← Quay lại trang sách

PHẦN HAI (D) PHẦN VỀ AMALFITANO

Nhưng chưa về đến nhà thì ông lại nghe có người gọi tên mình. Giáo sư Amalfitano, ông nghe ai đó nói. Ông quay lại thì chẳng thấy ai. Ông không còn ở khu trung tâm thành phố nữa. Ông đang đi dọc đại lộ Madero, các tòa nhà bốn tầng đã nhường chỗ cho các căn nhà kiểu nông thôn, bắt chước một loại nhà California hồi thập niên năm mươi, những căn nhà từ lâu đã bắt đầu hứng chịu sự tàn phá của thời gian, khi mà cư dân ở đó bắt đầu chuyển sang khu vực nơi Amalfitano đang sống. Vài căn nhà đã bị chuyển thành những cái gara nơi người ta bán cả kem còn những nhà khác thì trở thành cửa hàng bán bánh mì hay quần áo dù chẳng hề sửa đổi tí gì. Nhiều nhà bày bảng hiệu quảng cáo thầy thuốc, quảng cáo luật sư chuyên về ly hôn hay điều tra tội phạm. Những nhà khác cho thuê phòng theo ngày. Một số nhà đã được tách một cách vụng về quấy quá ra thành hai ba nhà độc lập, nhà thì bán báo với tạp chí, nhà thì bán trái cây rau củ, hoặc hứa hẹn rằng khách hàng sẽ có một hàm răng giả với giá hời. Trong khi tiếp tục đi Amalfitano lại nghe có người gọi mình. Cuối cùng ông thấy người đó. Giọng đó phát ra từ bên trong một chiếc xe đỗ ven vỉa hè. Ban đầu ông không nhận ra người thanh niên gọi ông. Ông nghĩ chắc là một sinh viên mình dạy. Anh ta đeo kính đen mặc sơ mi đen có hàng cúc mở phanh ngực. Anh ta có nước da rất rám nắng, trông như một ca sĩ hay một tay playboy người Puerto Rico. Lên xe đi, giáo sư, để tôi đưa ông về nhà. Amalfitano đã chực bảo anh ta là ông thích đi bộ hơn nhưng anh ta liền tự giới thiệu. Tôi là con của trưởng khoa Guerra, anh ta vừa nói vừa ra khỏi xe bên phía lòng đường nơi vào giờ này dòng xe chạy qua ken đặc phóng ào ào điếc cả tai, xuống xe mà chẳng nhìn trước nhìn sau, với một sự ngông nghênh đầy nguy hiểm mà Amalfitano thấy là cực liều lĩnh. Sau khi đi vòng qua bên xe, tay thanh niên lại gần ông, chìa tay. Tôi là Marco Antonio Guerra, anh ta nói, và Amalfitano nhớ lại cái lần họ đã cụng sâm banh trong văn phòng của bố anh ta nhân dịp ông gia nhập khoa. Ông chẳng có gì phải sợ tôi, giáo sư à, anh ta nói, và Amalfitano không thể không ngạc nhiên trước lời đó. Cậu Guerra dừng lại trước mặt ông. Anh ta đang cười giống như lần trước hai người gặp nhau. Một nụ cười tự tin, nhạo báng, như nụ cười của một tay bắn tỉa quá tự tin. Anh ta mặc quần jean, đi giày cao bồi. Bên trong xe, nơi ghế sau, có một cái áo khoác hàng hiệu màu xám ngọc trai và một cặp hồ sơ đựng đầy giấy tờ. Tôi chỉ đi ngang qua đây thôi, Marco Antonio Guerra nói. Xe đi về phía quận Lindavista, nhưng chưa đến đó thì con trai trưởng khoa đề nghị họ đi uống gì đấy. Amalfitano lịch sự từ chối. Vậy thì hai ta về nhà ông uống gì đấy, Marco Antonio Guerra nói. Tôi chẳng có gì để mời anh cả, Amalfitano thoái thác. Vậy thì thôi không bàn nữa, Marco Antonio Guerra nói, rồi rẽ ngay chỗ rẽ đầu tiên. Chẳng mấy chốc quang cảnh thành phố trở nên thay đổi. Phía Tây quận Lindavista nhà cửa đều mới, ở một số nơi có những khoảng đồng trống rộng thênh thang vây quanh, một số con đường thậm chí còn chưa rải nhựa. Người ta nói các khu này là tương lai của thành phố, Marco Antonio Guerra nói, nhưng theo ý tôi cái thành phố chó chết này chả có tương lai nào hết. Xe đi thẳng vào một sân bóng đá, về một phía sân có vài ba cái lán hoặc nhà kho to tướng xung quanh có hàng rào kẽm gai. Phía sau các nhà kho hay lán này có một dòng kênh hoặc là nhánh sông con chở rác của các khu nằm về phía Bắc. Gần một khoảnh đất trống khác họ thấy tuyến đường ray cũ ngày xưa nối liền Santa Teresa với Ures và Hermosillo. Vài ba con chó rụt rè lại gần. Marco Antonio hạ kính xe xuống để cho chúng hít hít ngửi ngửi rồi liếm tay mình, về bên trái là xa lộ đi Ures. Xe bắt đầu ra khỏi Santa Teresa. Amalfitano hỏi họ đi đâu vậy. Con trai của Guerra đáp rằng đến một trong những chỗ hiếm hơi của vùng này nơi có thể uống mezcal Mexico thứ thiệt.

