PHẦN HAI (B) PHẦN VỀ AMALFITANO
Amalfitano có một vài ý tưởng khá là kỳ dị về triệu chứng rối loạn múi giờ. Chúng không mấy lớp lang, hệ thống, thành thử gọi đấy là ý tưởng thì khí hơi phóng đại. Đấy là những cảm tưởng. Những ý tưởng bịa ra làm vui. Như thể ông nhìn ra cửa sổ và buộc mình thấy cảnh quan của một hành tinh khác. Ông tin (hoặc thích nghĩ là mình tin) rằng khi một người nào đấy sống ở Barcelona thì những người đang sống và có mặt ở Buenos Aires hay ở Mexico City là không hiện hữu. Sự khác biệt về múi giờ chỉ là một cái mặt nạ che đi sự không hiện hữu này. Thành thử nếu ta bất chợt du hành đến những thành phố, mà theo thuyết này, là không hiện hữu hoặc chưa có đủ thời gian để nên hình nên dạng đâu ra đó thì sẽ sinh ra hiện tượng người ta gọi là rối loạn múi giờ. Tình trạng ấy không phải là vì ta mệt mà là vì sự mệt mỏi của những người ắt hẳn vẫn còn đang ngủ tại thời điểm hiện tại nếu không phải ta đang du hành. Điều này hình như ông đọc được trong truyện ngắn hay tiểu thuyết khoa học giả tưởng gì đấy và rồi không nhớ là mình đã đọc.
♣ ♣ ♣Dù sao thì những ý tưởng hay cảm tưởng hay những sự điên điên khùng khùng đó cũng có mặt tốt của nó. Chúng biến nỗi đau của người khác thành ký ức của riêng mình. Chúng biến nỗi đau, vốn là cái trường cửu, tự nhiên và luôn luôn chiến thắng, thành ký ức cá nhân, vốn mang tính người, ngắn ngủi và luôn luôn khó nắm bắt. Chúng biến một câu chuyện tàn bạo về bất công và lộng hành, một tiếng hú rời rạc không đầu không cuối, thành một câu chuyện có cấu trúc chỉn chu trong đó tự sát luôn được đem ra như một khả năng. Chúng biến chạy trốn thành tự do, thậm chí dù cái tự do đó chỉ có nghĩa là chạy trốn không ngừng nghỉ. Chúng biến hỗn độn thành trật tự, cho dù phải trả giá bằng cái thứ thường được coi là sự lành mạnh tinh thần.
♣ ♣ ♣Và mặc dù về sau Amalfitano tìm được thêm thông tin về cuộc đời và trước tác của Rafael Dieste ở thư viện Đại học Santa Teresa - thông tin này xác nhận điều ông đã phỏng đoán hoặc điều mà don Domingo García-Sabell đã gợi ý trong lời nói đầu có nhan đề “Trực cảm được khai minh” trong đó García-Sabell đi xa đến mức trích dẫn Heidegger (Es gibt Zeit: có thời gian), nhưng vào cái buổi chiều muộn ông lang thang trên mảnh đất khiêm nhường xơ xác của mình như một lãnh chúa thời Trung cổ, trong khi con gái ông, như một công nương thời Trung cổ, vừa trang điểm xong trước gương trong phòng tắm, ông không thể nào nhớ nổi tại sao hay ở đâu ông đã mua cuốn sách này hay làm thế nào mà rốt cuộc nó được đóng thùng rồi gửi cùng với những quyển sách khác thân thuộc hơn và yêu quý hơn đến cái thành phố đông đúc ngạo nghễ đối đầu với sa mạc nơi ranh giới giữa Sonora và Arizona này. Và khi đó, đúng khi đó, giống như phát súng lục làm khởi phát một chuỗi sự kiện chồng chéo lên nhau với những hậu quả có khi vui vẻ có khi thảm khốc, Rosa ra khỏi nhà nói là cô đi xem xi nê với bạn gái và hỏi ông có chìa khóa chưa và Amalfitano nói ông có rồi rồi ông nghe tiếng cửa đóng sập lại và sau đó là tiếng chân con gái ông bước dọc theo lối đi lát đá gồ ghề đến cánh cổng nhỏ xíu bằng gỗ chỉ cao ngang thắt lưng cô rồi sau đó là tiếng chân con gái ông trên vỉa hè, đi về phía trạm xe buýt rồi sau đó tiếng một chiếc ô tô nổ máy. Rồi Amalfitano đi về phía mặt tiền khu vườn xơ xác của ông và rướn cổ nhìn lui nhìn tới con phố nhưng chẳng thấy xe nào cũng chẳng thấy Rosa đâu thế là ông liền nắm chặt cuốn sách của Dieste vẫn