PHẦN HAI (C) PHẦN VỀ AMALFITANO
Mấy ngày đầu của Amalfitano ở Santa Teresa và Đại học Santa Teresa đến là khốn khổ, tuy điều đó Amalfitano chỉ nhận biết một phần. Ông thấy khó ở, nhưng ông nghĩ chẳng qua là do lệch múi giờ nên cũng không để ý. Một đồng nghiệp cùng khoa, một giáo sư trẻ từ Hermosillo tới và chỉ vừa mới tốt nghiệp, hỏi ông tại sao ông chọn Đại học Santa Teresa chứ không chọn Đại học Barcelona. Tôi hy vọng không phải chỉ là do khí hậu, vị giáo sư trẻ nói. Khí hậu ở đây tôi thấy thật tuyệt, Amalfitano đáp. Ồ không, tôi thì cũng nghĩ như thế, giáo sư trẻ nói, ý tôi chỉ là những người đến đây do khí hậu thường là người ốm và tôi chân thành hy vọng rằng ông không bị thế. Không, Amalfitano nói, không phải do khí hậu, ở Barcelona tôi vừa chấm dứt hợp đồng và giáo sư Pérez thuyết phục tôi đến nhận việc ở đây. Ông làm quen với giáo sư Silvia Pérez ở Buenos Aires và sau đó có gặp lại bà ấy ở Barcelona đôi lần. Chính bà đã thuê nhà và mua đồ đạc bàn ghế hộ ông. Tiền mua chỗ bàn ghế ấy Amalfitano đã trả lại bà trước cả khi nhận tháng lương đầu tiên để tránh mọi hiểu lầm. Căn nhà nằm trên phố Lindavista, một khu của tầng lớp trung thượng lưu, với những ngôi nhà một hoặc hai tầng xung quanh có vườn. Vỉa hè nứt nẻ vì rễ của hai cội cây đồ sộ, rợp bóng mát, rất thích, mặc dù sau một số hàng giậu có thể thấy những căn nhà đang xuống cấp nặng nề, tựa hồ các nhà hàng xóm đã phải rời đi trong vội vã, thậm chí cũng không có thì giờ bán cơ ngơi của mình, từ đó có thể suy ra, không phải như giáo sư Pérez nói, thuê một căn nhà ở khu này chẳng khó gì. Amalfitano thấy không ưa trưởng khoa Triết và Văn chương, người mà Pérez đã dẫn ông đến giới thiệu vào ngày thứ hai sau khi ông đến Santa Teresa. Ông ta tên là Augusto Guerra và có làn da bềnh bệch bóng lưỡng của một gã béo, dù trên thực tế ông ta gầy gò gân guốc. Ông ta có vẻ không tự tin lắm, nhưng ông ta cố che giấu điều đó bằng một vẻ ngoài pha trộn giữa nét tao nhã dễ gần và phong thái nhà binh. Ông ta chẳng mấy hứng thú với triết học và do đó chẳng mấy hứng thú với nghề dạy triết, một nghề rõ ràng là đang suy tàn trước những kỳ tích mà khoa học đang và sẽ cung hiến cho ta, ông ta nói. Chừng đó Amalfitano liền lịch thiệp hỏi ông có nghĩ giống như vậy về văn chương không. Không, muốn tin hay không thì văn chương vẫn có tương lai, văn chương và lịch sử là có tương lai, Augusto Guerra nói, cứ lấy tiểu sử mà xem, ngày trước gần như chẳng có cung có cầu gì cả nhưng ngày nay cả thế giới chẳng làm gì khác ngoài đọc tiểu sử. Dĩ nhiên là tôi đang nói về sách tiểu sử, chứ không phải tự truyện. Người ta thèm khát muốn biết cuộc đời người khác, cuộc đời của những người cùng thời nổi danh, những người đã thành đạt và có danh có tiếng hoặc những người đã gần gần được thế, và người ta cũng thèm khát muốn biết các chincuales già khú đã làm gì, biết đâu mình học hỏi được gì đấy, mặc dù bản thân họ chả sẵn sàng chịu khổ chơi mấy trò như thế đâu. Amalfitano liền lịch sự hỏi từ chincuales mà ông vừa nói có nghĩa là gì, tôi chưa bao giờ nghe từ ấy cả. Thật sao? Augusto Guerra nói. Tôi thề, Amalfitano nói. Chừng đó trưởng khoa liền quay sang hỏi giáo sư Pérez: Silvia này, cô biết từ chincuales nghĩa là gì không? Giáo sư Pérez khoác tay Amalfitano, làm như hai người là cặp tình nhân, và thú nhận thành thực là bà hoàn toàn chẳng biết tí gì về chữ ấy, mặc dù nghe cũng thấy quen quen. Toàn một lũ ngu, Amalfitano nghĩ. Từ chincuales, Augusto Guerra nói, cũng như tất cả các từ trong tiếng Mexico của chúng ta, có nhiều nghĩa. Trước hết nó có nghĩa là vết rận hay rệp cắn, những cái nốt đo đỏ trên da mình ấy, hiểu không. Mấy cái vết ấy ngứa, thế là dân tình chỉ còn cách gãi lia gãi lịa, cũng logic thôi. Từ đó mà ra nghĩa thứ hai, ý chỉ những người luôn bứt ra bứt rứt, cứ vặn vẹo gãi đầu gãi tai ngồi một chỗ không yên, khiến cho những ai buộc phải quan sát họ dù không muốn cũng thấy phát sốt phát bực theo. Cũng như là bệnh ghẻ của châu Âu ấy, bao nhiêu là người ở châu Âu mắc phải cái bệnh ấy trong toilet công cộng hay ở mấy cái nhà xí bệnh viện kinh khủng khiếp ở Pháp ở Ý ở Tây Ban Nha. Và từ nghĩa thứ hai này ra nghĩa thứ ba, nghĩa theo Guerra, nói vậy cũng được, ý chỉ những người lữ hành, những kẻ mạo hiểm về trí tuệ, những kẻ không có khả năng yên ổn về mặt tâm trí. À, Amalfitano nói. Tuyệt, giáo sư Perez nói. Ở cuộc gặp không sắp đặt trước đó tại văn phòng trưởng khoa, mà Amalfitano cảm thấy là khá ấm áp niềm nở, còn có ba giáo sư cùng khoa và thư ký của Guerra, cô này khui một chai sâm banh California rồi đưa cho mỗi người một ly giấy, và còn có cả món ăn nhẹ. Sau đó con trai của Guerra xuất hiện, một gã chừng hăm lăm tuổi, đeo kính râm đen mặc đồ thể thao, da rất rám nắng, khi ở đó gã chỉ toàn ngồi trong một góc nói chuyện với cô thư ký của bố gã, thỉnh thoảng lại liếc Amalfitano với vẻ thích thú ra mặt.
