← Quay lại trang sách

PHẦN BA PHẦN VỀ FATE

Chuyện đó thảy bắt đầu khi nào? y nghĩ. Mình chìm xuống là vào lúc nào? Một cái hồ Aztec tối đen, dường như quen. Ác mộng. Làm sao mình thoát khỏi được? Làm sao làm chủ được tình thế? Và các câu hỏi khác tự đến: có thật là y muốn thoát ra không? Có thật là y muốn bỏ lại tất cả phía sau không? Và y cũng nghĩ: cái đau chả còn quan trọng nữa. Và nữa: có lẽ tất cả bắt đầu với cái chết của mẹ mình. Và nữa: cái đau chả hệ trọng gì, miễn sao nó đừng tệ hơn, miễn sao nó đừng có trở nên không chịu nổi. Và nữa: địt, đau, địt lại đau. Đừng để ý, đừng để ý. Xung quanh toàn ma là ma.

♣ ♣ ♣

Khi mẹ Quincy Williams mất y ba mươi tuổi. Một hàng xóm gọi điện đến chỗ y làm…

“Cháu ơi,” bà ta nói. “Edna chết rồi.”

Y hỏi bà chết khi nào. Y nghe tiếng người đàn bà sụt sịt khóc bên kia đầu dây, rồi những giọng khác, có lẽ cũng đàn bà. Y hỏi chết ra sao. Không ai nói gì, y liền gác máy. Y quay số nhà mẹ y.

“Ai đó?” y nghe một người đàn bà nói bằng giọng giận dữ.

Y nghĩ: mẹ mình xuống địa ngục rồi. Y lại gác máy. Gọi lại. Một đàn bà trẻ trả lời y.

“Tôi là Quincy, con của Edna Miller,” y nói.

Người đàn bà kêu lên gì đó y không hiểu, rồi thoáng sau một người đàn bà khác đến cầm điện thoại. Y yêu cầu nói chuyện với người hàng xóm. Bả đang nằm, người đàn bà nói, bả mới lên cơn đau tim, Quincy ạ, chúng tôi đang chờ xe cấp cứu tới chở bả đi nhà thương. Y không dám hỏi về mẹ mình. Y nghe một giọng đàn ông chửi thề. Người đàn ông chắc hẳn đang đứng ở hành lang và cửa nhà mẹ y chắc đang mở. Y đặt tay lên trán, chờ, không gác máy, chờ ai đó giải thích sự tình. Hai giọng đàn bà trách móc người đàn ông vừa chửi. Họ nói ra một cái tên đàn ông, song y không nghe rõ.

Người phụ nữ đang gõ máy ở bàn bên cạnh hỏi có chuyện gì à. Y giơ tay lên như thể y đang nghe chuyện gì quan trọng lắm và lắc đầu. Cô kia tiếp tục gõ. Quincy đợi một chút, gác máy, mặc cái áo khoác đang vắt trên lưng ghế rồi bảo y phải đi.

♣ ♣ ♣

Khi y đến chỗ căn hộ của bà mẹ, người duy nhất y gặp là một cô bé mười lăm tuổi đang ngồi sofa xem tivi. Cô đứng dậy khi y bước vào. Cô chắc phải cao chừng một mét tám lăm và rất mảnh mai. Cô mặc đồ jean và khoác ngoài một áo váy màu đen in hoa vàng, rất rộng, giống như áo bờ lu.

“Bà ấy đâu?” y hỏi.

“Trong phòng ngủ,” cô bé đáp.

Mẹ y nằm trên giường, mắt nhắm, ăn mặc như thể sắp đi ra phố. Người ta thậm chí còn thoa son môi cho bà. Chỉ thiếu mỗi đôi giày. Quincy đứng một lát nơi khung cửa, nhìn hai bàn chân bà: hai ngón chân cái bà có những vết sần và hai gót chân bà có những cục chai, những cục chai to chắc hẳn từng làm bà đau. Nhưng y nhớ rằng mẹ y thường đến chỗ một bác sĩ chuyên khoa chân trên phố Lewis, một tay bác sĩ Johnson nào đó, luôn luôn là người đó, thành thử xét cho cùng mấy cục chai chắc cũng chẳng làm phiền bà lắm. Đoạn y nhìn mặt bà: cứ như đúc bằng sáp.

“Em đi đây,” cô bé từ ngoài phòng khách nói vọng vào.

Quincy ra khỏi phòng ngủ và định đưa cho cô một tờ hai chục, nhưng cô nói cô không cần tiền. Y cố nài. Cuối cùng cô bé nhận tờ bạc và đút vào túi quần jean. Để làm vậy cô phải lật cái áo váy lên đến hông. Cô trông như một nữ tu, Quincy nghĩ, hoặc như thể là thành viên một giáo phái nguy hiểm. Cô bé đưa cho y một mẩu giấy trên đó ai đấy đã ghi số điện thoại của một dịch vụ mai táng trong khu vực.

“Họ sẽ lo liệu tất,” cô nói với vẻ nghiêm trang.

“Được rồi,” y nói.

Y hỏi về bà hàng xóm.

“Bà ấy nằm viện rồi,” cô bé nói. “Chắc người ta đang đặt máy trợ tim.”

“Máy trợ tim?”

“Phải,” cô bé nói, “đặt vào tim bà ấy.”

Khi cô bé đi rồi, Quincy nghĩ rằng mọi người trong tòa nhà này và cả khu lân cận đều yêu mến mẹ y, nhưng bà hàng xóm của mẹ y, mà y không nhớ rõ mặt lắm, thì họ còn yêu mến hơn thế nữa.

♣ ♣ ♣

Y gọi điện đến chỗ dịch vụ mai táng và nói chuyện với một người tên Tremayne. Y nói y là con trai của Edna Miller. Tremayne vừa xem sổ sách vừa ngỏ lời phân ưu mấy lần liền, cho đến khi anh ta tìm thấy tờ giấy đang tìm. Đoạn anh ta bảo Quincy đợi và chuyển máy cho một người tên Lawrence. Lawrence hỏi y muốn làm lễ mai táng loại nào.

“Đơn giản mà chân tình,” Quincy nói. “Thật đơn giản, thật chân tình.”

Cuối cùng họ thỏa thuận rằng mẹ y sẽ được hỏa táng, và lễ mai táng, để phòng xa những tình huống không lường trước được, sẽ diễn ra chiều hôm sau, ở nhà mai táng, lúc bảy giờ. Đến bảy giờ bốn lăm sẽ xong xuôi tất. Y hỏi liệu có thể làm sớm hơn không. Câu trả lời là không. Rồi ông Lawrence tế nhị đề cập tới chuyện tiền. Chẳng vấn đề gì. Quincy muốn biết liệu y nên gọi cảnh sát hay gọi nhà thương. Không, ông Lawrence nói, vụ ấy đã có bà Holly lo. Quincy lấy làm băn khoăn bà Holly là ai và không đoán được.

“Bà Holly là hàng xóm của bà mẹ quá cố của ông đấy,” ông Lawrence nói.

“Được rồi,” Quincy nói.

Cả hai cùng im lặng một lát, làm như đang cố nhớ lại hay là lắp ráp lại khuôn mặt của Edna Miller và bà hàng xóm của bà. Ông Lawrence hắng giọng. Ông hỏi liệu Quincy có biết mẹ y thuộc giáo hội nào không. Y tự hỏi liệu mình có thiên hướng thích đạo nào hơn đạo nào không. Quincy bảo mẹ y thuộc Giáo hội Cơ đốc Thiên thần Sa ngã. Mà chắc là không, có lẽ tên nó khác cơ. Y không nhớ. Ông nói đúng, ông Lawrence nói, nó có tên khác, là Giáo hội Công giáo Thiên thần Cứu chuộc. Ừ đúng đấy, Quincy nói. Và y nói thêm là y chẳng có thiên hướng tôn giáo nào sất. Miễn nghi lễ Cơ đốc là được.

♣ ♣ ♣

Đêm đó y ngủ trên sofa trong nhà mẹ y và chỉ vào trong phòng bà một lần để liếc nhìn cái xác. Hôm sau, sáng tinh mơ, người của nhà tang lễ tới mang bà đi. Y dậy mở cửa cho họ vào, đưa séc cho họ, rồi nhìn họ khênh cỗ quan tài gỗ thông xuống cầu thang. Đoạn y lại ngủ tiếp trên sofa.