đang cầm nơi tay trái. Rồi ông nhìn lên trời và thấy một vầng trăng quá lớn quá nhăn nheo, mặc dù trời vẫn chưa tối. Rồi ông quay về chỗ sân sau khô cằn xơ xác và trong mấy giây ông dừng lại đứng im, nhìn phải nhìn trái, nhìn trước nhìn sau, cố thấy bóng của mình, nhưng mặc dù vẫn đang ban ngày và ở phía Tây, về hướng Tijuana, mặt trời vẫn đang chiếu sáng nhưng ông không thấy bóng mình đâu. Thế rồi mắt ông dán vào bốn hàng dây phơi, một đầu của chúng được buộc vào một thứ kiểu như khung thành bóng đá tí hon, hai cây trụ gỗ có lẽ cao không quá một mét tám cắm xuống đất và một trụ thứ ba nằm ngang hai đầu được vít vào đỉnh hai trụ kia, bốn sợi dây phơi được căng từ cái trụ trên cùng này đến những cái móc gắn vào bên hông nhà. Đó là dây phơi quần áo, nhưng ở đấy ông chỉ thấy một cái áo cánh của Rosa, màu trắng có thêu chỉ màu hoàng thổ ở quanh cổ, và một cái quần lót cùng hai cái khăn tắm vẫn đang nhỏ nước. Ở một góc, trong một lán gạch, là cái máy giặt. Trong một thoáng ông đứng lặng, há to miệng mà thở, tựa vào cái trụ ngang căng mấy dây phơi. Sau đó ông vào trong cái lán gạch như thể ông đang thiếu ô xy và từ trong một cái túi ni lông mang logo của siêu thị nơi ông thường cùng con gái đến mua sắm hằng tuần ông lấy ra ba cái kẹp quần áo, mấy cái này ông cứ khăng khăng gọi là “perrito”, từ người ta hay dùng ở Chile, đoạn ông dùng mấy cái kẹp quần áo ấy mà treo cuốn sách lên một trong các dây phơi rồi sau đó ông vào lại trong nhà, cảm thấy bình tâm hơn nhiều.
♣ ♣ ♣Ý tưởng này, dĩ nhiên, là của Duchamp.
♣ ♣ ♣Tất cả những gì hiện hữu hoặc còn lại từ quãng thời gian Duchamp ở Buenos Aires là một ready-made - món sẵn có. Mặc dù dĩ nhiên cả cuộc đời ông là một ready-made, vốn là một cách để ông trấn an số phận và đồng thời gửi tín hiệu bất ổn. Calvin Tomkins viết về chuyện đó như sau: Nhân đám cưới cô em gái Suzanne của ông với bạn thân ông là Jean Crotti, diễn ra tại Paris vào ngày 14 tháng Tư năm 1919, Duchamp gửi cho cặp vợ chồng một món quà. Đó là lời chỉ dẫn rằng hãy lấy dây treo một cuốn sách hình học lên ban công căn hộ của mình sao cho gió “giở từng trang sách, tự chọn các bài toán, lật và xé rách các trang”. Có thể thấy rõ là Duchamp không chỉ chơi cờ ở Buenos Aires. Theo Tompkins: Món Ready-made Malheureux* này, như Duchamp gọi nó, chắc hẳn đối với một số cặp vợ chồng mới cưới là một món quà cưới kỳ quặc chẳng vui vẻ gì, song Suzanne và Jean làm theo chỉ dẫn của Duchamp một cách rất chi sảng khoái. Họ chụp ảnh cuốn sách mở treo lủng lẳng giữa không trung - hình ảnh duy nhất còn lại của tác phẩm này, một tác phẩm không thể trụ nổi khi cứ phải phơi ra dưới nắng mưa như thế - và về sau Suzanne vẽ một bức tranh, đặt tên là Le Ready-made malheureux de Marcel. Như Duchamp về sau giải thích với Cabanne, “Tôi thấy hài hước khi đưa ý tưởng về hạnh phúc và bất hạnh vào các ready-made, rồi sau đó là mưa, gió, những trang bay phần phật, ý tưởng ấy thật là hài hước.” Tôi rút lại lời đã nói: trên thực tế việc mà Duchamp làm ở Buenos Aires chính là chơi cờ. Yvonne, người đi cùng ông, phát chán với bao nhiêu là trò chơi-khoa học của ông nên đã bỏ về Pháp. Theo Tompkins: Sau này, Duchamp thừa nhận với một người phỏng vấn rằng ông từng thích hạ thấp “sự nghiêm túc của một cuốn sách đầy những nguyên lý” như cuốn này và bày tỏ với một nhà báo khác rằng, khi bị đem ra phơi giữa nắng mưa, “tập chuyên luận này rốt cuộc rồi cũng nắm được bốn yếu tố của cuộc sống”.