♣ ♣ ♣Đêm trước hôm đi dã ngoại, Amalfitano nghe thấy giọng nói ấy lần đầu tiên. Có khi trước đó ông cũng đã nghe rồi, nghe ngoài phố hoặc khi đang ngủ, và cứ nghĩ đó là một phần trong một cuộc trò chuyện bên hàng xóm hoặc là mình đang gặp ác mộng. Nhưng đêm đó ông lại nghe thấy giọng nói ấy và, không thể nghi ngờ gì nữa, nó đang nói với ông. Ban đầu ông nghĩ chắc mình điên rồi. Giọng ấy nói: chào, Óscar Amalfitano, đừng sợ, chẳng có chuyện gì đâu. Amalfitano sợ, liền trở dậy hộc tốc chạy sang phòng con gái. Rosa đang ngủ yên. Amalfitano bật đèn rồi kiểm tra chốt cửa sổ. Rosa thức dậy hỏi có chuyện gì với ông vậy. Không phải có chuyện gì vậy mà là có chuyện gì với ông vậy. Chắc mình trông kinh lắm, Amalfitano nghĩ. Ông ngồi xuống ghế rồi bảo cô rằng ông đang bứt rứt quá trời, ông như nghe thấy có tiếng động, ông xin lỗi đã mang cô đến cái thành phố kinh tởm này. Bố đừng lo, chẳng sao đâu mà, Rosa nói. Amalfitano hôn lên má cô, vuốt tóc cô rồi ra khỏi phòng đóng cửa lại song không tắt đèn. Sau một lát, trong khi nhòm ra ngoài cửa sổ phòng khách nhìn khu vườn nhìn con phố và nhìn những cành cây đứng lặng, ông nghe tiếng Rosa tắt đèn. Ông ra khỏi nhà, cố đi khẽ khàng, bước đến sân sau. Ông những mong mình có một cái đèn, nhưng dù vậy ông vẫn đi ra ngoài. Chẳng có ai. Trên dây phơi là cuốn Kinh thánh hình học cùng tất của ông và quần của con gái ông. Ông vòng ra vườn trước, trên sân hiên chẳng có ai, ông lại gần hàng giậu nhìn kỹ con phố, không bước ra ngoài, và chỉ thấy một con chó đang bình thản đi về phía đại lộ Madero, về phía bến xe buýt. Một con chó tiến về phía bến xe buýt, Amalfitano tự nhủ. Theo cái ông thấy được thì nó không phải chó thuần chủng mà là chó lai. Một quiltro, Amalfitano nghĩ. Ông tự bật cười với mình. Những từ Chile ấy. Những mảnh vụn vương vãi trong óc ấy. Cái sân hockey trên băng to bằng cả tỉnh Atacama nơi các cầu thủ không bao giờ thấy một cầu thủ đối phương nào và thỉnh thoảng mới thấy một cầu thủ đội mình. Ông vào lại trong nhà. Ông khóa cửa lớn, chốt cửa sổ, lấy trong hộc bàn bếp ra một con dao ngắn, chắc, đặt nó xuống cạnh một cuốn sách về lịch sử triết học Đức và Pháp từ năm 1900 đến 1930, rồi lại ngồi xuống bàn. Giọng đó nói: Đừng nghĩ là với tôi chuyện đó dễ dàng. Nếu ông nghĩ là với tôi chuyện đó dễ dàng thì ông lầm trăm phần trăm. Khó lắm đấy. Khó chín mươi phần trăm. Amalfitano nhắm mắt nghĩ chắc mình đang hóa điên. Ông không có thuốc an thần trong nhà. Ông trở dậy. Ông vào bếp vã nước lên mặt. Ông lau mặt bằng khăn bếp và tay áo. Ông cố nhớ lại tên y học của hiện tượng tâm thần nghe thấy tiếng nói tưởng tượng mà lúc này ông đang gặp phải. Ông quay lại phòng làm việc và sau khi đóng cửa xong ông lại ngồi xuống ghế, cúi đầu, hai bàn tay đặt lên bàn. Giọng nói bảo: Tôi xin ông tha thứ cho tôi. Xin ông hãy cố trấn tĩnh. Xin ông đừng coi đây là một sự xâm phạm đến tự do của ông. Tự do của mình? Amalfitano ngạc nhiên nghĩ trong khi ông nhảy phắt đến chỗ cửa sổ, mở cửa ra, nhìn mảnh vườn bên hông nhà mình và bức tường tua tủa mảnh chai nhà hàng xóm, và ánh đèn đường phản chiếu lên rìa các mảnh chai vỡ, những ánh phản chiếu rất yếu ớt màu xanh lục màu nâu màu cam, như thể vào giờ này ban đêm bức tường mảnh chai thôi không còn là bức tường bảo vệ mà chuyển thành hoặc giả đò chuyển thành bức tường trang trí, một thành tố nhỏ xíu trong một vũ điệu mà ngay cả kẻ dường như là biên đạo múa, vị lãnh chúa của nhà hàng xóm, cũng chẳng có khả năng phân biệt những đặc tính cơ bản nhất, những đặc tính tác động đến sự cân bằng, màu sắc, đến bản chất tấn công hay phòng thủ nơi công sự của mình. Hay là như thể trên bức tường có một dây leo bám lấy, Amalfitano nghĩ trước khi đóng cửa sổ lại.
♣ ♣ ♣Đêm đó giọng nói không xuất hiện trở lại nữa và Amalfitano ngủ không ngon chút nào, giấc ngủ của ông đầy những cú giật và cú nẩy, cứ như có ai đang cào cào gãi gãi vào tay chân ông, người ông ướt đẫm mồ hôi, mặc dù đến năm giờ sáng thì cơn vật vã ngớt đi và ông nằm mơ thấy Lola đang chào ông từ một công viên đằng sau một hàng rào cao (ông đang ở phía bên này rào), cùng với khuôn mặt hai người bạn mà đã nhiều năm ông không gặp lại (và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại) và một căn phòng đầy ngập những cuốn sách triết phủ đầy bụi bặm nhưng vẫn còn kỳ tuyệt. Đúng vào lúc đó cảnh sát Santa Teresa tìm thấy xác một cô gái vị thành niên khác, bị vùi một nửa trong một khu đất trống ở một trong các khu ven thành phố, và một cơn gió mạnh từ phía Tây ào ào ùa tới triền những ngọn núi ở đằng Đông, cuốn tung bụi lên cùng với cả đống báo và mảnh hộp các tông trên đường nó đi qua Santa Teresa và làm lay động mấy món quần áo Rosa treo nơi sân sau, như thể là cơn gió ấy, trẻ trung đầy năng lượng và có cuộc đời ngắn ngủi nhường ấy, đang mặc thử mấy cái sơ mi với quần dài của Amalfitano, luồn vào đồ lót của con gái ông và đọc vài trang trong cuốn Kinh thánh hình học để xem có gì hữu ích không, một cái gì khả dĩ giải thích cho nó hiểu về cảnh quan phố xá nhà cửa xiết bao lạ lùng mà nó vừa phi nước đại qua, hoặc giải thích với nó về chính nó, về cơn gió.