Khi thức dậy y nghĩ mình vừa mơ thấy một bộ phim vừa xem mới đây. Nhưng mọi cái đều khác. Các nhân vật đều đen, thành thử cuốn phim trong giấc mơ giống như là âm bản của bộ phim thực. Và những chuyện xảy ra cũng khác nữa. Cốt truyện thì giống, các sự kiện và biến cố đều giống, nhưng kết cục thì khác và đôi khi sự tình có một bước ngoặt bất ngờ và chuyển thành một cái gì khác hoàn toàn. Tuy nhiên, kinh khủng hơn cả là trong khi mơ y biết rằng mọi chuyện không nhất thiết phải như thế, y nhận ra sự giống nhau với bộ phim nọ, y cho rằng mình hiểu cả hai bộ phim đều dựa trên cùng một tiền đề, và nếu bộ phim y đã xem là bộ phim thực thì bộ phim kia, cái mà y mơ thấy, ắt hẳn là một nhận xét có lý, một sự phẩm bình có lý chứ không nhất thiết là một ác mộng. Mọi sự bình phẩm xét cho cùng đều là một ác mộng, y nghĩ giữa khi rửa mặt trong căn nhà nơi không còn cái xác của mẹ y.

Y cũng nghĩ đến điều hẳn bà sẽ nói với y. Gánh vác khổ đau đi, sao cho đáng mặt đàn ông.

♣ ♣ ♣

Ở chỗ làm ai cũng gọi y là Oscar Fate. Khi y quay lại chẳng ai nói gì với y. Chẳng có lý do gì để nói bất cứ cái gì. Y bỏ ra chút thời gian để xem lại các ghi chép của mình về Barry Seaman. Cô gái bàn kế bên không có mặt. Đoạn y cho sổ ghi chép vào hộc bàn khóa lại và đi ăn. Trong thang máy y chạm trán tổng biên tập tờ tạp chí, ông này đi cùng một thiếu phụ trẻ và béo chuyên viết về những kẻ giết người vị thành niên. Họ gật đầu chào nhau rồi đường ai nấy đi.

Y ăn món xúp hành và trứng tráng ở một nhà hàng ngon mà rẻ cách đó hai khối phố. Từ hôm qua y chưa ăn gì nên ăn vào y thấy dễ chịu hẳn ra. Khi y trả tiền xong và dợm đi ra, một người làm ở ban thể thao gọi y tới mời một cốc bia. Trong khi ngồi chờ ở quầy bar, người này bảo y là sáng hôm đó tay phóng viên trưởng tiểu ban quyền Anh đã chết ở ngoại ô Chicago. Thật ra gọi bằng “tiểu ban” chỉ là để nghe cho oai, bởi vì tay phóng viên vừa chết kia là người duy nhất chuyên viết về quyền Anh trong tòa soạn.

“Làm sao hắn chết?” Fate hỏi.

“Mấy thằng da đen nào đó ở Chicago đâm chết hắn,” người kia nói.

Tay bồi đặt một suất hamburger lên quầy bar. Fate uống cạn cốc bia, vỗ vai người kia rồi bảo y phải đi. Khi tới chỗ cánh cửa kính y quay lại ngắm cảnh nhà hàng đông khách và lưng của tay làm ở ban thể thao, nhìn những người đi thành cặp, vừa ăn hoặc nói chuyện vừa nhìn đăm đăm vào mắt nhau, nhìn ba tay bồi chẳng bao giờ yên một chỗ. Đoạn y mở cửa bước ra ngoài phố, lại nhìn vào bên trong nhà hàng, song khi có lớp kính ngăn giữa thì mọi thứ trông khác hẳn. Y cất bước đi.

♣ ♣ ♣

“Khi nào cậu định lên đường, Oscar?” trưởng ban của y hỏi.

“Mai.”

“Cậu đã có tất cả những gì cần thiết chưa, cậu đã chuẩn bị chưa?”

“Xong hết rồi,” Fate nói. “Mọi thứ sẵn sàng rồi.”

“Thế là được đấy, con à,” sếp nói. “Cậu nghe chuyện Jimmy Lowell bị tụi nó thịt chưa?”

“Tôi có nghe qua.”

“Ở Paradise City, gần Chicago,” sếp nói. “Họ nói Jimmy có con bồ ở đó. Con đĩ nào đấy kém hai mươi tuổi, có chồng rồi.”

“Jimmy bao nhiêu tuổi?” Fate hỏi, chẳng chút quan tâm.

“Lão ấy chắc phải năm lăm sáu chục,” sếp nói. “Cảnh sát tóm thằng chồng con nhỏ, nhưng người của ta ở Chicago nói con nhỏ chắc cũng có nhúng tay vào.”

“Jimmy chẳng phải là một tay bự con nặng cỡ trăm ký hay sao?” Fate nói.

“Không, Jimmy không bự con cũng chẳng nặng trăm ký. Hắn cao mét bảy, chắc vậy, nặng chừng tám chục ký,” sếp nói.

“Chắc tôi lầm hắn với ai khác,” Fate nói, “một tay bự con có vài lần ăn trưa với Remy Burton. Tôi hay gặp hắn trong thang máy.”

“Không,” sếp nói, “Jimmy hầu như chả bao giờ tới văn phòng. Hắn toàn ở trên đường. Mỗi năm hắn thò mặt tới đây cùng lắm là một lần. Chắc hắn sống ở Tampa, có khi một cái nhà hắn cũng chả có, suốt đời toàn sống trong khách sạn với trên máy bay thôi.”

♣ ♣ ♣

Y tắm và không cạo râu. Y nghe các tin nhắn trên máy trả lời điện thoại. Y để tập hồ sơ Barry Seaman mang từ văn phòng về lên bàn. Y mặc quần áo sạch rồi ra khỏi nhà. Bởi còn thì giờ nên y đến nhà mẹ y trước tiên. Y để ý thấy có gì đó bốc mùi khó ngửi. Y vào bếp và khi không thấy có gì đang thối rữa cả y liền buộc túi rác lại rồi mở cửa sổ. Đoạn y ngồi lên sofa và bật tivi lên. Trên một cái kệ gần tivi có vài cuốn băng video. Y thoáng nghĩ hay mình xem thử mấy cuốn băng, song vừa nghĩ tới là y lại gạt đi ngay. Chắc là mấy cuốn băng này mẹ y dùng để thu lại vài chương trình đặng xem sau, vào ban đêm. Y cố nghĩ đến chuyện gì đó nhẹ nhàng dễ chịu. Y cố mường tượng ra tất cả những việc mình phải làm. Không được. Sau khi ngồi im hoàn toàn trong một chốc, y tắt tivi, nhặt chùm chìa khóa và túi rác, rời căn hộ. Trước khi xuống cầu thang y gõ cửa nhà hàng xóm. Không ai thưa. Ra đến ngoài phố y ném túi rác vào một xe chở rác đã đầy ụ.

Đám tang đơn giản và hết sức nhanh gọn. Y ký vài tờ giấy. Y viết một tấm séc khác. Y nhận lời chia buồn trước tiên là của Tremayne, sau đó của ông Lawrence, ông này xuất hiện vào phút chót khi Fate sắp sửa ra về mang theo bình đựng tro hài cốt bà mẹ. Dịch vụ của chúng tôi có làm ông hài lòng không? ông Lawrence hỏi. Trong buổi lễ, y lại nhìn thấy cô bé cao nhồng kia ngồi tít đầu kia phòng. Cô ăn mặc cũng y như hôm trước đó, đồ jean, choàng bên ngoài bộ áo váy đen có những bông hoa vàng. Y nhìn cô và cố vẫy tay chào tỏ vẻ thân thiện, nhưng cô không nhìn về phía y. Còn lại ở đó toàn người lạ, tuy hầu hết là phụ nữ, nên y đồ rằng họ là bạn bè của mẹ y. Cuối cùng, hai người trong số đó lại gần nói những lời y không hiểu, chắc an ủi hoặc trách móc gì đó. Y đi bộ về căn hộ của mẹ. Y đặt bình tro cốt cạnh mấy cuốn băng video rồi bật tivi. Căn hộ không còn mùi khó ngửi nữa. Toàn bộ ngôi nhà im phăng phắc, tuồng như không có ai hay tuồng như ai nấy đều đã đi ra ngoài làm việc gì cấp bách. Nhìn ra cửa sổ y thấy mấy đứa trẻ choai choai đang chơi đùa và nói chuyện (hoặc bày mưu tính kế) nhưng mỗi lúc một việc, tức là, chúng chơi một chút, ngừng, tụ tập lại, nói chuyện một phút, rồi lại chơi, rồi lại ngừng và rồi lặp lại tất cả thêm lần nữa, cứ thế.