♣ ♣ ♣Đêm đó, khi Rosa đi xem phim về, Amalfitano đang ngồi trong phòng khách xem tivi, ông liền bảo cô là ông đã treo cuốn sách của Dieste lên dây phơi quần áo. Rosa nhìn ông như thể chẳng hiểu mô tê gì. Bố muốn nói là, Amalfitano nói, bố treo nó lên không phải vì nó bị xịt nước vào mà cũng chẳng phải vì bố trót đánh rơi nó xuống nước, bố treo lên chỉ vì bố muốn xem nó sẽ chịu được ra sao khi ở ngoài trời, nó sẽ chống chọi thế nào với khí hậu sa mạc này. Con mong là không phải bố đang hóa điên, Rosa nói. Không, con đừng lo, Amalfitano nói, mà thật ra nom ông khá là vui vẻ. Bố bảo con biết để con không tháo nó xuống. Cứ coi như cuốn sách không hề có đó. Được, Rosa nói, rồi cô giam mình vào phòng.
♣ ♣ ♣Hôm sau, trong khi sinh viên của ông đang viết, hoặc trong khi chính ông đang nói, Amalfitano bắt đầu vẽ những hình kỷ hà rất đơn giản, một hình tam giác, một hình chữ nhật, và ở mỗi đỉnh ông lại viết một cái tên bất kỳ chợt đến với ông, được đọc cho ông viết bởi số phận hoặc sự uể oải lười nhác hoặc sự chán chường mênh mông tỏa ra từ đám sinh viên từ các giảng đường và từ cái nóng nghẹt thở vào những ngày này trong thành phố. Như thế này:
Hình 1
Hoặc thế này:
Hình 2
Hoặc thế này:
Hình 3
Khi trở lại góc làm việc của mình ông phát hiện ra cái tờ giấy này và trước khi vứt nó vào sọt rác ông xem kỹ nó trong dăm phút. Lời giải thích duy nhất cho Hình 1 là sự chán chường. Hình 2 dường như là sự mở rộng của Hình 1 song những cái tên do chính ông thêm vào kia thì ông thấy thật điên khùng. Xenocrates ở đó thì được, theo một thứ logic kỳ cục nào đó, Protagoras cũng vậy, nhưng sao lại Thomas More và Saint-Simon? Sao lại Diderot, ông ta làm cái quái gì ở đấy, rồi thì, lạy Chúa trên cao, sao lại có ông cha cố Dòng Tên người Bồ Đào Nha Pedro da Fonseca, một trong cả ngàn nhà bình giải về Aristotle, kẻ dù có được bà mụ nặn kiểu gì đi nữa vẫn chẳng là gì ngoài một nhà tư tưởng tép riu? Hình 3, ngược lại, có một logic nào đấy, logic của một gã thiếu niên khờ khạo, một gã thiếu niên lang thang trong sa mạc, quần áo rách te tua, nhưng vẫn có quần áo. Tất cả những cái tên, có thể nói, đều là của các triết gia bận tâm đến vấn đề bản thể. Điểm B nằm trên đỉnh hình tam giác lồng vào với hình chữ nhật có thể là Chúa hoặc hiện thể của Chúa xuất sinh từ yếu tính của Ngài. Chỉ khi đó Amalfitano mới nhận ra là Hình 2 cũng có A và B thế là ông hiểu ngay rằng, không nghi ngờ gì nữa, cái nóng này, cái nóng mà ông còn chưa quen được, đã tác động đến đầu óc ông trong khi ông đang đứng lớp.
