, Francisco FERNÁNDEZ DEL RIEGO, Álvaro GIL VARELA, Domingo GARCÍA-SABELL, Valentín PAZ-ANDRADE và Luis SEOANE LÓPEZ. Amalfitano thấy có vẻ lạ, ít nhất là thế, rằng họ của những người bạn kia được in bằng chữ hoa còn họ của người được vinh danh thì lại bằng chữ thường. Ở tay gấp bìa trước có viết rằng Kinh thánh hình học thật ra là ba cuốn sách, “cuốn nào cũng độc lập, nhưng có tương liên về mặt chức năng nếu xét cái toàn thể”, rồi sau đó viết thêm rằng “cuốn sách này là sản phẩm chưng cất cuối cùng từ những suy niệm và nghiên cứu của Dieste về Không gian, đối tượng mà khái niệm về nó bao hàm trong bất cứ thảo luận có phương pháp nào về các chức năng của Hình học”. Ngay lúc đó Amalfitano nhớ ra rằng Rafael Dieste cũng là nhà thơ. Một nhà thơ người Galicia, dĩ nhiên, hoặc đã sinh sống từ lâu ở Galicia. Và bạn bè cũng như những người bảo trợ cho ông cũng là người Galicia, rõ là vậy, hoặc đã sinh sống từ lâu ở Galicia, ở đấy Dieste có lẽ đã dạy tại Đại học La Coruña hoặc Santiago de Compostela, hoặc cũng có thể ông giảng dạy không phải ở đại học mà ở một trường trung học, dạy hình học cho đám trẻ con mười lăm mười sáu tuổi và vừa dạy vừa ngó ra ngoài cửa sổ nhìn bầu trời mùa đông lúc nào cũng u ám của Galicia hay cơn mưa như trút nước. Và trên tay gấp bìa sau có thêm dữ kiện về Dieste. Ở đó ghi: “Trong số các cuốn sách làm nên toàn bộ trước tác tuy đa dạng song luôn đều tay của Rafael Dieste, vốn luôn luôn bám rịt lấy những đòi hỏi của một quá trình cá nhân mà ở đó sáng tạo thơ ca và sáng tạo tư biện đều tập trung vào một đối tượng duy nhất, tác phẩm có cùng chủ đề với cuốn này là: Khảo luận mới về song song (Buenos Aires, 1958) và các công trình mới đây hơn: Khảo dị về Zenon xứ Elea và Tiên đề là gì in cùng một tập với Tính động và Đồng dạng.” Vậy là, Amalfitano nghĩ, mặt ông đầm đìa mồ hôi khiến cho những phân tử bụi li ti bám cả vào, niềm đam mê của Dieste đối với hình học chẳng phải là cái gì mới. Và những người bảo trợ cho ông, dưới hiểu biết mới mẻ này, trên thực tế chẳng còn là những bạn bè ông hằng đêm gặp gỡ ở quán để uống rượu trò chuyện về chính trị về bóng đá hay về nhân tình nhân ngãi, mà bằng tốc độ ánh sáng họ đã chuyển hóa thành những đồng nghiệp đáng kính ở trường đại học, một số cầm chắc là đã về hưu song những người khác thì vẫn đang hoạt động hết mình và tất cả đều giàu có hoặc giàu có vừa phải, song chắc chắn điều này không có nghĩa rằng thi thoảng họ không gặp nhau, như những trí thức tỉnh lẻ, tức là như những con người vô cùng cô độc nhưng cũng vô cùng tự mãn, ở quán La Coruña để uống một cốc whiskey hoặc cognac hảo hạng và nói về những mưu mô và những cô nhân tình trong khi các bà vợ họ, hoặc trong trường hợp các ông góa vợ thì là những bà người làm của họ, đang ngồi trước tivi hay nấu bữa tối. Dù là trường hợp nào đi chăng nữa, đối với Amalfitano, vấn đề vẫn nằm ở chỗ làm thế nào cuốn sách này lại lọt vào một trong các thùng sách của ông. Trong khoảng nửa tiếng đồng hồ ông lục lọi mãi trong trí nhớ, lơ đãng lật lật cuốn sách của Dieste, rồi cuối cùng ông kết luận rằng hiện tại toàn bộ chuyện này là một bí ẩn ngoài khả năng lý giải của ông, nhưng ông không chịu thua. Ông hỏi Rosa, bấy giờ cô đang trang điểm trong buồng tắm, rằng liệu sách này có phải của cô không. Rosa nhìn cuốn sách rồi bảo không. Amalfitano nài cô nhìn lại lần nữa rồi nghĩ cho thật chắc đây có phải là sách của cô không. Rosa hỏi ông có thấy khỏe không. Bố hoàn toàn khỏe, Amalfitano nói, nhưng cuốn sách này không phải của bố mà lại xuất hiện ở một trong mấy thùng sách bố gửi từ Barcelona tới đây. Rosa liền đáp, bằng tiếng Catalán, rằng bố đừng băn khoăn làm gì, rồi tiếp tục trang điểm. Làm sao bố không băn khoăn cho được, Amalfitano nói, cũng bằng tiếng Catalán, bố thấy cứ như là bố đang mất trí nhớ ấy. Rosa lại nhìn cuốn sách rồi nói: Có khi của con không chừng. Có chắc không? Amalfitano hỏi. Không, không phải của con, Rosa nói, chắc chắn là không, thực tình con mới thấy lần đầu tiên. Amalfitano để con gái lại trước tấm gương trong buồng tắm mà trở ra khu vườn bị bỏ bê không chăm sóc, ở đó tất cả mọi thứ đều có màu vàng nâu như bụi, tuồng như sa