♣ ♣ ♣Lúc tám giờ sáng Amalfitano lê mình vào bếp. Con gái ông hỏi ông ngủ có ngon không. Một câu hỏi không cần được trả lời mà Amalfitano trả lời bằng cái nhún vai. Khi Rosa đi ra ngoài mua đồ ăn thức uống cho chuyến dã ngoại về quê, ông pha cho mình một cốc trà sữa rồi mang lên phòng khách uống. Đoạn ông kéo rèm và tự hỏi tình trạng mình thế này thì liệu có thể đi chơi theo lời mời của giáo sư Pérez không. Ông quyết định rằng có, rằng những gì xảy ra với ông đêm qua chỉ là cách cơ thể phản ứng trước sự tấn công của loài vi rút bản địa nào đó hoặc là bệnh cúm vừa chớm. Trước khi đi tắm ông cặp nhiệt độ. Không sốt. Trong mười phút ông đứng dưới dòng nước phun, ngẫm nghĩ về hành vi của mình đêm qua, rồi cảm thấy ngượng ngùng và thậm chí còn đỏ mặt. Thỉnh thoảng ông lại ngẩng đầu lên để nước phun thẳng vào mặt. Vị của nước ở đây không như nước ở Barcelona. Ông cảm thấy như là ở Santa Teresa nước đậm đặc hơn nhiều, như thể nước không hề được lọc, một thứ nước đầy khoáng chất, mang vị đất. Mấy ngày đầu ông đâm ra có thói quen, một thói quen mà Rosa cũng bắt đầu có, là đánh răng nhiều gấp đôi số lần so với hồi ở Barcelona, vì ông có cảm tưởng là răng mình xỉn đi, như thể nó bị phủ lên lớp màng mỏng một chất gì đó trào lên từ những dòng sông ngầm của Sonora. Tuy nhiên, lâu ngày thì rồi ông cũng trở lại thói quen đánh răng ba hay bốn lần một ngày. Rosa, vốn quan tâm hơn đến bề ngoài, thì vẫn đánh răng sáu, bảy lần. Ở lớp ông nhận thấy có vài sinh viên có hàm răng màu hoàng thổ. Giáo sư Pérez thì răng trắng. Có lần ông hỏi bà: có đúng là nước ở Santa Teresa này làm răng bị xỉn không. Giáo sư Pérez không biết. Đây là lần đầu tôi nghe nói đến chuyện này, bà nói, và hứa sẽ tìm hiểu xem. Không quan trọng gì đâu, Amalfitano liền hốt hoảng nói, không quan trọng gì đâu mà, cứ coi như tôi chưa hỏi gì chị cả. Trên nét mặt giáo sư Pérez ông thấy thoáng nét bất an, như thể câu hỏi này ẩn chứa một câu hỏi khác, câu hỏi khác này thì xúc phạm hơn và gây tổn thương hơn. Phải cẩn thận lời ăn tiếng nói, Amalfitano hát trong khi tắm, cảm thấy đã hoàn toàn hồi phục, điều rõ ràng là bằng chứng cho bản tính thường xuyên vô trách nhiệm của ông.
♣ ♣ ♣Rosa về nhà mang theo hai tờ báo, cô đặt báo lên bàn rồi đi làm bánh sandwich thịt hun khói hay cá hồi kẹp thêm rau diếp, cà chua, xốt mayonnaise hay salsa rosa. Cô gói mấy cái sandwich vào khăn giấy và giấy nhôm rồi cho cả vào một túi ni lông cô trữ sẵn trong một túi xách nhỏ màu nâu có đề chữ Đại học Phoenix viết thành hình bán nguyệt, lại cho thêm vào túi hai chai nước cùng một chục ly giấy. Đến chín rưỡi thì họ nghe tiếng còi xe của giáo sư Pérez. Con trai của giáo sư Pérez mười sáu tuổi, thâm thấp, mặt vuông vai rộng, như thể cậu có chơi môn thể thao nào đấy. Mặt cậu và một phần cổ cậu đầy tàn nhang. Giáo sư Pérez mặc quần jean xanh áo sơ mi, đeo băng đô trắng. Một cặp kính đen, có lẽ là quá to, che cặp mắt bà. Nhìn từ xa bà giống một minh tinh điện ảnh Mexico hồi thập niên bảy mươi, Amalfitano nghĩ. Khi ông vào trong xe thì ảo giác ấy biến mất. Giáo sư Pérez lái xe và ông ngồi cạnh bà. Họ đi về phía Đông. Mấy cây số đầu tiên con đường chạy qua một thung lũng nhỏ rải rác những tảng đá nom như từ trên trời rơi xuống. Những tảng granít không nguồn gốc không bối cảnh. Có một vài nông trại, vài mảnh đất nơi những nông dân vô hình trồng thứ quả gì đấy mà cả giáo sư Pérez lẫn Amalfitano đều không thể nhận ra. Sau đó họ ra đến sa mạc và tới vùng núi. Ở đó có cha mẹ của những tảng đá mồ côi mà họ đã để lại sau lưng. Những khối đá granít, đá núi lửa, đỉnh in trên nền trời mang hình dáng và điệu bộ những con chim, nhưng là những con chim đau khổ, Amalfitano nghĩ, trong khi giáo sư Pérez nói với hai người trẻ tuổi về cái nơi họ đang đến, vẽ nó bằng những màu sắc đi từ buồn cười (một hồ bơi khoét vào ngay trong đá) cho đến huyền bí, cái huyền bí mà bà dẫn chứng bằng những tiếng nói có thể nghe thấy được từ điểm nhìn cao nhất và rõ ràng là do gió tạo nên. Khi Amalfitano ngoái đầu để xem vẻ mặt con gái mình và con trai giáo sư Pérez thì ông thấy có bốn chiếc xe chạy phía sau, chờ cơ hội vượt. Trong mỗi chiếc xe đó ông hình dung thấy một gia đình hạnh phúc, một bà mẹ, một túi đồ dã ngoại đựng đầy đồ ăn thức uống, hai đứa con và ông bố lái xe, cửa kính hạ xuống. Ông mỉm cười với con gái rồi quay lại tiếp tục nhìn con đường. Nửa giờ sau họ leo lên một ngọn đồi từ đó có thể ngắm nhìn một vùng sa mạc rộng mênh mông phía sau lưng. Ông thấy nhiều ô tô hơn. Ông hình dung rằng tiệm cà phê hay nhà hàng hay khách sạn ven xa lộ nơi họ đang tới là một chốn thời thượng cho cư dân Santa Teresa. Ông lấy làm tiếc là đã nhận lời mời. Được một lúc thì ông ngủ mất. Khi ông thức dậy thì họ đã tới nơi. Bàn tay của giáo sư Pérez đặt trên mặt ông, một cử chỉ có thể là âu yếm mà cũng có thể không. Dường như là bàn tay của một người mù. Rosa và Rafael không còn trên xe nữa. Ông thấy một bãi đỗ xe gần kín, mặt trời phản chiếu trên các bề mặt mạ crôm, một cái sân có mái che nằm hơi cao lên một chút, một cặp đang ôm vai nhau ngắm cái gì đó mà ông không thấy được, bầu trời sáng lóa đầy những đám mây nhỏ thấp màu trắng, có tiếng nhạc xa xa và một giọng đang hát hoặc thì thầm với tốc độ nhanh, đến nỗi khó mà nghe được lời bài hát. Cách vài xăng ti mét ông thấy khuôn mặt giáo sư Pérez. Ông cầm tay bà mà hôn. Sơ mi ông đẫm mồ hôi, nhưng điều khiến ông ngạc nhiên nhất là bà giáo sư cũng đang vã mồ hôi.