♣ ♣ ♣Tuy nhiên, đêm đó, sau khi ăn tối, xem tivi và nói chuyện điện thoại với giáo sư Silvia Pérez, người đang nổi trận lôi đình trước cái cung cách mà cảnh sát Sonora và cảnh sát sở tại Santa Teresa đang tiến hành điều tra các tội ác, Amalfitano thấy trên bàn làm việc của mình thêm ba hình vẽ nữa. Không nghi ngờ gì, tác giả đều là ông. Thực vậy, ông nhớ là mình đã lơ đãng vẽ linh tinh lên một tờ giấy trắng trong khi nghĩ về những chuyện khác. Hình 1 (hay Hình 4) như sau:
Hình 4
Hình 5
Và Hình 6
Hình 4 khá kỳ quặc. Trendelenburg, đã nhiều năm nay ông không nghĩ đến ông ta. Adolf Trendelenburg. Tại sao lại là chính lúc này và tại sao lại cùng với Bergson với Heidegger với Nietzsche và với Spengler? Hình 5 còn kỳ quặc hơn. Sự xuất hiện của Kolakowski và Vattimo. Sự có mặt của Whitehead vốn đã bị lãng quên. Nhưng trên hết là sự hiện diện bất ngờ của Guyau tội nghiệp, Jean-Marie Guyau, chết khi mới ba mươi tư tuổi vào năm 1888, người mà một số kẻ thích đùa gọi là Nietzsche của Pháp, với số môn đồ trên toàn thế giới không quá mươi người, mà trên thực tế là chỉ có sáu mống, điều đó Amalfitano biết là vì ở Barcelona ông có quen biết người Tây Ban Nha duy nhất theo chủ nghĩa Guyau, một giáo sư ở Gerona, rụt rè nhút nhát và đầy nhiệt huyết theo cách của mình, cuộc truy tầm lớn của ông ta là cố tìm cho ra một văn bản (mà chính ông cũng không rõ lắm là một bài thơ hay một tiểu luận triết học hay một bài báo) mà Guyau viết bằng tiếng Anh và cho in vào năm 1886 hay 1887 trên một tờ báo tại San Francisco, California. Cuối cùng, Hình 6 kỳ quặc hơn cả (và ít “triết học” hơn cả). Ở một đầu đoạn thẳng xuất hiện Vladimir Smirnov, người đã biến mất ở trại tập trung của Stalin vào năm 1938 (đừng nhầm với Ivan Nikitich Smirnov, bị những người theo Stalin bắn chết vào năm 1936 sau phiên tòa đầu tiên ở Moskva), trong khi ở đầu kia đoạn thẳng, không gì có thể hùng hồn hơn, xuất hiện cái tên Suslov, lý thuyết gia của chế độ, người sẵn sàng dung nhượng mọi bạo hành và tội ác. Nhưng đoạn thẳng này bị hai đoạn chéo cắt qua, trên các đoạn chéo ta đọc thấy tên Bunge và Revel ở trên, Harold Bloom và Allan Bloom ở dưới, chuyện này nom rất giống một trò đùa. Một trò đùa mà Amalfitano có phần không hiểu, trên hết là sự xuất hiện của hai ông Bloom, ở đấy nhất định là có cái gì đấy buồn cười, tuy nhiên là một sự buồn cười mà Amalfitano dù có cố đến đâu cũng không nắm bắt được.