Y tự hỏi là trò chơi gì vậy, liệu những lúc tạm ngưng để nói chuyện có phải là một phần của trò chơi hay đấy là dấu hiệu rõ rành cho thấy chúng không biết luật chơi. Y quyết định đi tản bộ một chút. Sau một lát y thấy đói, liền vào một nhà hàng Trung Đông (Ai Cập hay Jordan, y chẳng biết), ở đó họ dọn cho y ăn một cái sandwich thịt cừu xay. Ra đến bên ngoài y bỗng thấy buồn nôn. Trong một con hẻm tối y nôn thịt cừu ra và cảm thấy vị đắng cùng vị cay ở trong mồm. Y thấy một người đàn ông đẩy xe bán xúc xích. Y gọi người này lại hỏi mua một lon bia. Người kia nhìn Fate làm như y đang phê thuốc rồi bảo y rằng anh ta không được phép bán đồ uống có cồn.

“Anh có cái gì bán cho cái nấy,” Fate nói.

Người kia đưa cho y lon Coca-Cola. Y trả tiền rồi nốc một hơi hết sạch chỗ Coca-Cola trong khi người kia đẩy xe đi khỏi trên con phố đèn thắp sáng tù mù. Lát sau y gặp một rạp chiếu phim. Y nhớ hồi nhỏ y từng xem biết bao buổi chiều ở đó. Y quyết định vào, mặc dù phim bắt đầu chiếu được một lúc rồi, người bán vé báo cho y biết vậy.

♣ ♣ ♣

Y chỉ ngồi xem hết một cảnh. Một người da trắng bị ba cảnh sát da đen bắt. Thay vì đưa về đồn, đám cảnh sát điệu hắn đến một bãi đáp máy bay. Ở đó, kẻ bị bắt gặp cảnh sát trưởng, ông này cũng da đen. Tay bị bắt chẳng phải đồ ngu, anh ta đoán ra ngay là hội này làm việc cho Lực lượng Chống Ma túy. Thông qua những lời thì thào bóng gió và những quãng lặng hùng hồn, họ đạt tới kiểu như một giao ước. Trong khi họ nói chuyện, người da trắng nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh ta thấy đường băng và một chiếc máy bay Cessna đang chạy về phía một đầu đường băng. Họ dỡ từ trên máy bay xuống một chuyến hàng cocain. Viên cảnh sát mở các hộp và dỡ các bánh heroin đóng thành khuôn giống như gạch kia ra là người da đen. Cạnh hắn, một cảnh sát da đen khác đang ném các viên gạch vào một cái thùng phuy lửa, giống như loại dân vô gia cư hay dùng để sưởi ấm lúc đêm đông. Nhưng các cảnh sát này không phải dân du thủ du thực. Họ là đặc vụ của Lực lượng Chống Ma túy, ăn mặc đàng hoàng, là viên chức chính quyền. Người da trắng thôi nhìn ra ngoài cửa sổ mà ngoảnh lại chỉ cho cảnh sát trưởng thấy người của ông ta toàn da đen. Họ có động lực hơn, cảnh sát trưởng nói. Đoạn ông nói: Giờ anh đi được rồi. Khi người da trắng đi rồi, cảnh sát trưởng mỉm cười nhưng nụ cười của ông nhanh chóng chuyển thành cái nhệch mồm dữ tợn. Đúng lúc đó Fate đứng dậy đi tới toilet, nôn ra nốt chỗ thịt cừu còn lại trong dạ dày. Sau đó y bước ra đường và quay về nhà mẹ.

♣ ♣ ♣

Trước khi vào nhà, y gõ cửa nhà hàng xóm. Một phụ nữ ít nhiều trạc tuổi y ra mở cửa. Chị ta đeo kính, tóc bới lên quấn một cái khăn turban kiểu châu Phi màu xanh lục. Y giải thích mình là ai và xin gặp người hàng xóm. Người đàn bà nhìn vào mắt y rồi mời y vào. Phòng khách giống như phòng khách nhà mẹ y, cả bàn ghế cũng giống. Trong phòng y thấy có sáu đàn bà ba đàn ông. Vài người đang đứng hoặc tựa vào khung cửa bếp, nhưng hầu hết đang ngồi.

“Tôi là Rosalind,” người đàn bà quấn khăn nói. “Mẹ anh với mẹ tôi là bạn rất thân.”

Fate gật. Từ phía trong căn hộ vọng ra tiếng nức nở. Một trong mấy phụ nữ đứng dậy đi vào phòng ngủ. Khi chị ta mở cửa tiếng nức nở nghe to hơn, song khi cửa đóng thì không nghe thấy nữa.

“Em gái tôi đấy,” Rosalind nói vẻ mệt mỏi. “Anh dùng cà phê nhé?”

Fate đáp vâng. Khi người đàn bà đi vào bếp, một trong mấy người đàn ông đang đứng liền lại gần hỏi y có muốn gặp bà Holly không. Y gật. Người kia liền dẫn y vào phòng ngủ nhưng anh ta lại nán lại bên ngoài, bên kia cửa. Xác của bà hàng xóm được đặt trên giường và bên cạnh giường y thấy có một phụ nữ quỳ gối cầu nguyện. Ngồi trên một cái ghế bập bênh gần cửa sổ là cô bé mặc đồ jean và áo váy đen in hoa vàng. Mắt cô đỏ hoe và cô nhìn y như thể chưa từng gặp y bao giờ.

Khi ra khỏi phòng ngủ y ngồi lên mép một chiếc sofa đã có mấy bà đang ngồi nói chuyện gióng một. Khi Rosalind đặt một tách cà phê vào tay y, y liền hỏi chị ta mẹ chị ta chết khi nào. Chiều nay, Rosalind nói bằng giọng bình thản. Bà ấy vì sao chết? Chết già, Rosalind nói với một nụ cười. Khi về nhà, Fate nhận ra mình vẫn đang cầm tách cà phê. Y thoáng nghĩ hay mình quay lại nhà hàng xóm để trả, nhưng nghĩ lại y thấy tốt hơn hẵng để đến mai. Y không thể uống cà phê. Y đặt cái tách cạnh mấy cuốn băng video và bình tro cốt mẹ y, rồi bật tivi, tắt đèn và duỗi mình trên sofa. Y tắt tiếng tivi.

♣ ♣ ♣

Sáng hôm sau, mở mắt, cái đầu tiên y thấy là một bộ phim hoạt hình. Một bầy chuột đang chạy qua thành phố, vừa chạy vừa kêu những tiếng chít chít không lời. Y chộp cái điều khiển rồi chuyển kênh. Khi gặp kênh có tin tức, y liền bật tiếng, không to lắm, rồi trở dậy. Y rửa mặt rửa cổ, và trong khi lau mình y nhận ra rằng cái khăn treo trên giá kia hầu như chắc chắn là cái khăn cuối cùng mẹ y đã dùng. Y ngửi cái khăn song không nhận ra được mùi gì quen thuộc. Trong tủ buồng tắm có vài chai thuốc và vài lọ đựng thứ kem dưỡng ẩm hay chống viêm nào đấy. Y gọi điện đến cơ quan xin nói chuyện với trưởng ban của mình. Người duy nhất có mặt ở đó là cô gái ngồi bàn bên cạnh, y liền nói chuyện với cô ta. Y nói với cô là hôm nay y không đến tòa báo bởi vì vài tiếng nữa y định tới Detroit. Cô ta nói cô biết rồi và chúc y thuận buồm xuôi gió.

“Ba hôm, có khi bốn hôm nữa tôi về,” y nói.