♣ ♣ ♣Dù gì thì gì, ngày hôm đó cũng thật dễ chịu. Rosa và Rafael bơi trong bể bơi rồi sau đó lên ngồi cùng Amalfitano và giáo sư Pérez ở cái bàn nơi hai người lớn nãy giờ ngồi ngắm hai đứa. Sau đó họ mua đồ uống rồi ra ngoài đi dạo loanh quanh. Ở một vài nơi núi đâm thẳng xuống, và ở dưới sâu hoặc trên các triền đá có những vết nứt sâu qua đó lộ rõ những nền đá mang màu khác, hay những tảng đá trông như có màu khác dưới ánh nắng khi mặt trời dịch chuyển về Tây, đá lutite và andesite kẹp giữa những kết cấu sa thạch, những vỉa thẳng đứng đá tro núi lửa và những khối đá ba dan lớn phẳng lì. Đây đó, cheo leo nơi sườn núi là một loài xương rồng nào đó của Sonora. Và xa hơn nữa là núi rồi sau đó là những thung lũng nhỏ rồi lại núi, cho đến khi tới một vùng trải rộng chìm trong sương, trong sa mù, giống như một nghĩa địa mây, đằng sau đó là Chihuahua và New Mexico và Texas. Họ ngắm quang cảnh đó, ngồi trên những tảng đá mà ăn trong im lặng. Rosa và Rafael chỉ cất tiếng lúc muốn đổi phần sandwich cho nhau. Giáo sư Pérez có vẻ chìm trong suy nghĩ riêng tư. Còn Amalfitano ngồi mệt mỏi và bị choáng ngợp vì quang cảnh, một quang cảnh mà ông thấy hình như chỉ hợp với người trẻ tuổi hoặc cho những người già ngu xuẩn hoặc người già vô cảm hoặc người già sinh ra để tự buộc cho mình và buộc cho người khác một nhiệm vụ bất khả thi cho đến khi thở ra hơi cuối cùng.
♣ ♣ ♣Đêm đó Amalfitano thức rất khuya. Việc đầu tiên ông làm khi về đến nhà là đi ra sân sau xem cuốn sách của Dieste có còn đó không. Trên chuyến xe trở về giáo sư Pérez cố tỏ ra dễ chịu và khơi một cuộc chuyện trò sao cho cả bốn người đều tham gia được, nhưng xe vừa mới bắt đầu đi xuống dốc thì con trai bà đã ngủ mất và sau đó Rosa cũng ngủ theo, đầu tựa vào cửa kính. Chẳng mấy chốc Amalfitano cũng theo gương con gái. Ông mơ thấy giọng một người đàn bà không phải là giáo sư Pérez mà là của một đàn bà Pháp, nói về những ký hiệu về những con số và về cái gì đó mà Amalfitano không hiểu, cái gì đó mà giọng nói trong mơ gọi là “lịch sử bị chẻ nhỏ” hay là “lịch sử tách rời ra rồi được ghép trở lại”, mặc dù rõ ràng là lịch sử được ráp lại này đã trở thành một thứ gì khác, thành một bình luận ngoài lề, một cước chú thông thái, một tiếng cười ha hả mãi không dứt bặt nó nhảy từ một tảng andesite sang một tảng riolite rồi sau đó sang một tảng đá tro núi lửa, và từ tập hợp những thứ đá tiền sử này dậy lên một thứ thủy ngân, tấm gương Hoa Kỳ, giọng ấy nói, tấm gương buồn kiểu Hoa Kỳ của giàu có của nghèo khó của sự biến hình liên tục vô ích, tấm gương di chuyển bằng buồm và những cánh buồm của nó là nỗi đau. Rồi sau đó Amalfitano mơ sang giấc mơ khác và không còn giọng nói nào nữa, có lẽ là dấu hiệu cho thấy ông đang ngủ rất sâu, và ông mơ thấy mình đến gần một phụ nữ, một phụ nữ chỉ gồm có một cặp chân ở cuối một hành lang tối, và sau đó ông nghe thấy ai đó cười rộ trước tiếng ngáy của ông, con trai của giáo sư Pérez, và ông nghĩ: tốt. Khi họ vào đến Santa Teresa theo xa lộ phía Đông, một con đường vào giờ này đầy những xe tải te tua xơ xác và những xe tải con trên đường từ chợ trong thành phố hay từ những thành phố khác ở Arizona quay về, ông thức dậy. Trong lúc ngủ ông không chỉ há hốc miệng mà thậm chí còn để nước dãi nhểu cả ra cổ áo. Tốt, ông nghĩ, càng tốt. Khi nhìn sang giáo sư Pérez với vẻ hả hê, ông nhận thấy một nét buồn nơi bà. Kín đáo, ngoài tầm nhìn của hai đứa con, con trai người này và con gái người kia, bà giáo sư khẽ vuốt ve chân Amalfitano trong khi ông ngoảnh đầu ngắm một quán bán taco nơi một cặp cảnh sát, súng lủng lẳng thắt lưng, đang vừa uống bia trò chuyện vừa ngắm hoàng hôn màu đỏ và đen, như một hũ ớt mà những tăm sủi cuối cùng đang tắt dần ở phía Tây. Khi họ về đến nhà thì trời đã tối song bóng cuốn sách của Dieste treo nơi dây phơi quần áo là thứ sáng rõ hơn, vững chãi hơn, hợp lẽ hơn, Amalfitano nghĩ, hơn tất thảy những gì ông đã thấy ở ngoại ô Santa Teresa và ở cả cái thành phố này, những hình ảnh không đầu không cuối, những hình ảnh chất nặng toàn bộ sự mồ côi của thế giới này, những mảnh vụn, những mảnh vụn.