♣ ♣ ♣Đêm đó, trong khi con gái ông ngủ, và sau khi ông nghe xong bản tin cuối cùng của kênh phát thanh được ưa thích nhất của Santa Teresa, “Tiếng nói vùng biên”, Amalfitano đi ra vườn và, sau khi vừa hút thuốc vừa ngắm con phố vắng tanh vắng ngắt, ông đi về phía vườn sau, với những bước ngập ngừng, như thể ông sợ giẫm vào hố hay là sợ bóng tối đang ngự trị. Cuốn sách của Dieste vẫn đang treo đó cạnh chỗ quần áo Rosa giặt ngày hôm ấy, những thứ quần áo trông như làm bằng xi măng hay chất liệu nào đó rất nặng bởi chúng không hề lay động trong khi gió thổi từng đợt làm cho cuốn sách đung đưa từ phía này sang phía khác, như thể đang ru nó một cách hằn học hoặc đang cố giằng nó khỏi mấy cái kẹp đang giữ nó vào dây. Amalfitano cảm thấy làn gió trên mặt mình. Ông đang vã mồ hôi và những đợt gió kia làm khô những giọt mồ hôi và che mờ linh hồn ông. Như thể mình đang trong phòng làm việc của Trendelenburg, ông nghĩ, như thể mình đang theo những bước chân của Whitehead men theo mép một kênh đào, như thể mình đang đến gần giường bệnh của Guyau đặng xin ông ấy lời khuyên. Câu trả lời của ông ấy có thể là gì? Hãy hạnh phúc. Sống trong hiện tại. Hãy tử tế. Hay đúng hơn: Ông là ai? Ông làm gì ở đây? Đi đi.
♣ ♣ ♣Cứu với.
♣ ♣ ♣Ngày hôm sau, lục lạo trong thư viện trường đại học, ông tìm được thêm thông tin về Dieste. Sinh ở Rianxo, La Coruña, năm 1899. Lúc đầu viết bằng tiếng Galicia, mặc dù về sau chuyển sang viết bằng tiếng Castilla hoặc cả hai. Thuộc giới sân khấu. Trong thời kỳ Nội chiến, ông tham gia chống phát xít. Sau khi phe của mình thất bại thì ông lưu vong ra nước ngoài, cụ thể là Buenos Aires, ở đó ông cho in Viaje, duelo y perdición: tragedia, humorada y comedia vào năm 1945, bao gồm ba cuốn sách khác đã xuất bản trước đó. Nhà thơ. Nhà tiểu luận. Vào năm 1958, khi Amalfitano lên bảy tuổi, Dieste cho in cuốn Nuevo tratado del paralelismo đã nhắc ở trên. Về truyện ngắn, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Historia e invenciones de Félix Muriel (1943). Sau đó trở về Tây Ban Nha, trở về Galicia. Mất ở Santiago de Compostela năm 1981.
♣ ♣ ♣Thử nghiệm này là gì vậy? Rosa hỏi. Thử nghiệm gì? Amalfitano hỏi. Với cuốn sách treo trên dây phơi, Rosa nói. Đó không phải là thử nghiệm theo nghĩa đen, Amalfitano nói. Vậy sao nó ở đấy? Rosa nói. Bố tự nhiên nảy ra thôi, Amalfitano nói, ý này là của Duchamp, treo một cuốn sách hình học phơi cho gió táp mưa sa để xem liệu nó có học được gì về cuộc sống thật không. Bố làm hỏng nó mất, Rosa nói. Không phải bố mà là thiên nhiên, Amalfitano nói. Bố cứ mỗi ngày một điên hơn, Rosa nói. Amalfitano mỉm cười. Con chưa bao giờ thấy bố làm một chuyện như vậy với một cuốn sách, Rosa nói. Đó không phải sách của bố, Amalfitano nói. Thì cũng vậy thôi, Rosa nói, giờ nó là của bố. Cũng kỳ, Amalfitano nói, lẽ ra bố phải thấy vậy mới phải nhưng thật ra bố không cảm thấy nó là của mình, nhưng đằng nào thì bố cũng có cảm tưởng, không, bố tin chắc mình sẽ không làm hại gì nó cả. Thôi thì bố cứ vờ như nó là của con mà đem nó xuống đi, Rosa nói, hàng xóm họ sẽ nghĩ là bố điên đấy. Hàng xóm, mấy kẻ gắn mảnh chai lên đầu tường nhà họ ấy à? Thậm chí họ còn không biết bố con mình có tồn tại nữa là, Amalfitano nói, và họ còn điên hơn bố hàng vạn lần ấy chứ. Không, mấy người ấy thì không, Rosa nói, những người khác cơ, ý con là những người có thể thấy rành rành những gì đang diễn ra trong vườn nhà ta ấy. Có ai làm phiền con à? Amalfitano nói. Không, Rosa nói. Thế thì chả làm sao cả, Amalfitano nói, con đừng lo những chuyện không đâu, ở cái thành phố này đang diễn ra những chuyện còn kinh khủng hơn nhiều cái việc treo một cuốn sách lên dây phơi. Hai cái sai gộp lại đâu có thành ra đúng, Rosa nói, chúng ta đâu phải loài dã thú. Kệ cuốn sách đi, làm bộ như nó không có đó, quên nó đi, Amalfitano nói, con có bao giờ quan tâm đến hình học đâu mà.