♣ ♣ ♣

Chỗ đó tên là Los Zancudos và là một hình chữ nhật dài ba mươi mét rộng mười mét, ở một đầu có một sân khấu nhỏ nơi vào thứ Sáu và thứ Bảy hằng tuần có các ban nhạc chuyên chơi những bài corrida hay ranchera đến biểu diễn. Quầy bar dài ít nhất mười lăm mét. Các buồng vệ sinh nằm ngoài trời, có thể vào thẳng buồng vệ sinh từ chỗ sân hoặc đi qua một hành lang hẹp bằng kẽm mạ điện nối liền khu vệ sinh với nhà hàng. Khách không đông lắm. Đám hầu bàn, mà Marco Antonio Guerra quen biết và gọi tên từng người, thảy đều chào họ nhưng chẳng ai đến chỗ bàn họ cả. Chỉ có vài ngọn đèn là bật. Ta uống Los Suicidas nhé, Marco Antonio nói. Amalfitano mỉm cười nhã nhặn nói được, nhưng chỉ một ly nhỏ thôi. Marco Antonio giơ tay lên búng vài cái. Mấy thằng khốn này điếc hết rồi chắc, anh ta nói. Anh ta đứng dậy đi về phía quầy. Lát sau anh ta quay lại với hai cái ly và một chai mezcal đầy một nửa. Thử đi, anh ta nói. Amalfitano nhấp một ngụm và thấy có vẻ ngon. Ở dưới đáy chai đáng lẽ phải có một con sâu nhưng mà chắc mấy thằng chết đói này ăn mất rồi. Amalfitano nghĩ đó là một câu đùa nên bật cười. Nhưng tôi cam đoan đây là mezcal Los Suicidas xịn, có thể yên tâm mà thưởng thức, Marco Antonio nói. Nhấp ngụm thứ hai thì Amalfitano nghĩ đây đúng là một đồ uống tuyệt vời. Thứ này bây giờ người ta không sản xuất nữa, Marco Antonio nói, cũng như bao nhiêu là thứ khác ở cái xứ chó chết này. Và một thoáng sau, nhìn chăm chăm vào Amalfitano, anh ta nói: chúng ta sắp xuống địa ngục hết rồi, chắc là ông đã biết, đúng không giáo sư? Amalfitano trả lời rằng đúng, tình hình chắc chắn chẳng khiến ta phải nhảy cẫng lên mừng, tuy nhiên ông không nói rõ thêm mình ám chỉ gì mà cũng không đi vào chi tiết. Mọi thứ đang tan rã trong tay ta, Marco Antonio Guerra nói. Đám chính trị gia không biết cách cầm quyền. Toàn bộ lớp trung lưu chỉ nghĩ đến chuyện sang Mỹ sống. Và càng ngày càng có nhiều người lũ lượt đến làm việc ở các maquiladora. Ông có biết tôi sẽ làm gì không? Không, Amalfitano nói. Đốt bớt một vài cái ấy. Vài cái gì? Amalfitano hỏi. Vài cái nhà máy lắp ráp. Hay nhỉ, Amalfitano nói. Tôi cũng sẽ cho quân đội ra ngoài phố, à, không phải phố mà ngoài xa lộ, để ngăn không cho cái bọn chết đói đó vào thêm. Đặt chốt gác trên xa lộ à? Amalfitano hỏi. Đúng vậy, không có giải pháp khác. Chắc phải có giải pháp khác chứ. Người ta hết biết tôn trọng rồi, Marco Antonio Guerra nói. Tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình. Amalfitano liếc về phía quầy. Ba hầu bàn đang vừa thì thầm vừa liếc về phía bàn họ. Có lẽ ta đi đi thì hơn, Amalfitano nói. Marco Antonio Guerra để ý thấy mấy người bồi, liền làm một cử chỉ tục tĩu về phía họ rồi cười rộ. Amalfitano túm tay anh ta lôi ra ngoài bãi đỗ xe. Lúc này trời đã tối và một bảng hiệu to đùng lắp đèn bên trong có hình một con muỗi chân dài ngoằng rực sáng trên một bộ giàn kim loại. Tôi có cảm giác mấy người đó không ưa gì anh, Amalfitano nói. Ông đừng lo giáo sư à, Marco Antonio Guerra nói, tôi có vũ khí mà.

♣ ♣ ♣

Về tới nhà, Amalfitano lập tức quên ngay Marco Antonio Guerra và kết luận rằng có lẽ mình không điên như mình nghĩ, và giọng nói mà ông nghe thấy không phải là một linh hồn đọa lạc. Ông nghĩ đến thần giao cách cảm. Ông nghĩ về những người Mapuche hay Araucanía có khả năng thần giao cách cảm. Ông nhớ có một cuốn sách rất mỏng, chưa tới trăm trang, của một người nào đó tên Longo Kilapán, xuất bản tại Santiago de Chile vào năm 1978, sách này do một người bạn cũ, một tay tự cho mình thông thái, gửi cho ông hồi ông đang sống ở châu Âu. Tay Kilapán này tự giới thiệu mình bằng những danh xưng sau: Sử gia về Chủng tộc, Chủ tịch Liên đoàn Người Bản địa Chile, và Thư ký Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Araucanía. Cuốn sách có nhan đề O’Higgins là người Araucanía, kèm theo tít phụ 17 bằng chứng rút ra từ mật sử Araucanía. Giữa nhan đề và dòng tít phụ có câu sau: Văn bản này đã được Hội đồng Lịch sử Araucanía phê duyệt. Kế đó là Lời nói đầu, như sau: “Lời nói đầu. Sẽ rất khó tìm ra ở các anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Chile những bằng chứng cho thấy các vị có quan hệ huyết thống với người Araucanía, kiểm chứng điều này lại càng khó hơn nữa. Bởi vì, trong huyết quản của các anh em nhà Carrera, nhà Mackenna, Freire, Manuel Rodríguez và những người khác, chỉ có chảy dòng máu Iberia. Nhưng ánh sáng chói lòa của huyết thống Araucanía rọi chiếu ở Bernardo O’Higgins, và để chứng minh cho điều đó có 17 bằng chứng. Bernardo không phải là đứa con hoang như mô tả của nhiều sử gia, một số kèm sự thương hại, số khác không giấu nổi sự thỏa mãn. Ngài là đứa con hợp pháp can trường của Thống đốc Chile và Phó vương Perú, Ambrosio O’Higgins, người Ireland, và của một phụ nữ Araucanía thuộc một trong các bộ tộc chính của Araucanía. Mối hôn nhân này được tác thành theo luật của Admapu, theo Gapitun truyền thống (nghi thức bắt cóc). Tiểu sử của Người Giải Phóng phô bày bí mật ngàn năm của người Araucanía, đúng vào dịp kỷ niệm hai trăm năm ngày sinh của ngài; nó nhảy từ Litrang* vào trang giấy, với sự trung thành chỉ có thể có ở một Epeutufe.” Đến đây là hết lời nói đầu, ký tên José R. Pichiñual, Caciqua xứ Puerto Saavedra.

♣ ♣ ♣

Lạ thật, Amalfitano nghĩ, cuốn sách cầm trên tay. Lạ, lạ quá. Chẳng hạn, cái dấu hoa thị duy nhất. Litrang: những bia đá trên đó người Araucanía khắc các bản văn của mình. Nhưng tại sao có cước chú cho litrang mà không có cho admapu hay epeutufe? Caciqua xứ Puerto Saavedra cho rằng ai cũng biết mấy chữ đó nghĩa là gì hay sao? Rồi lại còn cái câu về việc O’Higgins có phải là con hoang hay không nữa: Bernardo không phải là đứa con hoang như mô tả của nhiều sử gia, một số kèm sự thương hại, số khác không giấu nổi sự thỏa mãn. Ở đây ta có lịch sử hằng ngày của Chile, lịch sử của cá nhân, lịch sử đằng sau những cánh cửa đóng chặt. Thương hại cho người cha của đất nước bởi vì ông là một đứa con hoang. Hoặc không giấu nổi niềm thỏa mãn nào đó khi bàn đến chủ đề này. Thâm thúy quá nhỉ, Amalfitano nghĩ, và ông nhớ lại lần đầu tiên đọc cuốn sách của Kilapán, đọc mà chết vì cười, rồi ông nghĩ đến cái lối ông đang đọc nó lúc này, với cái gì đó như là tiếng cười song cũng với cái gì đó như nỗi buồn. Ambrosio O’Higgins mà là người Ireland thì nhất định là một chuyện đùa hay. Ambrosio O’Higgins lấy một người Araucanía làm vợ, nhưng theo luật admapu và thêm vào đó thậm chí còn tiến hành cả gapitun truyền thống hay là nghi thức bắt cóc, đó là Amalfitano thấy là một chuyện đùa rùng rợn, một chuyện đùa chỉ có thể gợi nghĩ đến bạo hành, hãm hiếp, một trò chơi khăm mà Ambrosio béo bày ra để có thể chơi người đàn bà Anh điêng một cách êm thắm. Mình không thể nghĩ đến một cái gì mà không thấy cái từ hãm hiếp nó thòi ra nhìn bằng cặp mắt nhỏ của loài có vú không ai bảo vệ ấy, Amalfitano nghĩ. Sau đó ông thiếp đi trên ghế, sách vẫn cầm trong tay. Có thể ông mơ thấy gì đó. Cái gì đó ngắn ngủi. Có thể ông mơ thấy thời thơ ấu của mình. Có thể là không.