♣ ♣ ♣Đêm đó ông chờ giọng nói, chờ mà sợ. Ông muốn chuẩn bị cho một buổi lên lớp, nhưng chẳng mấy chốc ông nhận ra rằng chuẩn bị cho một thứ mà ông đã biết nằm lòng từng li từng tí là một việc vô ích. Ông nghĩ nếu mình vẽ trên tờ giấy trắng trước mặt thì có khi những hình kỷ hà cơ bản kia sẽ xuất hiện trở lại. Thế là ông vẽ một cái mặt rồi xóa đi, sau đó đắm mình cố nhớ lại khuôn mặt bị xóa. Ông nhớ (nhưng chỉ nhoáng qua, như người ta nhớ lại một tia sét) Ramon Llull và cỗ máy thần kỳ của ông ta. Thần kỳ trong sự vô ích. Khi nhìn lại tờ giấy trắng thì ông đã viết ra, trên ba cột đứng, những cái tên sau:
Pico della Mirandola Hobbes Boecio Husserl Locke Alexander of Hales Eugen Fink Erich Becher Marx Merleau-Ponty Wittgenstein Lichtenberg Bede Llull Sade St. Bonaventure Hegel Condorcet John Philoponus Pascal Fourier Saint Augustine Canetti Lacan Schopenhauer Freud LessingTrong một chốc Amalfitano đọc đi đọc lại những cái tên, theo chiều ngang rồi theo chiều dọc, từ giữa ra hai bên, từ dưới lên trên, đọc nhảy cóc và đọc ngẫu nhiên, thế rồi ông cười ha hả mà nghĩ tất cả cái này là một sự thật rành rành, tức là một định đề quá hiển nhiên đến độ chẳng cần phải diễn đạt ra làm gì vô ích. Sau đó ông uống một cốc nước hứng từ vòi, nước từ những ngọn núi của Sonora, và trong khi chờ cho nước trôi xuống cổ họng thì ông thôi không run nữa, một trạng thái run rất nhẹ mà chỉ mình ông mới nhận thấy, và ông bắt đầu nghĩ về những vỉa trầm tích ngậm nước của dãy Sierra Madre chạy về phía thành phố này giữa đêm vô tận, và nghĩ về những vỉa trầm tích ngậm nước trồi lên từ những chỗ chúng ẩn nấp ở gần Santa Teresa hơn, rồi về thứ nước làm cho răng có một lớp màng láng mượt màu nâu. Và khi uống nước xong ông nhìn ra ngoài cửa sổ thấy cái bóng dài, cái bóng trông như một cỗ quan tài, do cuốn sách của Dieste hắt xuống sân.
♣ ♣ ♣Nhưng giọng nói quay trở lại, và lần này nó hỏi ông, van xin ông, hãy là đàn ông, chứ đừng là bóng lại cái. Bóng lại cái? Amalfitano hỏi. Phải, bóng lại cái, pê đê, đĩ đực, giọng ấy nói. Đồng-tính, giọng ấy nói. Kế đó nó hỏi ông có phải một trong các thứ ấy không. Các thứ gì? Amalfitano hỏi, khiếp đảm. Một tên đồng-tính, giọng ấy nói. Và Amalfitano chưa kịp trả lời thì nó đã vội vàng nói rõ là nó đang nói theo nghĩa bóng, là nó chẳng định nói xấu gì người bóng lại cái dù bóng chìm hay bóng lộ, ngược lại thì có, nó ngưỡng mộ vô cùng một số nhà thơ từng thú nhận mình có xu hướng tính dục ấy, đấy là chưa kể một số họa sĩ và viên chức chính phủ. Viên chức chính phủ? Amalfitano hỏi. Phải, phải, phải, giọng ấy nói, những viên chức chính phủ rất trẻ và yểu mệnh. Những viên chức làm bẩn công văn giấy tờ bằng những giọt nước mắt trong vô thức. Chết vì chính tay mình. Sau đó giọng ấy im lặng và Amalfitano vẫn ngồi lại trong phòng làm việc. Rất lâu sau đó, khoảng mười lăm phút sau, cũng có khi là đêm sau, giọng ấy nói: cứ cho rằng ta là ông nội mi, bố của bố mi, và cứ cho là với tư cách ông nội của mi ta có thể hỏi mi một câu riêng tư. Mi có thể trả lời nếu muốn, không trả lời cũng được, nhưng ta có thể hỏi mi. Ông nội của tôi? Amalfitano nói. Phải, ông nội của mi, nono của mi, mi hay gọi ta như thế mà, giọng ấy nói. Và câu hỏi là: mi có phải đồ bóng không, mi có chạy ra khỏi phòng này không, mi có phải là đồng-tính không, mi có đi đánh thức con gái mi không? Không, Amalfitano nói. Ta nghe đây. Mi có gì cần nói thì nói đi.