♣ ♣ ♣Sáng sáng, trước khi rời nhà đến trường, Amalfitano thường ra chỗ cửa sau vừa uống nốt cà phê vừa nhìn cuốn sách. Chẳng nghi ngờ gì nữa: sách in trên giấy tốt và bìa sách, gáy sách ngoan cường cưỡng lại được những tấn công của thiên nhiên. Các bạn cũ của Rafael Dieste đã chọn chất liệu tốt cho món quà tặng của mình, món quà mà thực chất là lời từ biệt sớm, lời từ biệt của một nhóm những người già có học (hoặc những người già mang lớp nước bóng của người có học) trao cho một người già có học khác. Dù thế nào thì, thiên nhiên ở miền Tây Bắc Mexico, nhất là ở khoảnh sân hoang tàn nhà ông, không dồi dào, Amalfitano nghĩ. Một sáng nọ, trong khi chờ xe buýt đến trường đại học, ông lập ra những kế hoạch chắc nịch là sẽ trồng cây hay trồng cỏ, và mua một cái cây nhỏ trong cửa hàng nào đấy bán những thứ như thế, rồi thì trồng hoa dọc hàng rào. Một sáng khác ông nghĩ rằng dù ông có làm gì để cho khu vườn nom đẹp hơn thì rốt cuộc cũng đều vô ích cả, vì ông không có ý định sống lâu dài ở Santa Teresa. Giờ mình phải quay về thôi, ông tự nhủ, nhưng về đâu? Rồi ông lại tự nhủ: cái gì thôi thúc mình đến đây? Tại sao mình đem con gái mình đến cái thành phố bị nguyền rủa này? Bởi nó là một trong những chốn khỉ ho cò gáy khốn khổ khốn nạn hiếm hơi của cái thế giới này mà mình hãy còn chưa biết tới? Bởi tận trong thâm tâm, mình muốn chết? Rồi sau đó ông nhìn cuốn sách của Dieste, cuốn Kinh thánh hình học treo hờ hững trên dây phơi quần áo, kẹp bằng hai cái kẹp, và ông chợt thấy muốn tháo nó xuống phủi cho sạch lớp bụi hoàng thổ bắt đầu bám lên cuốn sách ở chỗ này chỗ nọ, nhưng ông không dám.