♣ ♣ ♣

Đoạn ông thức dậy rồi làm đồ ăn cho con gái và cho mình. Vào tới phòng làm việc ông thấy mệt rã rời, không làm sao soạn bài để lên lớp hay đọc cái gì nghiêm túc được, thế nên ông đành quay lại với cuốn sách của Kilapán. Mười bảy bằng chứng. Bằng chứng số 1 có nhan đề Ngài sinh ở nước Araucanía. Bằng chứng như sau: “Yekmonchi1, gọi là Chile2, về địa lý và chính trị là tương đồng với nhà nước Hy Lạp, và, cũng như Hy Lạp, sự tạo thành một tam giác, nằm giữa vĩ tuyến 35 và vĩ tuyến 42, vĩ độ tương ứng.” Không tính đến cấu trúc câu (ở nơi đáng lẽ là “tạo thành” thì lại là “sự tạo thành” và thừa ít nhất hai dấu phẩy), điều thú vị nhất ở đoạn đầu này là cái khẩu khí nhà binh của nó, có thể nói vậy. Nó bắt đầu bằng một cú đấm thẳng vào cằm hay một cuộc tấn công toàn diện bằng hỏa lực vào chính giữa phòng tuyến kẻ thù. Cước chú 1 ghi rằng Yekmonchi có nghĩa là Nước, Quốc gia. Cước chú 2 khẳng định rằng Chile là một từ Hy Lạp dịch ra là “bộ tộc xa xôi”. Sau đó là đến mô tả địa lý về Yekmonchi Chile: “Trải dài từ sông Maullis đến sông Chilligüe, gồm cả phía Tây Argentina. Thành phố Mẹ, tức Chile, nói đúng là vậy, tọa lạc giữa sông Butaleufu và sông Toltén; cũng như nhà nước Hy Lạp, nó có những dân tộc đồng minh và cùng máu mủ bao quanh, các dân tộc này tuân lời các Küga Chiliches (tức là bộ tộc/Küga Chile/Chiliches), tức là tuân lời người Chile (Che: người dân, như Kilapán rất cẩn trọng nhắc lại cho ta nhớ), những người dạy cho họ về khoa học, nghệ thuật, thể thao và trên hết là khoa học chiến tranh.” Sau đó Kilapán thừa nhận: “Năm 1947 (mặc dù Amalfitano ngờ rằng ở đây sách in sai, đáng lẽ phải là năm 1974) tôi khai quật mộ phần của Kurillanka, nằm ở dưới Kuralwe chính, được đậy một tảng đá phẳng. Chỉ còn lại mỗi một katankura, một metawe, con vịt, một món trang trí bằng đá obsidian, như là một mũi tên để linh hồn của Kurillanka trả “phí” cho Zenpilkawe, người chèo đò Caron của người Hy Lạp, để ông này dẫn ngài băng qua biển trở về quê hương bản quán của ngài: một hòn đảo xa giữa biển. Các vật này hiện nằm rải rác tại các viện bảo tàng về Araucanía ở Temuco, tại Viện bảo tàng Abate Molina tương lai ở Villa Alegre và tại Viện bảo tàng Araucanía ở Santiago sẽ mở cửa cho công chúng trong thời gian sắp tới.” Nhắc đến Villa Alegre, Kilapán lại nhớ ra mà thêm vào một ghi chú thật kỳ lạ. Ghi chú như sau: “Ở Villa Alegre, trước gọi là Warakulen, hiện đang yên nghỉ di hài của Abate Juan Ignacio Molina, được đưa từ Ý về thành phố quê hương ông. Ông là giáo sư Đại học Bologna, nơi tượng chân dung ông ngự ở lối vào Đền Những Đứa Con Lỗi Lạc Của Nước Ý, giữa tượng Copernicus và tượng Galileo. Theo Molina thì có một mối dây huyết thống không thể nghi ngờ giữa người Hy Lạp và người Araucanía.” Ông Molina này là linh mục Dòng Tên và nhà tự nhiên học, ông sống từ năm 1740 đến năm 1829.

♣ ♣ ♣

Chẳng bao lâu sau hôm ở Los Zancudos, Amalfitano lại gặp con trai của trưởng khoa Guerra. Lần này anh ta ăn mặc như cao bồi, mặc dù anh ta đã cạo râu và sực mùi nước hoa Calvin Klein. Cho dù vậy, anh ta vẫn thiếu một thứ duy nhất để trông giống cao bồi thứ thiệt, là cái mũ. Cung cách anh ta bắt chuyện với Amalfitano thật đột ngột và không khỏi có phần bí ẩn. Lúc ấy đã chiều muộn, Amalfitano đang đi dọc một hành lang dài đến kỳ quặc của trường đại học mà vào giờ đó đã khá tối và vắng tanh, thì bỗng nhiên Marco Antonio từ trong một góc nhô ra như thể anh ta đã chuẩn bị sẵn một trò đùa không cười nổi hoặc là để tấn công ông. Amalfitano nhảy dựng lên, sau đó vung tay đấm một cách hoàn toàn máy móc. Tôi đây mà, Marco Antonio đây, con trai trưởng khoa nói, sau khi bị đấm thêm lần nữa. Sau đó hai người chào hỏi nhau và liền dịu xuống rồi cùng cất bước về phía vùng sáng hình chữ nhật nơi cuối hành lang, nó làm Marco Antonio nhớ tới chuyện những người bị hôn mê hoặc rơi vào tình trạng chết lâm sàng và sau đó nói họ đã thấy một hành lang tối, ở cuối hành lang ấy có ánh sáng trắng hoặc là ánh sáng chói lòa, đôi khi những người đó còn khẳng định mình đã thấy sự có mặt của những người thân đã mất, những người thân ấy chìa tay cho họ hoặc trấn an họ hoặc hối thúc họ quay về bởi vì cái giờ khắc hoặc cái tích tắc khi sự đổi thay kéo tới vẫn còn chưa đến. Ông nghĩ gì, giáo sư? Những người từng sắp chết họ bịa ra mấy chuyện ba láp ấy hay là đúng thế thật? Đấy chỉ là một giấc mơ của những người hấp hối hay là nó nằm trong địa hạt những gì có thể xảy ra? Tôi không biết, Amalfitano nói cụt lủn, bởi ông vẫn chưa vượt qua được cơn sợ của mình mà cũng không có tâm trạng để lặp lại cuộc gặp gỡ lần trước. Được, cậu Guerra nói, nhưng nếu ông muốn biết tôi nghĩ thế nào thì tôi không tin đó là thực. Người ta thấy cái họ muốn thấy và chẳng bao giờ cái người ta muốn thấy lại tương hợp với thực tại. Con người ta hèn cho đến hơi thở cuối cùng. Nói riêng giữa hai ta với nhau: giống người, nói chung, là loài gần gũi với chuột nhất ở trên đời.