♣ ♣ ♣Thế là giọng ấy nói: mi có phải bóng lại cái không? phải hay không? và Amalfitano nói không, lại còn lắc đầu nữa. Ta sẽ không chạy đi đâu hết. Lưng ta và gót giày ta sẽ không phải là những thứ cuối cùng của ta mà mắt mi trông thấy đâu. Cứ cho là mi có thấy. Thì giọng ấy nói: thấy, thấy, nghĩa là sao? như là nhìn thấy ấy hả, thiệt tình là ta không thấy. Hay là có nhưng không nhiều lắm. Nhưng thế cũng đủ để ta trụ ở đây rồi. Ở đâu? Amalfitano hỏi. Trong nhà mi, chắc thế, giọng ấy nói. Đây là nhà ta, Amalfitano nói. Phải, ta biết, giọng ấy nói, nhưng mà sao chúng ta không thoải mái đi. Ta đang thoải mái đây, Amalfitano nói, ta ở nhà ta cơ mà. Và ông tự hỏi: sao nó lại bảo mình hãy thoải mái đi? Thì giọng ấy nói: ta tin là từ lúc này trở đi đây sẽ là một mối quan hệ lâu dài và hy vọng là hai bên cùng có lợi. Nhưng muốn vậy thì nhất thiết cần phải bình tĩnh, chỉ có sự bình tĩnh là thứ duy nhất không phản bội chúng ta. Amalfitano liền nói: mọi thứ khác đều phản bội ta sao? Thì giọng ấy nói: đúng, thực tình là vậy, thừa nhận điều ấy chẳng dễ gì, ta muốn nói là chẳng dễ gì thừa nhận trước mặt mi, nhưng đó là sự thật thuần túy nhất. Đạo đức có phản bội ta không? Ý thức nghĩa vụ có phản bội ta không? Lòng thành có phản bội ta không? Sự hiếu kỳ có phản bội ta không? Tình yêu có phản bội ta không? Đức can trường có phản bội ta không? Nghệ thuật có phản bội ta không? Có, giọng ấy nói, tất cả, tất cả đều phản bội ta, hoặc phản bội mi, đấy là chuyện khác nhưng với trường hợp này thì cũng như nhau, trừ có sự bình thản, chỉ có sự bình thản là không phản bội ta, mặc dù, cho phép ta công nhận với mi, điều ấy chẳng có gì bảo đảm cả. Không, Amalfitano nói, mi lầm, đức can trường không bao giờ phản bội ta. Và tình yêu con cái cũng không. Chà, không à? giọng ấy nói. Không, Amalfitano nói, đột nhiên cảm thấy bình thản.
♣ ♣ ♣Và sau đó, bằng tiếng thì thầm, như tất cả những gì ông đã nói từ trước đến giờ, ông hỏi có phải sự bình thản, ở trường hợp này, là đối cực của điên không. Thì giọng ấy nói: không, hoàn toàn không, nếu mi đang lo mình đã mất trí rồi thì chớ lo, mi không phải đang hóa điên đâu, mi chỉ đang tán gẫu bình thường thoải mái thôi. Vậy ta chưa mất trí, Amalfitano nói. Không, hoàn toàn không, giọng ấy nói. Vậy thì ông là ông của cháu, Amalfitano nói. Gọi ta là nội, giọng ấy nói. Vậy là tất cả đều phản bội ta, kể cả hiếu kỳ lẫn lòng thành và tất cả những gì ta yêu nhất. Đúng, giọng ấy nói, nhưng mà vui lên đi, xét cho cùng mọi thứ vui thôi.
♣ ♣ ♣Không có tình bạn, giọng ấy nói, không có tình yêu, không có hùng ca, không có thơ trữ tình nào mà không là tiếng cười khùng khục hay hinh hích của kẻ ích kỷ, tiếng lầm bầm của quân lừa đảo, tiếng lắp bắp của kẻ phản bội, lời liến thoắng của kẻ hãnh tiến thích trèo cao, tiếng líu lo của những tên lại cái. Có gì mà ông ghét người đồng tính dữ vậy? Amalfitano thì thầm. Chả có gì, giọng ấy nói. Ta nói theo nghĩa bóng, giọng ấy nói. Chúng ta đang ở Santa Teresa à? giọng ấy hỏi. Thành phố này có phải là một phần của Sonora không, một phần chẳng phải là tép riu ấy? Đúng, Amalfitano nói. Tốt, ra là vậy, giọng ấy nói. Làm một kẻ hãnh tiến thích trèo cao chẳng hạn là một chuyện, Amalfitano nói, tay giật giật tóc mình như trong phim quay chậm, nhưng làm một tên lại cái thì là chuyện rất khác. Ta nói theo nghĩa bóng thôi, giọng ấy nói. Ta nói là để cháu hiểu ta. Ta nói như thể ta đang ở trong xưởng vẽ của một họa sĩ đồng-tính, có cháu ở sau lưng ta. Ta đang nói từ một xưởng vẽ nơi sự hỗn độn chỉ là một cái mặt nạ hay là mùi thối thoang thoảng của chứng mất cảm giác. Ta nói từ một xưởng vẽ nơi các đèn đều tắt nơi dây gân của ý chí tự tách mình ra khỏi phần còn lại của thân thể như cái lưỡi rắn tự tách mình ra khỏi thân rắn mà trườn đi, tự cắt mình ra, giữa đống rác. Ta nói từ góc độ những thứ đơn giản trong đời sống. Cháu dạy triết à? Cháu dạy Wittgenstein? giọng ấy nói. Thế có khi nào cháu tự hỏi bàn tay mình có phải là một bàn tay hay không? giọng ấy nói. Cháu có tự hỏi thế, Amalfitano nói. Nhưng giờ thì cháu có những chuyện quan trọng hơn để tự hỏi mình, ta có lầm không? giọng ấy nói. Không, Amalfitano nói. Chẳng hạn, tại sao không đến vườn ươm mua ít hạt giống ít cây giống và có khi cả một cái cây con đem về trồng ở sân sau nhà mình? giọng ấy nói. Có, Amalfitano nói. Cháu có nghĩ đến khu vườn có thể có và có thể hình dung được của mình, cả những cây nào cần mua và những dụng cụ nào cần có để bắt tay làm. Và cháu cũng nghĩ đến con gái cháu, giọng ấy nói, về những vụ giết người xảy ra hằng ngày ở thành phố này, và về những đám mây chó đẻ (xin lỗi) của Baudelaire, nhưng cháu không nghĩ nghiêm túc về chuyện bàn tay mình có thật là một bàn tay hay không. Không, nói thế không đúng, Amalfitano nói, cháu có nghĩ, cháu có nghĩ. Nếu có nghĩ thì cháu đã nói giọng khác rồi, giọng ấy nói. Thế là Amalfitano im lặng và nghĩ rằng im lặng là một loại ưu sinh học. Ông xem đồng hồ tay. Đã bốn giờ sáng. Ông nghe tiếng ai đó đang mở máy ô tô. Chiếc xe mãi hồi lâu mới nổ máy. Ông đứng dậy tiến lại cửa sổ. Những chiếc ô tô đậu trước nhà ông đều chẳng có ai ngồi. Ông nhìn ra đằng sau rồi đặt tay lên quả đấm cửa. Giọng ấy nói: cẩn thận, nhưng nghe như nó đang ở rất xa, từ dưới đáy một hẻm vực từ đó lộ ra những vỉa đá núi lửa, đá riolite, đá andesite, những mạch bạc và những mạch vàng, những vũng nước hóa thạch đầy những quả trứng bé tí xíu, trong khi những con quạ đuôi đỏ cất cánh bay lên bầu trời màu đỏ bầm giống như da một đàn bà da đỏ bị đập bằng gậy đến chết. Amalfitano đi ra hàng hiên. Bên trái, cách nhà ông chừng mươi mét, một chiếc ô tô đen bật đèn pha và bắt đầu chuyển bánh. Khi đi qua trước vườn nhà ông tay tài xế nghiêng người ra nhìn Amalfitano mà không dừng lại. Đấy là một gã béo tóc rất đen, mặc bộ com lê rẻ tiền không có cà vạt. Khi gã biến mất, Amalfitano quay vào nhà. Ta không ưa cái loại này, giọng ấy nói ngay khi Amalfitano đi qua cửa. Rồi sau đó: phải cẩn thận, cháu ạ, mọi chuyện ở đây đang đến hồi nguy kịch rồi đây.