Đoạn y gác máy, vuốt cho thẳng sơ mi, mặc áo khoác, soi mình trong tấm gương nơi cửa, cố buộc mình phải tươi lên mà không được. Đã đến lúc phải quay trở lại làm việc. Y đứng đặt một tay lên nắm đấm cửa, tự hỏi không biết có nên mang bình đựng tro cốt của mẹ về nhà mình không. Đi về rồi mình sẽ làm, y nghĩ, rồi mở cửa.

♣ ♣ ♣

Về đến nhà, y chỉ đủ thì giờ cho vào túi xách bộ hồ sơ Barry Seaman, dăm cái sơ mi, mấy đôi tất và vài quần lót. Y ngồi nơi ghế, nhận ra mình đang quá bứt rứt. Y cố bình tâm lại. Khi ra khỏi nhà y nhận ra trời đang mưa. Trời đổ mưa từ khi nào vậy nhỉ? Tất cả taxi đi qua đều đã có khách. Y quảy túi xách lên vai rồi cất bước đi bộ dọc vỉa hè. Cuối cùng một taxi dừng lại. Khi sắp đóng cửa xe y nghe thấy tiếng gì đó giống như phát súng. Y hỏi tài xế xem anh ta có nghe thấy không. Tài xế là người gốc Tây Ban Nha và nói tiếng Anh rất tồi.

“Mỗi ngày ông đều nghe thấy những thứ càng kỳ tuyệt hơn ở New York,” tài xế nói.

“Kỳ tuyệt, anh nói thế là ý gì?” y hỏi.

“Đúng như tôi nói, kỳ tuyệt,” tài xế taxi nói.

Sau một hồi Fate ngủ mất. Thi thoảng y lại mở mắt ra nhìn những tòa nhà lướt ngang qua, những tòa nhà hình như chẳng ai cư ngụ, hay những con phố ướt át trơn nhẫy vì mưa. Đoạn y nhắm mắt ngủ lại. Y thức giấc khi tài xế taxi hỏi y muốn dừng ở ga sân bay nào.

“Tôi đi Detroit,” y nói, rồi lại ngủ.

♣ ♣ ♣

Hai người ngồi ở phía trước y đang bàn chuyện ma. Fate không thấy được mặt họ, nhưng y đoán họ là người lớn tuổi, có thể sáu mươi bảy mươi. Y gọi nước cam vắt. Cô tiếp viên tóc vàng, trạc bốn mươi, có một cái bớt trên cổ được che đi bằng một cái khăn trắng đã bị trật xuống trong khi cô đi tới đi lui phục vụ khách. Người đàn ông ngồi ghế cạnh y là người da đen và đang uống chai nước. Fate mở túi xách lấy tập hồ sơ Seaman ra. Hai hành khách ngồi ghế trước lúc này thôi không bàn chuyện ma nữa mà nói về một người được họ gọi là Bobby. Tay Bobby này sống ở Jackson Tree, bang Michigan, có một căn nhà gỗ ở hồ Huron. Có lần tay Bobby này đi thuyền và bị đắm. Anh cố bám lấy một khúc cây trôi gần đó, một khúc cây nhiệm mầu, đợi cho trời sáng. Nhưng đêm xuống, nước trở lạnh hơn, khiến Bobby bị cóng và bắt đầu mất sức. Anh thấy mình mỗi lúc một đuối dần và mặc dù anh đã cố hết sức dùng thắt lưng buộc mình vào khúc cây song dù cố mấy anh cũng không sao làm được. Thoạt nghe thì dễ, nhưng trong đời thực, việc tự buộc mình vào một khúc cây đang trôi chẳng dễ chút nào. Thế là anh chịu thua, chuyển sang nghĩ về những người thân yêu của anh (ở đây họ nhắc đến một người tên Jig, có thể là tên của một người bạn hoặc một con chó hoặc một con ếch cưng mà anh ta nuôi), vừa nghĩ vừa ráng hết sức bình sinh bám vào khúc cây. Thế rồi anh thấy một ánh sáng trên bầu trời. Anh nghĩ, một cách ngây thơ, rằng đó là một chiếc trực thăng đến để tìm anh, bèn hét lên. Nhưng chả mấy chốc anh liền nghĩ ra là trực thăng thì phải kêu phạch phạch mà cái ánh sáng này không kêu phạch phạch. Vài giây sau anh nhận ra đó là một chiếc máy bay. Một chiếc máy bay chở khách sắp sửa đâm xuống ngay cái chỗ anh đang trôi cùng khúc cây. Đột nhiên bao nhiêu mệt mỏi của anh tan thành khói. Anh thấy chiếc máy bay lướt qua ngay trên đầu mình. Nó rực lửa. Cách chỗ anh chừng ba trăm mét, chiếc máy bay đâm xuống hồ. Anh nghe thấy hai tiếng nổ, có khi còn hơn. Anh cảm thấy bị thôi thúc muốn đến gần nơi xảy ra thảm họa và anh làm thế thật, rất chậm, bởi rất khó lái một khúc cây, không như lái một cái bè. Chiếc máy bay đã vỡ làm đôi và chỉ một phần còn đang nổi. Bobby chưa kịp đến được chỗ đó thì nó đã từ từ chìm xuống nước hồ lúc này đã trở lại tối sẫm. Lát sau trực thăng cứu hộ tới. Người duy nhất họ gặp là Bobby và họ cảm thấy mình bị chơi khăm khi anh bảo họ rằng anh không bay trên máy bay ấy, rằng anh bị đắm thuyền giữa khi đang đi câu. Dù sao anh cũng nổi tiếng một thời gian, người kể chuyện nói vậy.

“Anh ấy hiện có còn sống ở Jackson Tree không?” người kia hỏi.

“Không, chắc giờ anh ấy sống ở Colorado rồi,” người kia đáp.

Thế rồi họ nói về thể thao. Người ngồi cạnh Fate uống nước xong liền ợ một cách kín đáo, lấy tay che miệng.

“Láo toét,” ông ta nói khẽ.

“Gì cơ?” Fate hỏi.

“Láo, láo toét,” người kia nói.

Phải, Fate nghĩ, và y ngoảnh đi, nhìn ra cửa sổ nơi có mấy đám mây trông như những thánh đường hay có thể chỉ là những cái nhà thờ đồ chơi nhỏ xíu bị vứt đi trong một mỏ đá hoa cương ngoằn ngoèo khúc khuỷu lớn hơn Grand Canyon đến cả trăm lần.

♣ ♣ ♣

Đến Detroit, Fate thuê một chiếc xe, và sau khi xem bản đồ mượn của đại lý cho thuê xe, y hướng về khu vực nơi Barry Seaman sinh sống.

Seaman không có nhà, nhưng một chú bé bảo y rằng ông ta hầu như luôn luôn ở quán Pete’s Bar, không xa đấy. Khu này trông như khu sinh sống của dân làm ở hãng Ford và General Motors đã về hưu. Trong khi đi bộ y nhìn những tòa nhà, cao năm sáu tầng, và chỉ thấy những người già ngồi trên bậc cầu thang hay khom mình ra ngoài cửa sổ hút thuốc. Thỉnh thoảng y đi ngang qua một nhóm con trai đang tán gẫu trong góc hay mấy đứa con gái nhảy dây. Những chiếc xe đỗ đây đó không đẹp cũng chẳng mới, nhưng trông có vẻ được chăm nom.

Quán bar nằm cạnh một lô đất cũ đầy cỏ hoang và hoa dại mọc trên đống hoang tàn của tòa nhà trước kia từng ở đó. Trên bức tường hông của một tòa nhà lân cận y thấy một bức tranh tường có vẻ kỳ quặc. Nó hình tròn, như cái đồng hồ treo tường, nhưng thay vào vị trí các con số là những quang cảnh người ta làm việc trong các nhà máy ở Detroit. Mười hai cảnh trình bày mười hai giai đoạn trong dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên ở mỗi cảnh đều có một nhân vật xuất hiện lặp đi lặp lại: một thiếu niên da đen, hay một người da đen chân dài gầy nhẳng chưa từ bỏ tuổi thơ hoặc cự tuyệt việc từ bỏ tuổi thơ, quần áo người này mặc thay đổi từ cảnh này sang cảnh khác nhưng lúc nào cũng quá nhỏ so với anh ta, rõ là anh ta được giao cho vai chú hề, nhằm làm thiên hạ cười, mặc dù nếu nhìn kỹ hơn sẽ thấy anh ta có đó không phải chỉ để làm thiên hạ cười. Trông như tác phẩm của một kẻ điên. Bức tranh cuối cùng của một kẻ điên. Chính giữa cái đồng hồ, nơi tất cả các cảnh đều đồng quy về, có sơn một từ với những con chữ trông như làm bằng thạch: sợ.