♣ ♣ ♣

Mặc cho điều ông mong đợi (rũ bỏ được Marco Antonio Guerra ngay khi họ ra khỏi cái hành lang gợi nhớ đến sự sống sau cái chết), Amalfitano lại phải đi theo anh ta mà không kêu ca phàn nàn chi cả bởi vì con trai trưởng khoa là người cầm thư mời cho bữa ăn tối ngay hôm đó tại nhà hiệu trưởng Đại học Santa Teresa, tiến sĩ Pablo Negrete lừng lẫy tiếng tăm. Thế nên ông chui vào xe của Marco Antonio, và Marco Antonio lái xe đưa ông về nhà, kế đó, với một vẻ e dè mà Amalfitano thấy thật bất ngờ, anh ta bảo sẽ ngồi đợi ông bên ngoài, vừa đợi vừa trông xe, làm như ở khu Lindavista từng có trộm không bằng, trong khi Amalfitano tắm rửa thay đồ, và con gái ông cũng làm như ông, chả là cô cũng được mời, tuy cũng không hẳn là cô làm như ông, bởi vì đến dự bữa tối ấy con gái ông có thể mặc gì cũng được, nhưng ông, Amalfitano, tốt hơn là khi đến nhà tiến sĩ Negrete ông cần bét nhất cũng phải vét và cà vạt. Bữa tối ấy hóa ra lại chẳng có gì ghê gớm. Tiến sĩ Negrete chẳng qua là muốn gặp ông và đã đồ rằng hoặc được khuyên rằng gặp gỡ lần đầu tại phòng làm việc của ông trong tòa nhà hành chính thì sẽ lạnh nhạt hơn nhiều so với gặp gỡ lần đầu trong không gian ấm cúng tại nhà ông, quả thực vậy, đấy là một căn nhà xưa hai tầng bao quanh là một khu vườn sum suê với đủ thứ cây cối từ khắp Mexico và chẳng thiếu gì những góc râm mát nơi khách khứa có thể quây quần từng petit comité. Tiến sĩ Negrete là người trầm lặng, luôn trầm tư nghĩ ngợi, thích nghe người khác nói hơn tự mình dẫn dắt cuộc trò chuyện. Ông quan tâm tới Barcelona, hồi tưởng rằng hồi trẻ ông từng dự một hội nghị ở Praha, rồi nhắc tới một cựu giáo sư tại Đại học Santa Teresa, một người Argentina, hiện giờ đang giảng dạy ở Đại học California, và suốt thời gian còn lại ông ngồi im như thóc. Vợ ông ta, với những đường nét cho thấy bà chưa từng là một mỹ nhân song lại có một phong thái và tư chất nổi bật mà chồng bà không có, tỏ ra thân ái hơn nhiều với Amalfitano và nhất là với Rosa, cô khiến bà nhớ đến con gái út của bà, tên là Clara, giống với tên bà, đã nhiều năm nay sinh sống ở Phoenix. Đến một lúc trong bữa ăn Amalfitano cảm thấy mình nhận ra một cái nhìn trao đổi khá bồn chồn giữa hiệu trưởng và vợ ông. Trong mắt bà ông thoáng thấy cái gì đó có thể là sự căm ghét. Đồng thời, một nỗi sợ bất thần lướt qua mặt ông hiệu trưởng, thoắt nhanh như cái vỗ cánh của một con bướm. Nhưng Amalfitano nhận thấy nó và trong một thoáng (cái vỗ cánh thứ hai) cơn sợ của ông hiệu trưởng gần như lướt qua cả da ông. Khi ông trấn tĩnh lại và nhìn những vị khách khác thì ông nhận ra rằng chẳng ai nhận thấy cái bóng nhẹ tênh đó, như một hố phân đào vội bốc mùi nồng nặc kinh người.

♣ ♣ ♣

Nhưng ông lầm. Cậu Marco Antonio Guerra có nhận thấy. Và anh ta cũng nhận thấy rằng Amalfitano có nhận thấy. Đời chả có giá trị gì, anh ta nói vào tai Amalfitano khi họ đi ra vườn. Rosa ngồi cạnh vợ ông hiệu trưởng và giáo sư Pérez. Ông hiệu trưởng ngồi trên cái ghế bập bênh duy nhất trong vọng lâu. Trưởng khoa Guerra và hai giáo sư triết ngồi cạnh hiệu trưởng. Vợ các giáo sư tìm chỗ ngồi cạnh vợ hiệu trưởng. Giáo sư thứ ba chưa vợ thì vẫn đứng, cạnh Amalfitano và Marco Antonio Guerra. Lát sau thì một hầu gái, hầu như đã là một bà già, bước vào bê theo một cái khay to đùng đầy những cốc và ly, đặt lên một cái bàn bằng đá hoa cương. Amalfitano toan giúp bà ta, nhưng rồi ông nghĩ làm vậy có khi lại tỏ ra không ý tứ. Khi bà già lại vào mang thêm bảy cái chai để cheo la cheo leo, Amalfitano không thể kìm mình được nữa liền tiến tới giúp bà. Khi nhìn thấy ông, bà già trố mắt ra và cái khay bắt đầu tuột khỏi tay bà. Amalfitano nghe thấy một tiếng thét, tiếng thét nhỏ nực cười của một trong mấy bà vợ các giáo sư, và ngay lúc đó, giữa khi cái khay rơi, ông nhác thấy bóng của cậu Guerra chỉnh ngay mọi thứ về thế cân bằng hoàn hảo. Đừng lo, Chachita, ông nghe tiếng vợ hiệu trưởng nói. Sau đó ông nghe tiếng cậu Guerra, sau khi đã đặt các chai lên bàn, liền hỏi bà Clara trong hầm rượu nhà bà có mezcal Los Suicidas chính cống không. Và ông cũng nghe tiếng trưởng khoa Guerra nói: không cần để tâm tới thằng con tôi, nó toàn như vậy đấy. Rồi ông nghe tiếng Rosa nói: mezcal Los Suicidas, tên hay quá đi thôi. Rồi ông nghe tiếng vợ một ông giáo sư nói: tên thế mới là tên chứ, có một không hai. Rồi ông nghe tiếng giáo sư Pérez nói: sợ quá chừng, tôi cứ ngỡ bà ấy đánh rơi hết chứ. Rồi ông nghe thấy một giáo sư triết nói về âm nhạc norteño, để chuyển đề tài. Rồi ông nghe tiếng trưởng khoa Guerra nói sự khác biệt giữa một nhóm norteño miền Bắc và một nhóm ở bất cứ miền nào khác của Mexico là ở chỗ nhóm norteño luôn luôn dùng một cây phong cầm và một ghi ta, có đệm một cây bajo sexto tức ghi ta mười hai dây và một thứ brinco nào đấy. Rồi ông nghe tiếng ông giáo sư triết lúc trước ấy hỏi brinco là cái gì. Và ông nghe tiếng trưởng khoa đáp rằng brinco có thể là trống chẳng hạn, như là bộ trống của một ban nhạc rock, mà cũng có thể là trống định âm, và ở nhạc norteño thì brinco đúng điệu phải là một redova, tức là phiến gỗ khoét lõm vào, hoặc thường gặp hơn là một đôi dùi. Rồi ông nghe tiếng hiệu trưởng Negrete nói: đúng đấy. Và sau đó ông nhận một ly whiskey đoạn tìm khuôn mặt của người vừa ấn nó vào tay ông và gặp khuôn mặt cậu Guerra nom nhợt nhạt dưới ánh trăng.