♣ ♣ ♣Vậy người là ai và làm thế nào người tới được đây? Amalfitano hỏi. Giải thích chuyện đó có ý nghĩa gì đâu, giọng ấy nói. Không có ý nghĩa gì ư? Amalfitano hỏi, vừa hơi vừa cười thầm thành tiếng, như một con ruồi. Ta hỏi người một câu được không? Amalfitano nói. Hỏi đi, giọng ấy nói. Người có thật là linh hồn của ông nội ta không? Xem xem rốt cuộc thì con nghĩ ra được cái gì kìa, giọng ấy nói. Dĩ nhiên không, ta là linh hồn của cha con. Linh hồn của nội con không còn nhớ con đâu. Nhưng ta là cha con nên ta không bao giờ quên con. Có hiểu không? Có, Amalfitano nói. Con có hiểu là con không việc gì phải sợ ta không? Có, Amalfitano nói. Vậy thì đi làm việc gì có ích đi, rồi sau đó kiểm tra xem cửa cái cửa sổ đã đóng kỹ hết chưa rồi thì đi ngủ. Việc có ích kiểu như là gì? Amalfitano nói. Tỉ như rửa bát, giọng ấy nói. Thế là Amalfitano châm một điếu thuốc rồi bắt tay làm việc mà giọng nói gợi ý làm. Con rửa còn ta nói, giọng ấy nói. Tất cả đều yên tĩnh, giọng ấy nói. Chẳng có sự thù địch nào giữa con với ta, chứng nhức đầu, nếu như con có, chứng ù tai, mạch nhảy nhanh, tim đập nhanh, tất cả đều sẽ qua hết, giọng ấy nói. Con sẽ bình tâm lại, con sẽ suy nghĩ rồi sẽ bình tâm lại, giọng ấy nói, trong khi con làm việc gì đó có ích cho con gái con và cho con. Con hiểu, Amalfitano thì thầm. Tốt, giọng ấy nói, cái này giống như là nội soi ấy, chỉ có điều không đau. Hiểu rồi, Amalfitano thì thầm. Và ông cọ rửa mấy cái đĩa với cái nồi hãy còn dính pasta dính xốt cà chua rồi thì rửa mấy cái nĩa mấy cái cốc cái bếp lò và cái bàn nơi hai bố con ăn tối, vừa rửa vừa hút thuốc hết điếu này đến điếu khác và chốc chốc uống vài ngụm nước thẳng từ vòi. Đến năm giờ sáng thì ông lấy chỗ quần áo bẩn trong sọt ở buồng tắm, mang ra sân sau cho vào máy giặt rồi nhấn nút đặt chế độ chạy bình thường kế đó ông nhìn cuốn sách của Dieste đang treo bất động kế đó ông quay vào phòng khách và mắt ông tìm khắp như mắt một tên nghiện, tìm cái gì đó nữa để mà chùi để mà sắp xếp hay để rửa, nhưng ông không tìm thấy gì thế là ông ngồi xuống, lẩm bẩm có hay không hay là tôi không nhớ hay là có thể. Mọi thứ đều ổn, giọng nói bảo. Vấn đề chỉ là làm sao cho dần quen với nó. Mà không gào nhặng xị lên. Mà không vã mồ hôi và nhào tới nhào lui.