Fate vào trong quán. Y ngồi lên một ghế đẩu, đoạn hỏi người sau quầy rằng ai vẽ bức tranh tường ngoài kia vậy. Người bartender, một ông da đen nặng nề mặt sẹo trạc lục tuần, bảo là ông không biết.

“Chắc thằng nhóc nào trong khu này thôi,” ông lẩm bẩm.

Fate gọi bia rồi liếc quanh quán. Y không thấy người nào có thể là Seaman. Bia trong tay, y lớn tiếng hỏi liệu có ai biết Barry Seaman không.

“Ai muốn biết vậy?” một tay nhỏ thó mặc áo phông Pistons và áo khoác vải tuýt màu xanh da trời nói.

“Oscar Fate,” Fate nói, “của tạp chí Bình minh Da đen, New York.”

Người bartender lại gần hỏi liệu y có thật là nhà báo không. Tôi là nhà báo. Của tờ Bình minh Da đen.

“Chà,” tay nhỏ thó nói mà không đứng dậy khỏi bàn, “tờ báo của ông có cái tên như cứt ấy.” Hai người bạn cùng chơi bài với gã cười rộ. “Cá nhân tôi chán ngấy mấy cái bình minh với rạng đông đó lắm rồi,” tay nhỏ thó nói. “Sao mấy anh em mình ở New York thỉnh thoảng không làm gì đó với hoàng hôn đi chứ, đó mới là giờ đẹp nhất trong ngày, ít nhất là ở cái khu chó chết này.”

“Khi về tôi sẽ nói với họ. Tôi chỉ viết bài thôi,” y nói.

“Barry Seaman hôm nay không tới,” một ông già ngồi nơi quầy giống như Fate nói.

“Chắc ông ấy bệnh,” người khác nói.

“Đúng đó, tôi có nghe nói,” ông già ngồi nơi quầy nói.

“Tôi sẽ chờ ông ta một lát,” Fate nói, rồi uống cạn bia.

Người bartender ngồi xuống đối diện y bảo y rằng thời trai trẻ ông ta từng là võ sĩ.

“Trận cuối cùng của tôi là tại Athens, ở South Carolina. Tôi đấu với một thằng oắt da trắng. Theo anh thì ai thắng?” ông hỏi.

Fate nhìn thẳng vào mắt ông ta, miệng nhếch ra khó mà hiểu là có ý gì, rồi gọi thêm bia.

“Dạo ấy đã bốn tháng rồi tôi chưa gặp người quản lý của tôi. Tôi toàn đi với huấn luyện viên, ông già tên là Johnny Turkey, tụi tôi đi hết thành phố này đến thành phố khác ở South Carolina, North Carolina, toàn ngủ trong mấy khách sạn ven đường hạng bét. Ông ấy hết xí quách mà tôi cũng vậy, tôi thì vì bị đánh nhiều quá còn Turkey thì vì dạo ấy ông ấy ít nhất cũng tám mươi rồi. Đúng vậy đó, tám mươi, có khi tám ba. Đôi khi hai chúng tôi lên giường đi ngủ rồi mà vẫn cứ cãi nhau về chuyện đó, đèn để sáng. Turkey nói ông ấy chỉ tám mươi thôi. Tôi thì bảo tám ba. Trận ấy được dàn xếp trước rồi. Tay bầu bảo tôi hãy đo ván vào hiệp năm. Và cứ để thằng kia hạ tôi gục lên gục xuống vào hiệp bốn. Đổi lại họ cho tôi gấp đôi khoản tiền đã hứa, thật ra cũng chẳng nhiều lắm. Tối hôm ấy tôi kể cho Turkey biết chuyện đó khi đang ăn tối. Với tôi thì chả có vấn đề gì, ông ấy bảo. Chả vấn đề gì. Vấn đề là mấy người đó, rất ít khi họ chịu mở hầu bao như đã hứa. Tùy anh thôi. Ông ấy nói thế đấy.”

♣ ♣ ♣

Trên đường về lại nhà Seaman, Fate thấy hơi chóng mặt. Một vầng trăng đồ sộ đang mọc lên trên các mái nhà. Gần lối vào tòa nhà, một người đàn ông lại gần y nói gì đó mà y hoặc không hiểu lắm hoặc cảm thấy không chấp nhận được. Tao là bạn của Barry Seaman, đồ chó đẻ, Fate vừa nói vừa cố túm cổ áo khoác da của gã kia.

“Bình tĩnh đi,” gã kia nói. “Thoải mái đi, người anh em.”

Nơi lối vào y thấy bốn cặp mắt màu vàng lấp lánh trong bóng tối, và trong bàn tay buông thõng của gã đàn ông mà y đang siết chặt y nhìn thấy ánh trăng phản chiếu lướt qua.

“Muốn sống thì cút khỏi đây ngay,” y nói.

“Bình tĩnh nào, người anh em, thả tôi ra cái đã nào,” người kia nói.

Fate buông gã ra rồi tìm vầng trăng trên các mái nhà. Y dõi theo nó. Trong khi đi y nghe thấy tiếng ồn ở các phố ngang, tiếng chân bước, bước chạy, như thể một phần của khu này vừa mới thức dậy. Cạnh tòa nhà Seaman ở y nhìn ra chiếc xe mình thuê. Y nhìn kỹ nó. Chẳng ai làm gì nó cả. Đoạn y bấm chuông và một giọng cắn cảu hỏi y muốn gì. Fate tự xưng tên và nói y được tờ Bình minh Da đen cử tới. Trên máy intercom y nghe thấy tiếng cười khẽ tỏ ý hài lòng. Vào đi, giọng nói bảo. Fate ì ạch leo lên cầu thang. Đến một lúc y hiểu ra là mình không được khỏe. Seaman đang chờ y nơi chiếu nghỉ.

“Tôi cần vào buồng vệ sinh,” Fate nói.

“Lạy Chúa,” Seaman nói.

Phòng khách nhỏ và khiêm nhường, y thấy sách la liệt khắp nơi và cả những áp phích đính vào tường, những bức ảnh nhỏ rải rác trên các kệ, trên bàn, trên nóc tivi.

“Cửa thứ hai,” Seaman nói.

Fate bước vào và bắt đầu nôn ọe.

♣ ♣ ♣

Khi tỉnh dậy y thấy Seaman đang viết bằng bút mực. Cạnh ông ta là bốn quyển sách dày và mấy kẹp hồ sơ đầy giấy tờ. Seaman đeo kính trong khi viết. Fate nhận thấy ba trong bốn cuốn sách kia là từ điển còn cuốn thứ tư là một quyển dày cộp có tên Bách khoa toàn thư Pháp giản lược, cuốn này y chưa nghe tới bao giờ, ở trường không, cả đời không. Mặt trời ngoài cửa sổ rọi vào. Y tung chăn rồi ngồi dậy trên sofa. Y hỏi Seaman đã xảy ra chuyện gì vậy. Ông già nhìn y qua cặp kính rồi mời y một tách cà phê. Seaman cao ít nhất một mét tám, nhưng đứng lại hơi khòm thành thử trông nhỏ hơn. Ông sống bằng nghề diễn giảng, nghề này thường không được trả hậu hĩnh gì, bởi người thuê ông chỉ là những cơ sở giáo dục nhỏ hoạt động ở các khu người da đen nghèo và đôi khi là những trường đại học nhỏ cấp tiến ngân sách chẳng dồi dào mấy. Nhiều năm trước ông cho xuất bản một cuốn sách gọi là Ăn sườn lợn cùng Barry Seaman, trong đó ông thu thập tất tật các công thức làm sườn mà ông biết, hầu hết là quay hoặc nướng, có thêm vào những sự kiện kỳ lạ hoặc khác thường về các địa điểm nơi ông học được mỗi công thức, ai đã dạy cho ông và trong tình huống nào. Phần hay nhất của sách là về món sườn với khoai tây nghiền hoặc xốt táo mà ông làm hồi ở trong tù: cách ông kiếm được các nguyên liệu chính, cách ông nấu được món ấy ở một nơi mà việc nấu nướng, cũng như hàng bao nhiêu việc khác, bị cấm tiệt. Sách không bán chạy mấy, nhưng nhờ nó mà Seaman lại được người ta nhắc tới, ông xuất hiện trên một vài chương trình tivi buổi sáng, nấu trực tiếp một số trong các món lừng danh của ông. Nay thì tên ông lại bị rơi vào quên lãng, nhưng ông vẫn tiếp tục diễn giảng và đi đó đi đây khắp nước, đôi khi được đổi lại bằng một vé khứ hồi và ba trăm đô la.