♣ ♣ ♣

Bằng chứng 2, chắc chắn là bằng chứng thú vị nhất đối với Amalfitano, có tít rằng Ngài là con của người đàn bà Araucanía và mở đầu như sau: “Khi người Tây Ban Nha đến, người Araucanía lập hai kênh thông đạt từ Santiago: thần giao cách cảm và Adkintuwe55. Lautaro56, do có khả năng thần giao cách cảm ưu việt, được đưa lên miền Bắc cùng với mẹ từ khi còn nhỏ để phục vụ người Tây Ban Nha. Chính bằng hình thức này Lautaro đã góp phần vào sự bại vong của người Tây Ban Nha. Do những người thần giao cách cảm có thể bị diệt trừ dẫn đến chỗ kênh thông đạt bị cắt, người ta tạo ra Adkintuwe. Mãi cho tới sau năm 1700 người Tây Ban Nha mới biết đến phương pháp truyền tin này, bằng chuyển động của các cành cây. Họ lúng túng khi nhận ra rằng người Araucanía biết tất cả những gì diễn ra ở thành phố Concepción. Mặc dù họ phát hiện ra được Adkintuwe song chẳng bao giờ họ giải mã được nó. Họ chẳng bao giờ ngờ nổi người Araucanía có năng lực thần giao cách cảm, mà lại cho rằng người Araucanía ‘đi lại với quỷ’, và chính quỷ cho họ biết về các chuyện xảy ra ở Santiago. Từ thủ đô tỏa ra ba tuyến Adkintuwe: một tuyến dọc theo các pháo đài trên dãy Andes, một tuyến men theo bờ biển, tuyến thứ ba dọc theo thung lũng trung tâm. Con người sơ khai không biết đến ngôn ngữ; y giao tiếp bằng sóng não, như loài vật và cây cối vẫn làm. Khi đã cậy đến âm thanh cũng như động tác và cử động của tay để giao tiếp, y bắt đầu mất khả năng thần giao cách cảm, sự mất mát này càng gia tăng khi y giam mình trong thành phố mà xa rời khỏi thiên nhiên. Mặc dù người Araucanía có hai loại chữ viết - thừng thắt nút gọi là Prom57, và chữ viết hình tam giác gọi là Adentunemul58 - song họ không bao giờ từ bỏ thuật truyền tin bằng thần giao cách cảm; ngược lại, có một số Küga mà gia tộc rải rác khắp châu Mỹ, các đảo Thái Bình Dương và vùng cực Nam là chuyên gia về thuật này, vậy nên kẻ thù chẳng bao giờ có thể khiến họ bất ngờ được. Bằng thần giao cách cảm họ thường xuyên liên lạc với những di dân Chile ban đầu định cư ở Bắc Ấn Độ, ở đấy họ được gọi là người Aryan, sau đó đi về phía những cánh đồng Germania thuở ban sơ để rồi tiến xuống bán đảo Peloponnese, từ đó họ du hành đến Chile dọc theo tuyến đường truyền thống đến Ấn Độ và băng qua Thái Bình Dương.” Liền sau đó và chẳng hiểu do đâu, Kilapán viết: “Killenkusi là một nữ tư tế Machi59. Con gái bà là Kinturay phải lựa chọn giữa một đằng là nối nghiệp bà với một đằng là trở thành gián điệp; nàng chọn cái thứ hai và chọn tình yêu đối với người đàn ông Ireland; cơ hội này cho nàng niềm hy vọng có một đứa con mà, cũng như Lautaro và gã lai Alejo, sẽ được nuôi dạy ở chỗ những người Tây Ban Nha, và cũng như họ có thể một ngày đó dẫn dắt đám đông những người muốn đuổi các kẻ chinh phục về phía bên kia sông Maule, bởi vì luật Admapu cấm người Araucanía đánh nhau ở ngoài Yekmonchi. Hy vọng của nàng thành hiện thực và vào mùa xuân60 năm 1777, ở nơi gọi là Palpal, một người đàn bà Araucanía chịu cái đau sinh nở trong tư thế đứng, bởi vì truyền thống tuyên dạy rằng một đứa con mạnh mẽ thì không thể sinh ra từ một bà mẹ yếu ớt. Đứa con này đã đến và trở thành Người Giải Phóng Chile.”

♣ ♣ ♣

Các cước chú nói rất rõ, nếu như việc đó vẫn còn chưa được rõ, về việc Kilapán đã dong buồm đi trên loại tàu say nào. Cước chú 55 về Adkintuwe viết: “Sau nhiều năm người Tây Ban Nha cũng biết đến sự tồn tại của nó, nhưng chẳng bao giờ giải mã được nó.” Cước chú 56: “Lautaro, âm nhanh (trong tiếng Hy Lạp taros có nghĩa là nhanh).” Cước chú 57: “Prom, từ của người Hy Lạp dùng để chỉ Prometheus, người khổng lồ đã ăn cắp chữ viết của các thần linh để mang cho con người.” Cước chú 58: “Adentunemul, chữ viết bí mật gồm những hình tam giác.” Cước chú 59: “Machi, nhà tiên tri nữ. Từ động từ mantis trong tiếng Hy Lạp nghĩa là tiên tri, tiên đoán.” Cước chú 60: “Mùa xuân, Luật Admapu bắt buộc rằng trẻ con phải được thụ thai vào mùa hè, khi trái cây chín rộ; sao cho chúng sẽ ra đời vào mùa xuân khi đất thức dậy với sinh lực tràn đầy trọn vẹn; khi tất cả chim muông thú vật ra đời.”