♣ ♣ ♣Khi Amalfitano ngã vật xuống giường mà không cởi quần áo và ngủ say như đứa trẻ con thì đã quá sáu giờ. Chín giờ sáng, Rosa đánh thức ông dậy. Đã lâu Amalfitano không thấy dễ chịu như thế, mặc dù các bài giảng của ông sáng hôm đó hoàn toàn không thể hiểu nổi đối với sinh viên. Lúc một giờ ông ăn trưa ở căng tin của khoa, ngồi ở một trong những bàn xa nhất, khó tìm thấy nhất. Ông không muốn gặp giáo sư Pérez, cũng chẳng muốn chạm mặt những đồng nghiệp khác và càng không muốn gặp trưởng khoa, kẻ mà, theo thói quen, ngày nào cũng đến đây ăn, vây quanh là các giáo sư và vài ba sinh viên chẳng bao giờ thôi nịnh hót ông ta. Ông đặt món ở quầy, hầu như là lén la lén lút, gọi gà hấp và salad, rồi thì ông lật đật về lại bàn, đi nhanh hết cỡ, tránh né đám sinh viên ngồi chật ních căng tin vào giờ này. Sau đó ông chăm chú vừa ăn vừa nghĩ về những gì đã xảy ra đêm qua. Ông sửng sốt nhận ra rằng mình rất hưng phấn trước những sự kiện mình đã trải qua. Mình thấy vui như con họa mi, ông sung sướng nghĩ. Đó là một câu nói đơn giản cũ mèm và nực cười, nhưng nó là câu nói duy nhất biểu đạt được trọn vẹn trạng thái tâm hồn ông lúc này. Ông cố bình tĩnh lại. Tiếng cười của đám thanh niên, những tiếng hét gọi nhau của họ, tiếng bát đĩa khua ồn ã, không hề góp phần làm cho nơi này trở thành nơi lý tưởng cho suy tư chiêm nghiệm. Thế nhưng, chỉ sau vài giây, ông nhận ra là không có chỗ nào tốt hơn thế này, bằng thì có, song hơn thì không. Thế là ông uống một ngụm lớn nước đóng chai (nó không có vị giống với nước máy, nhưng cũng không khác nhiều lắm) rồi bắt đầu nghĩ. Đầu tiên ông nghĩ đến sự điên. Nghĩ về khả năng, cao chứ chẳng phải không, rằng ông vẫn đang hóa điên. Ông ngạc nhiên nhận thấy rằng cái ý nghĩ này (và cái khả năng này) chẳng hề làm sự hưng phấn của ông giảm một tí nào. Hay sự sung sướng của ông cũng vậy. Sự hưng phấn và sung sướng của mình đang lớn lên dưới đôi cánh của một cơn bão, ông nghĩ. Mình có thể đã hóa điên nhưng mà vẫn cảm thấy thoải mái, ông tự nhủ. Ông nghiền ngẫm cái khả năng, cao chứ chẳng phải không, rằng nếu ông điên, nếu ông thực sự hóa điên rồi thì như vậy chứng điên của ông sẽ có lúc trầm trọng hơn và ngay khi đó sự hưng phấn của ông chuyển thành nỗi đau và sự bất lực và, trên hết, nguồn cơn cho nỗi đau và sự bất lực cho con gái ông. Như thể ông có cặp mắt bằng tia X, ông kiểm lại trương mục tiết kiệm của mình và tính rằng với khoản tiền ông dành dụm được Rosa có thể về lại Barcelona và vẫn còn tiền để khởi đầu. Khởi đầu cái gì? Câu hỏi này ông không muốn trả lời. Ông hình dung mình bị nhốt trong một nhà thương điên ở Santa Teresa hay ở Hermosillo, chỉ có giáo sư Pérez là người duy nhất thỉnh thoảng đến thăm, lâu lâu mới nhận được thư của Rosa từ Barcelona gửi đến, ở đó cô đang vừa làm việc vừa học nốt chương trình, ở đó cô làm quen với một cậu trai người Catalán có tinh thần trách nhiệm và dễ thương, cậu này phải lòng cô tôn trọng cô nâng niu cô dịu dàng tử tế với cô và rốt cuộc Rosa sống với cậu ta đêm đêm đi xem phim cùng cậu ta và cùng nhau chúng đi chơi Ý hay Hy Lạp vào tháng Bảy hay tháng Tám, viễn cảnh này xem ra không đến nỗi tồi. Thế rồi ông cân nhắc những khả năng khác. Dĩ nhiên, ông tự nhủ, ông không tin là có ma hay linh hồn, mặc dù hồi ông còn nhỏ ở miền Nam Chile người ta vẫn hay nói về con mechona hay ngồi trên cành cây, chờ có ai cưỡi ngựa đi qua là liền nhảy lên hông ngựa, bám lấy lưng anh chăn bò hay gã buôn lậu, không chịu buông, như một người tình mà cái ôm làm cho cả người cưỡi lẫn ngựa phát điên, cả hai đều chết vì khiếp sợ hoặc là rốt cuộc rơi xuống đáy vực, hay là con colocolo, hay chochones, hay candelillas, hay là hàng bao nhiêu những sinh vật nhỏ xíu khác, những linh hồn đọa lạc, những yêu tinh quái thú, những con quỷ nhẹ ký hơn lang thang khắp giữa dãy Cordillera de la Costa và dãy Andes, nhưng mấy thứ đó ông không tin, không hẳn là vì ông học chuyên ngành triết (Schopenhauer, chẳng nói đâu xa, cũng tin ở ma quỷ, và Nietzsche nhất định là đã từng gặp ma và con ma này đã khiến ông điên) mà là do nền tảng học vấn duy vật của ông. Thế nên ông gạt bỏ khả năng có hồn ma, ít nhất là chừng nào ông chưa đào sâu hết mọi hướng điều nghiên khác. Giọng ấy có thể là một hồn ma, ông sẽ không loại bỏ khả năng ấy, nhưng ông cố tìm một cách giải thích khác. Tuy nhiên, sau khi nghiền đi ngẫm lại rõ lâu, khả năng duy nhất ông thấy có thể xảy ra là ông đã gặp linh hồn đọa lạc. Ông nghĩ đến nhà chiêm tinh của Hermosillo, bà Cristina, Nữ Thánh. Ông nghĩ đến bố ông. Ông kết luận rằng bố ông, cho dù ông cụ có trở thành kiểu linh hồn lang thang vất vưởng nào đi nữa, ông cụ cũng sẽ không bao giờ dùng những từ Mexico như giọng kia đã dùng, tuy rằng cái vẻ phảng phất ghét người đồng tính thì hoàn toàn hợp với ông cụ. Với một niềm vui khó mà xua đi được, ông tự hỏi mình đang lâm vào mớ bòng bong gì thế này. Buổi chiều, ông dạy thêm hai lớp nữa rồi đi bộ về nhà. Trong khi đi qua quảng trường trung tâm ở Santa Teresa ông thấy một đám phụ nữ đang biểu tình trước tòa thị chính. Trên một trong các biểu ngữ ông đọc thấy: Chấm dứt nạn bao che tội phạm. Trên một biểu ngữ khác: Chấm dứt nạn tham nhũng. Từ dưới những vòm cung bằng gạch sống của tòa nhà theo kiểu kiến trúc thuộc địa một nhóm cảnh sát đứng quan sát những người đàn bà. Đấy không phải cảnh sát chuyên chống bạo loạn mà là cảnh sát mặc đồng phục bình thường của Santa Teresa. Trong khi đi khỏi đó ông nghe có ai gọi tên mình. Khi quay lại ông thấy giáo sư Pérez cùng con gái ông trên vỉa hè đối diện. Ông mời họ đi uống nước. Tại quán cà phê họ giải thích rằng cuộc biểu tình là nhằm đòi sự minh bạch trong việc điều tra các vụ phụ nữ mất tích và bị giết chết. Giáo sư Pérez nói với ông rằng hiện có ba nhà hoạt động nữ quyền từ thủ đô đến đang ngụ ở nhà bà và đêm đó bà định mời họ ăn tối. Tôi muốn mời các vị đến, bà nói. Rosa bảo cô sẽ đi. Amalfitano bày tỏ là về phần mình ông không thấy bất tiện gì. Sau đó con gái ông và giáo sư Pérez quay lại đám biểu tình còn Amalfitano tiếp tục đi.
♣ ♣ ♣