Gần cái bàn nơi ông thường ngồi viết lách và nơi lúc này hai người ngồi uống cà phê, có một tấm áp phích đen trắng có hình hai thanh niên mặc jacket đen, đội mũ bê rê đen, đeo kính đen. Fate nghe ớn lạnh trong người, không phải vì tấm áp phích mà vì y cảm thấy mình ốm quá, và sau ngụm cà phê đầu tiên y hỏi có phải một trong hai người trẻ tuổi kia là Seaman không. Đúng, Seaman nói. Fate hỏi là người nào. Seaman cười. Ông chả có cái răng nào.

“Khó nói phải không?”

“Tôi không biết, tôi không được khỏe lắm, giá tôi đang khỏe hơn thi chắc là đoán được,” Fate nói.

“Người bên phải, người thấp hơn ấy,” Seaman nói.

“Còn người kia là ai?” Fate hỏi.

“Cậu có chắc là không biết không?”

Fate nhìn lại tấm áp phích một hồi.

“Là Marius Newell,” y nói.

“Đúng đó,” Seaman nói.

♣ ♣ ♣

Seaman mặc jacket vào. Đoạn ông vào buồng ngủ và khi đi ra ông có đội một cái mũ hẹp vành màu xanh lục thẫm. Ông lấy hàm răng giả ra khỏi một cái ly trong buồng tắm tối om rồi cẩn thận lắp vào miệng. Fate ngồi ngoài phòng khách quan sát ông. Ông súc miệng bằng một chất lỏng màu đỏ, nhổ vào bồn rửa mặt, lại súc, rồi bảo là ông đã sẵn sàng.

Họ ngồi trong chiếc xe thuê, lái đến Công viên Rebeca Holmes cách đó hai chục khối nhà. Bởi họ có thì giờ, họ đỗ xe nơi rìa công viên rồi duỗi chân nói chuyện một hồi. Công viên Rebeca Holmes rất rộng và, nằm ở chính giữa, được một hàng rào sụp hết nửa vây quanh bảo vệ, là một sân chơi được gọi là đài tưởng niệm A. Hoffman, ở đó họ chẳng thấy đứa trẻ nào đang chơi cả. Thực vậy, sân chơi vắng tanh, ngoại trừ dăm con chuột vừa nhác thấy Seaman và Fate là liền chạy mất tăm. Gần một cụm cây sồi có một cái vọng lâu nom có vẻ phương Đông, giống như một nhà thờ chính thống giáo Nga thu nhỏ. Từ phía bên kia vọng lâu vọng ra tiếng nhạc rap.

“Tôi ghét thứ cục cứt này,” Seaman nói, “chuyện đó cậu nhất định phải đưa vào bài báo.”

“Tại sao?” Fate hỏi.

Họ đi về phía vọng lâu và bên cạnh đó họ thấy một cái ao cạn nước trơ đáy. Một đôi giày Nike để lại dấu vết đông cứng trên lớp bùn khô. Fate nghĩ về lũ khủng long và lại cảm thấy khó ở. Họ đi bộ vòng quanh vọng lâu. Ở phía bên kia, gần vài bụi cây, họ thấy một cái máy cát xét để giữa đất, nguồn phát ra tiếng nhạc. Gần đó chả có ai. Seaman nói ông không ưa nhạc rap bởi vì lối thoát duy nhất nó đề ra là tự sát. Mà thậm chí còn không phải là tự sát có ý nghĩa. Tôi biết, tôi biết, ông nói. Khó mà hình dung nổi tự sát lại có ý nghĩa. Có phải là thứ thường gặp đâu cơ chứ. Mặc dù tôi từng thấy hoặc ở gần hai vụ tự sát có ý nghĩa. Tôi nghĩ thế. Cũng có thể tôi lầm, ông nói.

“Làm thế nào nhạc rap dẫn đến tự sát?” Fate hỏi.

Seaman không đáp mà dẫn y theo một đường tắt băng qua cây cối, đường này đưa họ ra một khoảnh đất trống. Trên vỉa hè ba đứa con gái đang chơi nhảy dây. Bài hát chúng đang hát có vẻ bất thường cùng cực. Nó kể gì đó về một người đàn bà mà cả chân lẫn tay lẫn lưỡi đều bị người ta xẻo hết. Nó nói gì đó về các thợ dệt Chicago và ông sếp ngành vệ sinh thoát nước hay một công chức tên Sebastian D’Onofrio rồi thì có đoạn điệp khúc nhắc đi nhắc lại Chi-Chi-Chi-Chicago. Nó nói gì đó về tác động của mặt trăng. Thế rồi người đàn bà mọc hai chân bằng gỗ, hai tay bằng dây thép còn cái lưỡi bằng cỏ và cây mềm bện với nhau. Hoàn toàn mất phương hướng, Fate hỏi xe y đâu rồi, ông già liền nói nó ở phía bên kia Công viên Rebeca Holmes. Họ băng qua đường, vừa đi vừa nói chuyện thể thao. Họ đi chừng trăm mét rồi vào một nhà thờ.

♣ ♣ ♣

Ở đó, đứng trên bục giảng kinh, Seaman nói về cuộc đời ông. Đức Cha Ronald K. Foster giới thiệu ông, mà theo đó rõ rành rành rằng Seaman từng giảng ở đây rồi. Tôi sẽ nói về năm chủ đề, Seaman nói, không hơn không kém. Chủ đề đầu tiên là HIỂM NGUY. Chủ đề thứ hai, TIỀN. Chủ đề thứ ba, ĐỒ ĂN. Chủ đề thứ tư, SAO. Chủ đề thứ năm và cuối cùng, TÍNH HỮU DỤNG. Mọi người mỉm cười, vài người gật đầu tỏ ý tán thành, như muốn nói được thôi, như muốn nói với diễn giả rằng họ chả có gì hay hơn để làm ngoài việc nghe ông. Trong một góc Fate thấy có năm thằng con trai, chẳng thằng nào quá hai mươi tuổi, mặc jacket đen đội mũ bê rê đen đeo kính đen, đang nhìn Seaman bằng bộ mặt vô cảm, sẵn sàng hoan hô ông hoặc la ó chế giễu ông. Trên sân khấu ông già đi tới đi lui, lưng còng xuống, như thể ông đột nhiên quên khuấy mất bài nói của mình. Bất thần, khi mục sư ra hiệu, ca đoàn liền hát thánh ca. Bài thánh ca nói về Moses và vụ bắt bớ người Israel ở Ai Cập. Đích thân mục sư đệm piano cho họ. Thế rồi Seaman quay lại sân khấu trung tâm và giơ một tay lên (ông nhắm mắt) và trong khoảng vài giây tiếng hát ca đoàn ngừng lại, nhà thờ lặng như tờ.