mạc đã đến vây quanh căn nhà mới của ông, với cuốn sách lủng lẳng trong tay ông. Ông điểm lại trong đầu những hiệu sách mà có thể ông đã mua cuốn sách này. Ông tìm ở trang đầu và trang cuối rồi thì ở bìa sau xem có dấu hiệu nào không và tìm thấy, ở trang đầu, một con dấu đề “Hiệu sách Follas Novas, S.L., Montero Ríos 37, điện thoại 981-59-44-06 và 981-59-44-18, Santiago”. Rõ ràng không phải là Santiago ở Chile, nơi duy nhất trên thế giới mà Amalfitano có thể thấy mình lâm vào trạng thái rối loạn tâm lý toàn diện, có khả năng bước vào một hiệu sách, chọn lấy một cuốn mà thậm chí chẳng nhìn bìa, trả tiền rồi đi ra. Hiển nhiên đây là Santiago de Compostela, ở Galicia, Tây Ban Nha. Trong một thoáng Amalfitano hình dung ra một chuyến hành hương dọc theo Con đường Santiago. Ông đi đến cuối sân, nơi hàng rào gỗ nhà ông tiếp giáp với bức tường xi măng vây quanh căn nhà hàng xóm. Ông chưa khi nào thực sự nhìn căn nhà ấy. Những mảnh chai, ông nghĩ, nỗi sợ của chủ nhà đối với những vị khách không mời mà đến. Ánh mặt trời buổi chiều phản chiếu lên các mảnh chai sắc cạnh khi Amalfitano tiếp tục đi bộ quanh mảnh vườn tiêu điều của ông. Tường ngôi nhà kế đó cũng tua tủa mảnh chai, ở đây hầu hết là mảnh vỡ chai bia, rượu màu xanh lục, màu nâu. Chưa bao giờ, kể cả trong mơ, ông từng đến Santiago de Compostela, Amalfitano phải thừa nhận như vậy khi ông đứng lại dưới bóng râm của bức tường bên trái. Nhưng thật ra điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì mấy hoặc chẳng có ý nghĩa gì, một số hiệu sách mà ông hay đến ở Barcelona thường hay có sách mua trực tiếp từ các hiệu sách khác của Tây Ban Nha, các hiệu sách đang bán thanh lý hàng tồn hoặc đang đóng cửa, hoặc, trong vài trường hợp, vừa làm hiệu sách vừa làm nhà phát hành. Có lẽ cuốn sách này đến tay mình ở hiệu Laie, ông nghĩ, hoặc ở hiệu La Central, cái lần mình ghé vào mua một cuốn sách triết và cô bán sách hoặc anh bán sách đang rối loạn đầu óc bởi lúc ấy ở hiệu sách đang có mặt cả Pere Gimferrer, Rodrigo Rey Rosa và Juan Villoro, ba ông đang bàn về chuyện có nên đi máy bay không, về những tai nạn hàng không, về chuyện lúc nào thì nguy hiểm hơn, khi cất cánh hay khi hạ cánh, thế nên cô ta hoặc anh ta bỏ lầm cuốn này vào túi sách đưa cho mình. La Central, chắc vậy. Nhưng nếu thế thì đáng lẽ mình đã phải phát hiện ra khi về nhà mở túi sách hay gói sách ấy ra, trừ phi, dĩ nhiên, là nếu trên đường mình về nhà đã có một chuyện gì đó rất kinh khủng hoặc rất khó chịu xảy ra với mình đến nỗi nó giết chết luôn bất cứ sự mong muốn hay tò mò nào của mình về cuốn sách, hay mấy cuốn sách, mới mua. Thậm chí cũng có thể là mình đã mở gói sách như một zombie, và để cuốn sách mới lên cái tủ đầu giường còn cuốn của Dieste lên kệ sách, vẫn còn đang bận tâm với những gì vừa thấy ngoài phố, có thể là một tai nạn giao thông, có thể là một vụ cướp có vũ khí, có thể là một vụ tự sát dưới ga tàu điện ngầm, nhưng nếu mình đã có thấy một cái gì như vậy, Amalfitano nghĩ, thì nhất định là bây giờ mình phải còn nhớ hay ít nhất thì cũng còn giữ lại một ký ức lờ mờ. Mình có khi không nhớ về Kinh thánh hình học, nhưng ắt mình phải nhớ cái sự cố đã khiến mình quên khuấy mất Kinh thánh hình học. Và cứ như thể chừng đó còn chưa đủ, vấn đề chính thật ra không phải cuốn sách từ đâu đến mà là làm cách nào nó lại có mặt ở Santa Teresa này trong mấy thùng sách mà Amalfitano, trước khi lên đường, đã chọn ra lúc còn ở Barcelona. Vào thời điểm hoàn toàn đãng trí nào ông đã cho cuốn sách vào thùng? Làm thế nào ông đã đóng gói một cuốn sách mà thậm chí không biết mình đang làm gì? Có phải ông đã nghĩ khi đến miền Bắc Mexico mình sẽ đọc nó? Có phải ông định dùng nó để khởi đầu một cuộc nghiên cứu được chăng hay chớ về môn hình học? Và nếu đó là dự định của ông thì tại sao ông đã quên mất nó ngay khi đến cái thành phố giữa chốn hoang vu này? Có phải cuốn sách đã biến mất khỏi trí nhớ ông trong khi con gái ông và ông bay từ phía Đông sang phía Tây? Hay nó đã biến mất khỏi trí nhớ ông trong khi ông ở Santa Teresa chờ mấy thùng sách tới? Có phải cuốn sách của Dieste đã bốc hơi như một hiệu ứng phụ của triệu chứng rối loạn múi giờ?
♣ ♣ ♣