♣ ♣ ♣

Từ đây có thể kết luận rằng, 1: tất cả người Araucanía hay hầu hết họ đều có khả năng thần giao cách cảm. 2: tiếng Araucanía có liên hệ gần gũi với ngôn ngữ của Homer. 3: người Araucanía đã chu du khắp địa cầu, nhất là đến Ấn Độ, Germania cổ sơ và bán đảo Peloponnese. 4: người Araucanía là những thủy thủ kiệt xuất. 5: người Araucanía có hai loại chữ viết, một loại dựa trên các nút thắt còn một loại dựa trên những hình tam giác, loại thứ hai này là bí mật. 6: bản chất của phương thức giao tiếp mà Kilapán gọi là Adkintuwe (và đã bị người Tây Ban Nha phát hiện song không hề giải mã được) là gì hãy còn chưa rõ lắm. Có lẽ đấy là gửi thông điệp dựa theo chuyển động của các cành cây tại những vị trí chiến lược tỉ như đỉnh đồi chăng? Tương tự như tín hiệu bằng khói của người da đỏ vùng thảo nguyên Bắc Mỹ chăng? 7: ngược lại, giao tiếp bằng thần giao cách cảm không bao giờ bị phát hiện và nếu đến một lúc nó thôi không còn hoạt động nữa thì ấy là do người Tây Ban Nha đã giết những nhà thần giao cách cảm. 8: mặt khác, thần giao cách cảm cũng cho phép người Araucanía hay người Chile thường xuyên duy trì liên lạc với người Chile di cư rải rác ở những nơi xa xôi cách trở như là tận Ấn Độ đông đúc hay Germania xanh tươi. 9: liệu từ đây có thể rút ra kết luận rằng Bernardo O’Higgins cũng là nhà thần giao cách cảm? Liệu có thể kết luận rằng chính tác giả, Lonko Kilapán, cũng là nhà thần giao cách cảm? Ắt là có, có thể kết luận như thế.

♣ ♣ ♣

Người ta cũng có thể suy diễn (và, nếu cố gắng một tí, cả thấy ra nữa) những điều khác, Amalfitano nghĩ trong khi vừa cần mẫn đo tâm trạng của mình vừa quan sát cuốn sách của Dieste treo trong bóng tối sân sau. Chẳng hạn, nhìn vào thời điểm sách này được xuất bản, 1978, nói cách khác là dưới thời độc tài quân sự, có thể luận ra rằng nó đã được xuất bản trong bầu không khí đắc thắng, cô đơn và sợ hãi ra sao. Chẳng hạn, có thể thấy một người đàn ông lịch lãm có vẻ ngoài của người da đỏ, hơi mất trí nhưng che giấu điều đó rất giỏi, đang giao dịch với người làm in ấn của nhà xuất bản Editorial Universitaria danh tiếng, tọa lạc trên phố San Francisco, số 454, ở Santiago, số tiền mà Sử gia Chủng tộc, Chủ tịch Liên đoàn Người Bản địa Chile và Thư ký Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Araucanía phải trả để người ta in cuốn sách nhỏ này là một số tiền quá cao mà ông Kilapán ra sức, một cách mơ mộng chứ không hiệu quả, mặc cả đòi giảm xuống, mặc dù tay quản lý nhà in biết rằng hiện giờ họ không hẳn là có quá nhiều việc phải làm nên ông ta hoàn toàn có thể giảm giá một chút cho ông Kilapán này, nhất là bởi ông này thề mình còn hai cuốn nữa viết xong rồi biên tập xong đâu đấy cả rồi (Các truyền thuyết Araucanía và truyền thuyết Hy Lạp và Nguồn gốc người châu Mỹ và mối liên hệ huyết thống giữa người Araucanía, người Aryan, người Đức thuở ban sơ và người Hy Lạp) và ông ta thề lên thề xuống là sẽ đem hai cuốn ấy đến đây, bởi vì, các ngài ơi, một cuốn sách được in ở Editorial Universitaria là một cuốn sách chỉ cần nhìn một cái là thấy nổi bật rồi, và chính lý lẽ sau cùng này là lý lẽ thuyết phục được nhà in, quản lý nhà in, tay lao dịch văn phòng chuyên lo liệu mấy vụ này đồng ý giảm giá cho ông ta tí chút. Động từ nổi bật. Cái từ nổi bật. A, a, a, a, Amalfitano hổn hển, ra sức thở trong khi đang lên cơn suyễn bất ngờ. A, Chile.

♣ ♣ ♣

Tuy nhiên vẫn có thể hình dung ra các viễn cảnh khác, dĩ nhiên, hoặc giả cũng có thể nhìn bức tranh buồn ấy từ những góc độ khác. Và cũng như cuốn sách bắt đầu bằng một cú đấm thẳng vào hàm (“Yekmonchi, gọi là Chile, về địa lý và chính trị là tương đồng với nhà nước Hy Lạp”), người đọc tích cực, người đọc mà Cortázar đã tiên cảm, có thể bắt đầu sự đọc bằng một cú đá vào tinh hoàn của tác giả, ngay từ đầu đã xem ông ta như một thằng người nộm, kẻ đầu sai phục dịch cho một tay đại tá nào đó trong ngành tình báo, hoặc có thể là của một ông tướng nào đấy tự tưởng tượng mình là trí thức, điều này xét ra cũng chẳng hiếm lắm, đây là Chile mà, trên thực tế điều ngược lại thì mới hiếm hơn, ở Chile quân nhân có thể xử sự như văn nhân còn văn nhân, để không bị dưới cơ, thì xử sự như quân nhân, và chính trị gia (thuộc mọi khuynh hướng) thì xử sự như văn nhân và như quân nhân, còn nhà ngoại giao thì xử sự như đám tiểu thiên sứ bị thiểu năng trí tuệ, bác sĩ và luật sư xử sự như lũ trộm, cứ thế vân vân và vân vân cho đến lộn mửa, trơ ra đến chẳng thể nản lòng được nữa. Nhưng trở lại với chủ đề ông đã khới ra bên trên, dường như cũng có khả năng Kilapán không phải là người viết cuốn sách này. Và nếu Kilapán không viết sách này thì cũng có thể Kilapán không có thật, tức là chẳng hề có Chủ tịch Liên đoàn Người Bản địa Chile, mà một trong nhiều lý do là bởi có lẽ không hề có Liên đoàn Người Bản địa Chile, cũng như không có Thư ký Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Araucanía nào, mà một trong nhiều lý do là bởi có lẽ chẳng hề có Viện Hàn lâm Ngôn ngữ Araucanía nào cả. Bịa hết. Chả có gì có thật hết. Dưới lăng kính này thì, Amalfitano vừa nghĩ vừa lắc đầu qua lại nhịp theo chuyển động đung đưa (rất nhẹ) của cuốn sách của Dieste phía bên kia cửa sổ, Kilapán rất có thể là một bút danh của Pinochet, bút danh của những đêm dài mất ngủ hoặc những buổi sáng dồi dào sung mãn của Pinochet, khi ông ta thức dậy lúc sáu giờ sáng hoặc năm rưỡi sáng và sau khi tắm vòi hoa sen rồi tập thể dục đôi chút thì giam mình trong thư viện để điểm qua những hành động coi thường của quốc tế, để nghiền ngẫm về tai tiếng của Chile ở nước ngoài. Nhưng chẳng có lý do gì để quá vui mừng. Văn của Kilapán nhất định có thể là văn của Pinochet, hẳn rồi. Nhưng nó cũng có thể là của Aylwin hay của Lagos. Văn của Kilapán có thể là văn của Frei (điều này cũng nói lên gì đấy) hay là văn của bất cứ tay tân phát xít cánh hữu nào. Văn của Lonko Kilapán không chỉ thâu tóm tất tật các phong cách của Chile mà còn tiêu biểu cho tất tật các khuynh hướng chính trị của xứ này, từ phe bảo thủ đến phe cộng sản, từ cánh tân tự do chủ nghĩa cho đến những người thuộc phái MIR còn sống sót. Kilapán là thứ tiếng Tây Ban Nha của giới thượng lưu được nói và viết ở Chile, trong những câu từ của nó bộc lộ không chỉ cái mũi thô ráp của tu viện trưởng Molina mà cả lò sát sinh của Patricio Lynch, những vụ đắm tàu không dứt của Esmeralda, sa mạc Atacama và lũ bò gặm cỏ, quỹ học bổng Guggenheim, các chính trị gia phe xã hội chủ nghĩa ca ngợi chính sách kinh tế của tập đoàn quân phiệt, những góc nơi người ta bán bánh bí ngô rán, đồ uống quốc hồn quốc túy mote con huesillo, bóng ma Bức tường Berlin làm những lá cờ đỏ bất động đâm ra gợn sóng, bạo hành gia đình, những con điếm có tấm lòng vàng, nhà ở rẻ mạt, cái mà ở Chile người ta gọi là nuôi phẫn uất còn Amalfitano gọi là điên.