♣ ♣ ♣

HIỂM NGUY. Trái với điều tất cả mọi người (hay hầu hết mọi người) chờ đợi, Seaman khởi đầu bằng cách nói về thời thơ ấu của mình ở California. Ông nói rằng với những ai chưa từng tới California, nơi ấy giống nhất với một hòn đảo bị bỏ bùa. Giống y chang vậy. Như trong mấy bộ phim, nhưng hay hơn. Người ta sống trong nhà riêng chứ không phải trong khu chung cư, ông nói, thế rồi ông bắt đầu so sánh những căn nhà (một tầng, nhiều nhất là hai) với những tòa nhà bốn năm tầng nơi mà thang máy hôm nay trục trặc hôm sau thì hỏng. Lợi điểm duy nhất của tòa chung cư so với nhà riêng là ở chỗ chung cư gần hơn. Một khu gồm toàn chung cư thì các khoảng cách trở nên ngắn lại, ông nói. Cái gì cũng gần hơn. Mình có thể đi bộ để mua đồ ăn hoặc có thể đi bộ tới quán rượu gần nhất (tới đây ông nháy mắt với Đức Cha Foster), hay tới nhà thờ thuộc giáo khu mình, hay đến viện bảo tàng. Tức là, mình không cần phải lái xe. Thậm chí chẳng cần có xe. Và đến đây ông liệt kê ra một lô số liệu thống kê về các vụ tai nạn giao thông chết người ở một hạt của Detroit và một hạt của Los Angeles. Và hãy nghĩ xem xe hơi được sản xuất ở Detroit chứ không phải ở Los Angeles. Ông giơ một ngón tay lên, lần tìm cái gì đó trong túi áo khoác rồi lấy ra một bình thuốc xịt hen suyễn. Mọi người im lặng chờ. Hai tiếng xịt bình thuốc vang lên, ở tít trong góc xa nhất của nhà thờ cũng nghe thấy rõ. Xin lỗi, ông nói. Đoạn ông nói ông học lái xe từ năm mười ba tuổi. Nay tôi không lái xe nữa, ông nói, nhưng tôi đã học từ năm mười ba tuổi và đó chẳng phải là chuyện tôi lấy làm tự hào. Đến đây ông nhìn chăm chăm vào giữa phòng, vào một điểm mơ hồ bất định chính giữa giáo đường, và nói ông từng là một trong những người sáng lập Báo Đen. Chính xác hơn là Marius Newell và tôi, ông nói. Sau đó, khéo léo ngoặt sang chủ đề khác. Như thể mọi cánh cửa của nhà thờ đều mở ra, Fate viết trong sổ tay như vậy, và bóng ma của Newell đã bước vào. Nhưng ngay khi đó, như để tránh một sự sượng sùng nhất định, Seaman bắt đầu nói không phải về Newell mà về mẹ của Newell, bà Anne Jordan Newell, và ông miêu tả dung mạo của bà (dễ mến), công việc của bà (bà làm việc ở một nhà máy sản xuất hệ thống tưới tiêu), sự mộ đạo của bà (Chủ nhật nào bà cũng đi nhà thờ), tính siêng năng của bà (bà luôn luôn giữ cho nhà cửa sạch sẽ như đĩa đựng bánh thánh), sự thông cảm của bà (bà luôn mỉm cười với tất cả mọi người), tinh thần trách nhiệm của bà (bà thường cho người ta những lời khuyên tốt, thông thái, mà không ép phải nghe theo). Người mẹ là một điều quý báu, Seaman kết luận. Marius Newell và tôi đã thành lập Báo Đen. Chúng tôi làm bất cứ việc gì làm được và mua súng trường súng ngắn để người dân tự vệ. Nhưng một người mẹ đáng giá hơn cuộc cách mạng của người da đen. Điều đó tôi cam đoan với các bạn. Trong cuộc đời dài nhiều sóng gió của mình tôi đã thấy nhiều. Tôi đã đến Algeria, đã sang Trung Quốc, đã ngồi tại nhiều nhà tù ở Hoa Kỳ. Không gì quý giá bằng người mẹ. Điều đó tôi nói ở đây và sẽ nói ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, ông nói bằng giọng khản đặc. Ông lại xin lỗi lần nữa rồi quay về phía ban thờ, đoạn lại quay xuống đối diện với công chúng. Như các bạn biết, người ta đã giết Marius Newell. Kẻ giết anh ấy là một người da đen như các bạn, như tôi, vào một đêm nọ, ở Santa Cruz, California. Tôi đã nói với anh ấy, này Marius, đừng về lại California, ở đó có rất nhiều cảnh sát chờ sẵn để bắt chúng ta. Nhưng anh ấy không nghe. Anh ấy thích California. Anh ấy thích đến những bãi biển đá vào ngày Chủ nhật đặng hít thở mùi của Thái Bình Dương. Hồi hai chúng tôi còn ở tù, tôi vẫn hay nhận được bưu thiếp của anh ấy trong đó anh ấy nói anh mơ thấy mình hít thở bầu không khí đó. Thật lạ, bởi tôi không gặp nhiều người da đen thích biển đến như anh ấy. Không có ai là đằng khác, ở California thì chắc chắn không. Nhưng tôi biết Marius đang nói chuyện gì, tôi biết ý anh muốn nói gì. Nói thật tình tôi có một giả thuyết về chuyện đó, về chuyện tại sao người da đen chúng ta không thích biển. Chúng ta có thích biển chứ. Chỉ là không nhiều như các dân khác thôi. Nhưng chuyện đó để dịp khác hẵng nói. Marius bảo tôi nhiều thứ đã thay đổi ở California. Nay có nhiều cảnh sát da đen hơn, chẳng hạn. Đúng thế. Đã thay đổi theo hướng đó. Nhưng có nhiều thứ khác vẫn y như cũ. Nhưng đúng là có những thứ đã thay đổi, cái đó thì không thể phủ nhận. Marius biết điều đó và anh ấy biết hai chúng tôi xứng đáng được ghi công. Báo Đen đã góp phần vào sự thay đổi ấy. Với hạt cát của chúng tôi hay chiếc xe tải của chúng tôi. Chúng tôi đã góp phần. Bà mẹ của anh cũng vậy, các bà mẹ da đen khác cũng vậy, những bà mẹ hằng đêm thay vì ngủ thì khóc và hình dung ra cánh cổng địa ngục. Thế nên anh quyết định mình nên về lại California sống nốt đời mình ở đó, trong thanh bình, không làm hại ai, và có thể lập gia đình sinh con đẻ cái. Anh luôn luôn nói con trai đầu lòng anh sẽ đặt tên Frank, để tưởng nhớ một chiến hữu đã chết ở nhà tù Soledad. Thực ra, anh đáng lẽ phải có tới ba mươi đứa con để có thể tưởng nhớ hết tất cả các bạn bè đã chết. Hay mười đứa, mỗi đứa đặt ba tên. Hay năm đứa, mỗi đứa đặt sáu tên. Nhưng thực tế là anh chẳng có đứa con nào bởi vì một đêm, trong khi đang đi dọc một con phố ở Santa Cruz, anh bị một người da đen giết. Người ta nói là vì tiền. Người ta nói Marius nợ thằng đó tiền cho nên thằng đó mới giết anh ấy, nhưng tôi thấy khó mà tin được. Tôi nghĩ có người thuê thằng đó giết anh ấy. Dạo đó Marius đang đấu tranh chống nạn buôn lậu ma túy trong thành phố và có người không ưa chuyện ấy. Có thể. Lúc ấy tôi vẫn đang trong xà lim nên không rõ lắm. Tôi có giả thuyết của mình, quá nhiều giả thuyết. Chỉ biết là Marius chết ở Santa Cruz nơi anh vừa đến định ở lại mấy ngày, anh không sống ở đó thành thử khó mà hình dung rằng kẻ sát nhân sống ở đó. Nghĩa là: kẻ sát nhân theo dõi Marius. Và động cơ duy nhất mà tôi nghĩ ra được để biện minh cho việc Marius đến Santa Cruz là biển. Marius đến đó để thấy và để ngửi Thái Bình Dương. Và kẻ sát nhân mò tới Santa Cruz theo mùi của Marius. Những gì xảy ra sau đó các bạn biết cả rồi. Đôi khi tôi hình dung thấy Marius. Nhiều hơn là tôi muốn trong thâm tâm. Tôi thấy anh trên bãi biển California. Một bãi biển ở Big Sur chẳng hạn, hay là ở Monterey về phía Bắc Bến Dân Chài, tới xa lộ 1. Anh đứng ở một điểm ngắm cảnh, xoay lưng lại chúng ta. Đang mùa đông, khách du lịch thưa thớt. Đội Báo Đen còn trẻ, chẳng ai quá hai lăm tuổi. Chúng tôi đều có vũ khí, nhưng chúng tôi bỏ hết súng lại trong xe, và mặt chúng tôi lộ rõ vẻ bất mãn sâu xa. Biển gào thét. Rồi tôi lại gần Marius bảo ta đi ngay khỏi đây thôi. Ngay lúc đó Marius quay lại nhìn tôi. Anh đang mỉm cười. Nó còn hơn cả một nụ cười. Và anh khoát tay về phía biển, bởi anh không thể diễn đạt bằng lời điều anh đang cảm thấy. Thế nhưng tôi thấy sợ, mặc dù người anh em tôi đang ở cạnh tôi, và tôi nghĩ: hiểm nguy là biển.