♣ ♣ ♣Thỉnh thoảng, khi vừa từ Đại học Santa Teresa về nhà hoặc trong khi ngồi trên hiên nhà hoặc lúc đọc bài làm của sinh viên, Amalfitano lại nhớ đến ông bố mình vốn là người thích quyền Anh. Bố Amalfitano thường nói tất thảy người Chile là quân khốn nạn. Amalfitano, hồi đó lên mười, liền nói: bố ơi, người Ý mới là quân khốn nạn chứ, thử nhìn hồi Thế chiến thứ hai mà xem. Bố Amalfitano liền nhìn ông với vẻ rất nghiêm trang. Bố của ông cụ, tức ông nội Amalfitano, sinh ở Napoli. Và bản thân ông luôn luôn cảm thấy mình là người Ý thì đúng hơn người Chile. Dù thế nào ông vẫn thích nói về quyền Anh, hay nói đúng hơn ông thích nói về những trận đấu mà ông chỉ đọc được lời bình luận trên mấy tạp chí chuyên về quyền Anh hay trên các trang thể thao. Ông nói về anh em Loayza, Mario và Rubén, cháu của El Tani, và về Godfrey Stevens, một thằng chó chết đường bệ đánh đấm chẳng ra gì, và về Humberto Loayza, cũng là cháu của El Tani, có quả đấm mạnh nhưng không lì, về Arturo Godoy, láu cá và cảm tử, về Luis Vicentini, một người Ý sinh ra ở Chillán đô con vạm vỡ nhưng bị đánh bại bởi cái số phận đau buồn là sinh ra ở Chile, và về Estanislao Loayza, tức El Tani, kẻ bị cướp mất danh hiệu quốc tế ở Hoa Kỳ một cách cực buồn cười, khi mà trọng tài, ngay hiệp nhất, giẫm lên chân anh ta khiến anh ta bị gãy xương mắt cá. Con có tưởng tượng được không? bố Amalfitano nói. Con không tưởng tượng được, Amalfitano nói. Cứ thử xem, vờn quanh bố mà đấm gió rồi bố giẫm lên chân con, bố của Amalfitano nói. Dạ thôi ạ, Amalfitano nói. Làm đi, tự tin lên, chả sao đâu mà sợ, bố Amalfitano nói. Để lúc khác đi, Amalfitano nói. Phải thử ngay bây giờ, bố ông nói. Thế là Amalfitano làm như mình đang đấu tập, di chuyển bằng sự nhanh nhẹn bất ngờ xung quanh ông bố, tung ra vài quả thụi bằng tay trái và vài quả móc bằng tay phải, thế rồi bất ngờ bố ông tiến lên một chút và giẫm lên chân ông và thế là xong, Amalfitano đứng im hoặc tìm cách ôm lấy đối thủ hoặc lùi lại, nhưng dù thế nào thì mắt cá chân cậu cũng vẫn nguyên vẹn. Bố cho trọng tài làm thế là cố ý, bố Amalfitano nói. Đâu thể cho tiêu tùng cái mắt cá của ai bằng cách giẫm lên chân hắn được. Sau đó là cả một tràng rủa xả: tụi võ sĩ quyền Anh Chile là quân khốn nạn cả lũ, dân cái xứ cứt chó này là quân khốn nạn cả lũ, cả lũ không chừa đứa nào, rặt đều khoái bị thiên hạ lừa, khoái bị thiên hạ mua, sẵn sàng tụt phắt quần ra khi người ta chỉ yêu cầu tụi nó tháo cái đồng hồ. Đến lúc đó thì Amalfitano, ở tuổi lên mười vốn chỉ đọc tạp chí lịch sử, nhất là tạp chí lịch sử quân sự chứ không phải tạp chí thể thao, liền đáp rằng cái vai trò ấy người Ý đã giành cho mình từ lâu rồi, từ thời Thế chiến thứ hai cơ. Chừng đó bố ông lặng thinh, nhìn thằng con với vẻ chân thành ngưỡng mộ tự hào, như đang tự hỏi cái thằng bé này từ chỗ quái quỷ nào chui ra vậy, thế rồi ông im lặng thêm hồi lâu nữa và sau đó nói bằng giọng trầm trầm, như đang tiết lộ một bí mật, rằng xét từng cá nhân thì người Ý can trường lắm. Nhưng khi tụ tập thành đám đông thì người Ý rặt một lũ hề. Và ông giải thích rằng chính điều này mới cho con người ta hy vọng.