♣ ♣ ♣

Nhưng thật ra cái mà ông tìm là một cái tên. Tên của người mẹ thần giao cách cảm đã sinh ra O’Higgins. Theo Kilapán: Kinturay Treulen, con gái của Killenkusi và Waramanke Treulen. Theo chính sử: Doña Isabel Riquelme. Đến điểm này rồi, Amalfitano quyết định thôi không ngắm cuốn sách của Dieste đung đưa (rất chậm) trong bóng tối nữa, mà ngồi nghĩ về cái tên của chính mẹ mình: Doña Eugenia Riquelme (thật ra là Doña Filia María Eugenia Riquelme Graña). Ông hơi giật mình. Trong khoảng năm giây, lông tóc ông dựng đứng lên. Ông ráng phá lên cười nhưng không nổi.

♣ ♣ ♣

Tôi hiểu ông, Marco Antonio Guerra nói với ông. Tôi muốn nói là, nếu không lầm, tôi cho rằng mình hiểu ông. Ông giống tôi và tôi giống ông. Chúng ta không hạnh phúc. Chúng ta sống trong một bầu không khí bóp nghẹt chúng ta. Chúng ta vờ như chẳng có gì xảy ra, nhưng mà có. Cái gì xảy ra? Chúng ta bị bóp nghẹt, mẹ kiếp. Ông xả xú páp theo cách của ông. Tôi thì đập người ta nhừ tử hoặc người ta đập tôi nhừ tử. Song không phải đập nhau linh tinh vớ vẩn mà là tàn phá kinh hoàng như tận thế. Tôi sẽ nói cho ông một bí mật. Thỉnh thoảng buổi tối tôi ra ngoài, đến những quán bar mà ông không tưởng tượng nổi đâu. Ở đấy tôi vờ làm thằng lại cái. Nhưng không phải thằng lại cái vớ va vớ vẩn nào đâu: một thằng lại cái mướt rượt, khụng khà khụng khiệng, ngạo đời, một đóa hoa cúc trong cái chuồng heo bẩn tưởi nhất Sonora. Dĩ nhiên, ở trong tôi không có một giọt nào lại cái hết, chuyện đó tôi có thể thề trên mộ bà mẹ quá cố của tôi. Nhưng tôi vờ là thế. Một thằng lại cái oắt con ngông nghênh lắm tiền nhìn thiên hạ bằng nửa con mắt. Thế rồi chuyện gì phải xảy ra thì nó xảy ra. Hai ba thằng kền kền mời tôi ra ngoài. Thế rồi bắt đầu tẩn nhau nhừ tử. Tôi biết và chả coi nó là gì. Đôi khi chính tụi nó lãnh đủ, nhất là khi tôi có súng. Những lần khác thì tôi lãnh đủ. Tôi đếch coi là gì cả. Tôi cần giải tỏa, mẹ kiếp. Đôi khi bạn bè tôi, dăm thằng bạn ít ỏi tôi có, những thằng trạc tuổi tôi hiện giờ đã ra trường và đang làm thầy cãi, tụi nó bảo tôi phải cẩn thận với chính tôi, bảo tôi là quả bom hẹn giờ, bảo tôi là đứa khổ dâm. Có một thằng, thằng này tôi thân lắm, bảo tôi rằng những chuyện như thế chỉ những người như tôi mới dám làm, bởi có gì thì tôi đã sẵn ông bố luôn luôn bảo lãnh tôi ra. Chỉ là trùng hợp thôi, không gì hơn. Tôi chưa bao giờ xin xỏ bố tôi. Sự thật là tôi không có bạn, tôi thích không có bạn. Ít nhất là không muốn có bạn người Mexico. Người Mexico chúng tôi thối nát từ bên trong, ông có biết không? Thối nát hết. Không trừ ai. Từ tổng thống nước cộng hòa cho tới cái thằng hề Subcomandante Marcos. Nếu tôi là Subcomandante Marcos, ông có biết tôi sẽ làm gì không? Tôi sẽ mở cuộc tấn công bằng toàn bộ quân của tôi vào bất cứ thành phố nào ở Chiapas, chỉ cần ở đó có một đơn vị đồn trú mạnh. Và ở đó tôi sẽ hy sinh đám dân da đỏ khốn khổ của tôi. Rồi sau đó có thể tôi sẽ đến sống ở Miami. Anh thích loại nhạc nào? Amalfitano hỏi. Nhạc cổ điển, giáo sư ạ, Vivaldi, Cimarosa, Bach. Còn sách, anh hay đọc sách gì? Hồi trước tôi đọc tất, giáo sư ạ, và đọc nhiều hẳn hoi, giờ thì chỉ đọc thơ. Chỉ có thơ là không nhiễm độc, chỉ có thơ là ngoài cuộc chơi. Tôi không biết ông có hiểu tôi không, giáo sư. Chỉ thơ thôi, và cũng chỉ một phần trong thơ chứ không phải tất cả, điều này cần nói rõ, là dưỡng chất lành mạnh chứ không phải cứt.

♣ ♣ ♣

Giọng của cậu Guerra, vỡ ra thành từng mảnh phẳng dẹt, vô hại, phát ra từ một dây leo, và anh ta nói: Georg Trakl là một trong những tác giả ưa thích của tôi.

♣ ♣ ♣

Việc Guerra nhắc đến Trakl khiến Amalfitano nghĩ, trong khi ông đứng lớp, hoàn toàn như một cái máy, về một hiệu thuốc gần nhà ông hồi ông còn ở Barcelona, chỗ ấy ông thường hay đến khi cần mua thuốc cho Rosa. Một trong các nhân viên làm ở đấy là một dược sĩ trẻ, chưa tới đôi mươi, cực gầy và đeo cặp kính to đùng, đêm đêm hay ngồi đọc sách, vì hiệu thuốc mở cửa hai mươi tư tiếng một ngày. Có đêm kia, trong khi cậu trai đang tìm trên các kệ, Amalfitano hỏi - chỉ là cho có chuyện - cậu thích sách gì và cậu đang đọc sách gì. Cậu dược sĩ trả lời mà không ngoái lại rằng cậu thích những sách loại như Hóa thân, Bartleby, Một tấm lòng chất phác, Bài ca mừng Giáng sinh. Rồi sau đó cậu nói cậu đang đọc Bữa sáng ở Tiffany’s của Capote. Bỏ qua một bên chuyện Một tấm lòng chất phác và Bài ca mừng Giáng sinh là chuyện kể chứ không phải sách, ta có thể thấy hé lộ ra đôi điều về sở thích của cậu dược sĩ trẻ măng ham đọc sách này, kẻ mà nếu ở một cuộc đời khác thì hẳn đã là Trakl hoặc có thể ngay ở cuộc đời này đã đang viết những bài thơ cũng đầy tuyệt vọng như những bài thơ của vị đồng nghiệp nước Áo xa xôi kia. Rõ ràng, không thể nhầm lẫn được, là cậu ta thích tác phẩm nhỏ hơn tác phẩm lớn. Cậu ta chọn Hóa thân chứ không chọn Vụ án, chọn Bartleby thay vì chọn Moby Dick, chọn Một tấm lòng chất phác thay vì chọn Bouvard và Pécuchet, và chọn Bài ca mừng Giáng sinh chứ không chọn Câu chuyện hai thành phố hay Hồ sơ Pickwick. Thật là một nghịch lý đáng buồn, Amalfitano nghĩ. Vậy là ngay cả những dược sĩ mê sách cũng sợ không dám chọn những tác phẩm lớn, bất toàn, ào ào dữ dội, những cuốn sách mở ra con đường đến cái chưa biết. Họ chọn những bài tập hoàn hảo của các bậc thầy vĩ đại. Hay cái tương tự như thế: họ muốn xem các bậc thầy vĩ đại so gươm tập luyện, nhưng họ chẳng hề muốn biết về những cuộc giao tranh đích thực, khi mà các bậc thầy vĩ đại chiến đấu chống lại cái gì đó, cái gì đó làm tất cả chúng ta khiếp sợ, cái gì đó làm ta rúm lại và thúc ta lao tới, giữa máu me giữa những vết tử thương và mùi hôi nồng nặc.

♣ ♣ ♣

Đêm đó, trong khi những lời lẽ hùng hồn của cậu Guerra vẫn còn đang vang vọng dưới đáy sâu trí não ông, Amalfitano mơ thấy mình gặp triết gia cộng sản cuối cùng của thế kỷ hai mươi giữa một khoảnh sân bằng đá hoa cương hồng. Ông ta nói tiếng Nga. Hay đúng hơn: ông ta đang hát một bài bằng tiếng Nga trong khi thân hình đồ sộ của ông ta len lỏi về phía một lô đồ gốm Ý có vạch màu đỏ sậm nổi bật trên nền đơn điệu của khoảnh sân giống như một loại miệng núi lửa hay nhà tiêu công cộng. Triết gia cộng sản cuối cùng mặc com lê màu tối, thắt cà vạt màu thiên thanh và tóc ngả muối tiêu. Mặc dù gây ấn tượng là có thể quỵ xuống bất cứ lúc nào, song ông ta vẫn cứ thẳng người như có phép mầu. Bài hát không thực sự thống nhất từ đầu đến cuối, thỉnh thoảng lại có chen vào những từ tiếng Anh hoặc Pháp thuộc những bài hát khác, những bài pop ballad hoặc tango, những giai điệu tôn vinh sự say xỉn hoặc tình yêu. Tuy nhiên những chỗ xen ngang đó đều ngắn và rời rạc và chẳng mấy chốc ông ta quay trở về bài hát ban đầu, bằng tiếng Nga, lời của nó Amalfitano không hiểu (mặc dù trong giấc mơ, cũng như trong các sách Phúc âm, người ta thường có năng khiếu ngôn ngữ), tuy nhiên ông cảm thấy lời hát hết sức buồn, đó là câu chuyện hay điếu văn về một người chèo thuyền sông Volga lênh đênh suốt đêm trên nước và kể lể với vầng trăng về số phận buồn của những con người cứ phải sinh ra rồi chết. Khi rốt cuộc triết gia cộng sản cuối cùng cũng đến được chỗ miệng núi lửa hay nhà tiêu công cộng, Amalfitano sửng sốt nhận ra đó chả phải ai khác mà chính là Boris Yeltsin. Đây mà là triết gia cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản ư? Mình đã biến thành cái thứ mất trí nào vậy nếu như mình nằm mơ thấy ba cái thứ xuẩn ngốc ba láp này? Tuy nhiên, giấc mơ này lại hòa hợp với tâm hồn Amalfitano. Không phải ác mộng. Và nó cũng cho ông một cảm giác thư thái nhẹ như lông hồng. Thế rồi Boris Yeltsin nhìn ông với vẻ tò mò, làm như Amalfitano là người đã xâm phạm vào giấc mơ của ông ta chứ không phải ông ta xâm phạm vào giấc mơ của Amalfitano. Và ông ta nói: nghe cho kỹ lời tôi đây, đồng chí. Tôi sẽ giải thích chân thứ ba của chiếc bàn người là cái gì. Tôi sẽ giải thích cho đồng chí hiểu. Rồi thì đồng chí để cho tôi yên. Đời là cầu và cung, hoặc cung và cầu, xét cho cùng thì chỉ có thế, nhưng vậy thì không thể sống được. Cần phải có cái chân thứ ba để cho cái bàn không rơi tõm vào trong hố rác của lịch sử, rồi đến lượt nó hố rác của lịch sử cũng chỉ chực rơi tõm vĩnh viễn vào trong hố rác của hư vô. Nên đồng chí ghi chú đi. Phương trình là thế này: cung + cầu + cái thần kỳ. Mà cái thần kỳ là gì? Cái thần kỳ là anh hùng ca là sex là sương mù Dionysos và trò chơi. Rồi sau đó Yeltsin ngồi lên miệng núi lửa hay lên cầu tiêu và giơ lên cho Amalfitano thấy những ngón tay ông ta bị thiếu rồi kể về thời thơ ấu của mình về dãy Ural về Siberia và về một con cọp trắng lang thang khắp những vùng tuyết trắng mênh mông vô tận. Sau đó ông ta rút trong túi áo ra một chai vodka dẹt mà nói:

“Chắc là đến lúc uống một ngụm được rồi đây.”

Và sau khi ông ta đã say khướt rồi liếc ông giáo sư Chile tội nghiệp bằng cái liếc nhìn hiểm ác của gã thợ săn, ông ta lại hát, có khi còn mạnh mẽ hùng hồn hơn cả lúc trước, một việc tưởng chừng như không thể. Rồi sau đó ông ta biến mất, bị cái miệng núi lửa có vằn đỏ hoặc cái nhà tiêu có vạch đỏ kia nuốt mất và Amalfitano còn lại một mình không dám nhìn xuống cái hố sâu, nghĩa là ông không có cách nào khác ngoài thức dậy.