♣ ♣ ♣Qua đấy ta có thể suy ra, Amalfitano nghĩ trong khi đi ra khỏi cửa trước và dừng lại trên sân hiên tay cầm cốc whiskey rồi sau đó nhìn ra ngoài phố nơi có vài chiếc xe đang đỗ, những chiếc xe đã bị bỏ đó nhiều tiếng đồng hồ và toát ra - hoặc ông thấy dường như chúng toát ra - mùi của sắt vụn và máu, trước khi xoay người lại đi vòng qua hông nhà về phía sân sau nơi cuốn Kinh thánh hình học đang chờ ông giữa tĩnh mịch và bóng tối, qua đấy ta có thể suy ra ông, trong thâm tâm, tận trong thâm tâm, vẫn là một người mang hy vọng, bởi vì dòng máu của ông là dòng máu Ý, và hơn nữa ông là một người theo chủ nghĩa cá nhân và là người có học. Và thậm chí rất có thể ông không phải kẻ hèn. Mặc dù ông không thích quyền Anh. Nhưng rồi cuốn sách của Dieste bay lật phật trong không khí và làn gió nhẹ xòe chiếc khăn mùi soa đen ra lau khô mồ hôi rịn trên trán Amalfitano và ông nhắm mắt, cố nhớ lại hình ảnh nào đó về bố mình nhưng không được. Khi quay vào nhà, không phải theo cửa sau mà bằng cửa trước, ông thò đầu dòm qua hàng rào nhìn con phố, về cả hai phía. Có vài đêm ông có cảm giác mình đang bị theo dõi.
♣ ♣ ♣Sáng sáng, lúc Amalfitano vào bếp đặt cốc cà phê vào bồn rửa bát sau khi ra thăm cuốn sách của Dieste, cuộc viếng thăm không thể thiếu mỗi ngày, Rosa là người đầu tiên ra khỏi nhà. Thường thì họ không nói chuyện, mặc dù thỉnh thoảng, nếu Amalfitano vào nhà sớm hơn một chút hoặc ra vườn sau muộn hơn mọi hôm, thì ông sẽ nói chào con, nhắc cô phải bảo trọng hoặc hôn cô một cái. Một sáng nọ ông chỉ có thể nói chào con rồi sau đó ngồi ở bàn nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm dây phơi đồ. Cuốn Kinh thánh hình học đang chuyển động rất nhẹ cơ hồ không thể nhìn thấy được. Đột nhiên nó ngừng. Mấy con chim nãy giờ hót trong vườn hàng xóm cũng bặt tiếng. Trong một thoáng tất cả đều ắng lặng như tờ. Amalfitano nghe như có tiếng cổng ngoài mở rồi đóng và tiếng chân con gái ông đi xa dần. Sau đó ông nghe tiếng một chiếc xe hơi chuyển bánh. Đêm đó, trong khi Rosa đang xem một bộ phim mới thuê, Amalfitano gọi điện đến nữ giáo sư Silvia Pérez mà thừa nhận với bà rằng thần kinh ông càng ngày càng thảm hại. Giáo sư Pérez trấn an ông, bảo rằng chẳng có gì ông phải lo thái quá, chỉ cần cẩn thận chút là được, không cần phải đâm ra bấn loạn làm gì, bà nhắc ông rằng thường thì các nữ nạn nhân bị bắt cóc ở những khu vực khác trong thành phố. Amalfitano nghe bà nói rồi tự dưng phá lên cười. Ông nói với bà rằng thần kinh ông giờ tán loạn rồi. Giáo sư Pérez không hiểu được câu đùa ấy của ông. Ở cái chốn này chẳng ai nắm bắt được một cái gì, Amalfitano phẫn uất nghĩ. Sau đó giáo sư Pérez toan thuyết phục ông cuối tuần này đi đâu đó, cùng với cả Rosa và con trai bà. Đi đâu, Amalfitano hỏi gần như không nghe được. Có thể là đi ăn ở một nhà hàng vùng ven cách thành phố chừng mười dặm, bà nói, chỗ ấy thích lắm, có bể bơi cho bọn thanh niên và sân hiên mênh mông có bóng râm ở đó mình có thể ngồi ngắm những triền dốc của một ngọn núi thạch anh, ngọn núi màu bạc có những đường vân xanh đen. Trên đỉnh núi có một nhà thờ nhỏ xây bằng gạch sống đen. Bên trong nhà thờ tối om, ánh nắng chỉ lọt vào qua một thứ cửa sổ mái, và các bức tường phủ kín những lời thệ nguyện do những người lữ hành và người da đỏ viết từ hồi thế kỷ mười chín, họ là những người đã liều mạng băng qua ngọn đèo nối giữa Chihuahua và Sonora.
♣ ♣ ♣