♣ ♣ ♣

TIỀN. Nói vắn tắt, Seaman tin tiền là cần thiết, nhưng không cần thiết như người ta nói. Ông nói về cái mà ông gọi là “tính tương đối kinh tế”. Ở nhà tù Folsom, một điếu thuốc đáng giá một phần hai mươi một thỏi mứt dâu nhỏ. Trong khi đó, ở nhà tù Soledad, một điếu thuốc đáng giá một phần ba mươi cũng một thỏi mứt dâu nhỏ đó. Còn ở Walla-Walla, một điếu thuốc ngang giá với cả một thỏi mứt, một phần là vì tù nhân ở Walla-Walla, có trời biết được tại sao, có thể vì một chứng dị ứng nào đó với đồ ăn, có thể vì họ nghiện nicotin ngày càng nặng nên họ không thể chịu nổi đồ ngọt mà chỉ cần suốt ngày hít khói vào phổi là đủ rồi. Tiền, Seaman nói, tự bản chất sâu xa là một bí ẩn và, do là người ít học, ông không hẳn là người phù hợp để bàn đến đề tài đó. Dẫu vậy, ông có hai điều cần nói. Điều đầu tiên là ông không tán thành cung cách tiêu tiền của người nghèo, nhất là người Mỹ gốc Phi nghèo. Cứ hễ thấy một thằng ma cô lái chiếc Limousine hay Lincoln Continental lượn lờ quanh khu phố là máu tôi sôi lên, ông nói. Tôi không chịu nổi. Khi người nghèo kiếm ra tiền, họ cần phải cư xử sao cho đàng hoàng hơn, có phẩm cách hơn, ông nói. Khi người nghèo kiếm ra tiền, họ nên giúp đỡ hàng xóm. Khi người nghèo kiếm ra tiền, họ cần phải cho con cái học hành và nhận con nuôi, không chỉ một mà vài đứa. Khi người nghèo kiếm ra tiền, họ nên thừa nhận trước bàn dân thiên hạ là mình chỉ kiếm được nửa bằng ấy thôi. Thậm chí họ không nên cho con cái biết thật ra họ có bao nhiêu, vì khi đó lũ con sẽ muốn toàn bộ gia tài chứ không muốn chia sẻ với các anh chị em là con nuôi. Khi người nghèo kiếm ra tiền, họ nên lập những quỹ bí mật, không phải chỉ để giúp những người da đen đang rục xương trong các nhà tù của nước Mỹ này mà còn để khởi sự những doanh nghiệp nhỏ như hiệu giặt, quán bar, cửa hàng video, lợi nhuận sẽ được tái đầu tư toàn bộ cho cộng đồng mình. Học bổng. Dù các sinh viên nhận học bổng rồi ra sẽ chẳng làm nên trò trống gì thì cũng không sao. Dù các sinh viên nhận học bổng sẽ tự giết mình vì nghe quá nhiều nhạc rap hoặc giết chết ông thầy da trắng và năm bạn cùng lớp trong cơn cuồng nộ thì cũng không sao. Đường dẫn đến của cải được gieo bằng những bước đầu lầm lỡ và thất bại, song những lầm lỡ và thất bại đó không nên làm ngã lòng những người nghèo biết làm giàu hay những người giàu mới nổi trong khu phố chúng ta. Cần phải cố hết sức cho điều đó. Cần phải vắt ra được nước không chỉ từ đá mà cả từ sa mạc. Nhưng chúng ta cũng không được quên rằng tiền luôn luôn là một vấn đề còn bỏ ngỏ, Seaman nói.

♣ ♣ ♣

ĐỒ ĂN. Như các vị đều biết, Seaman nói, tôi sống được là nhờ thịt thăn lợn. Đầu tiên tôi là một Báo Đen và tôi đối mặt với cảnh sát California, thế rồi tôi chu du khắp thế giới và sau đó sống nhiều năm nhờ vào tiền của chính phủ Hoa Kỳ. Hồi người ta thả tôi ra tôi chẳng là ai cả. Báo Đen không còn tồn tại. Một số người cho chúng tôi là một nhóm khủng bố thời xưa. Với một số người khác, chúng tôi là ký ức mờ nhạt về sự ngoạn mục màu đen hồi thập niên sáu mươi. Marius Newell đã chết ở Santa Cruz. Vài đồng chí chết trong tù, những người khác đã xin lỗi công khai và bắt đầu cuộc đời mới. Nay thì không chỉ có cảnh sát da đen. Có người da đen trong ngạch công chức, thị trưởng da đen, doanh nhân da đen, luật sư da đen nổi tiếng, ngôi sao truyền hình và điện ảnh người da đen, và Báo Đen là một chướng ngại. Thành thử khi người ta thả tôi ra thì chẳng còn gì, hoặc gần như chẳng còn gì, chỉ là tàn dư âm ỉ của một cơn ác mộng chúng tôi đã dấn vào hồi trẻ dại còn nay thoát ra khỏi đó rồi thì chúng tôi là người trưởng thành, hầu như là những lão già, nói thế cũng được, không có tương lai, bởi suốt những năm dài ngồi tù chúng tôi đã quên mất những gì từng biết và trong tù chúng tôi không học được gì, chẳng học được gì trừ sự tàn bạo của cai ngục và thói ác dâm của đám bạn tù. Hoàn cảnh của tôi là vậy. Thành thử mấy tháng đầu khi tôi được phóng thích có điều kiện ấy vừa buồn vừa xám xịt. Đôi khi tôi ngồi hàng giờ bên cửa sổ ngắm những ngọn đèn nhấp nháy trên con phố không tên nào đó, không làm gì, chỉ hút thuốc. Tôi sẽ không phủ nhận rằng không chỉ một lần những ý nghĩ kinh khủng thoáng lướt qua đầu tôi. Chỉ có một người giúp tôi một cách hoàn toàn vô vụ lợi: bà chị tôi, mong linh hồn bà yên nghỉ. Bà mời tôi đến sống tại nhà bà ở Detroit, nhà nhỏ thôi, nhưng với tôi đó như thể một nàng công chúa ở châu Âu dâng cho tôi lâu đài của nàng làm chỗ nghỉ ngơi. Những ngày của tôi hồi đó ngày nào cũng giống ngày nào, nhưng chúng có cái gì đó mà nay nhìn lại tôi không ngại ngần gọi là hạnh phúc. Hồi đó tôi chỉ thường xuyên gặp hai người: chị tôi, con người tốt bụng nhất trên đời, và viên chức đảm trách việc giám sát tôi, một ông béo thường hay rót cho tôi một cữ whiskey trong văn phòng ông và nói với tôi: nói tôi nghe, Barry, làm sao anh lại thành một gã tệ đến thế được chứ? Đôi khi tôi nghĩ ông ta nói vậy là để khích tôi. Đôi khi tôi nghĩ: lão này lãnh lương của cảnh sát California và lão muốn khích cho tôi khùng lên rồi sau đó cho tôi một viên vào ruột. Nói cho tôi nghe về cái con c… của anh đi, Barry, ông ta nói, ý nhắc tới bộ phận đàn ông của tôi, hay là, nói cho tôi nghe về những người anh đã giết đi. Nói đi, Barry. Nói đi. Đoạn ông ta mở ngăn kéo bàn làm việc, tôi biết ông ta để súng của mình trong ấy, rồi chờ. Tôi còn biết làm gì hơn, đành nói. Tôi nói: thôi được, tôi không gặp chủ tịch Mao, nhưng tôi có gặp Lâm Bưu, ông ấy đón chúng tôi ở sân bay, về sau ông ấy muốn giết chủ tịch Mao và rồi chết trong một tai nạn máy bay khi muốn trốn sang Nga. Một người nhỏ bé, khôn lanh như rắn. Anh có nhớ Lâm Bưu không? Và Lou sẽ nói cả đời ông ta chưa bao giờ nghe nói tới Lâm Bưu. Chà, Lou ạ, tôi sẽ nói, ông ấy kiểu như là thành viên nội các của Trung Quốc hay là ngoại trưởng của Trung Quốc. Mà hồi đó không có nhiều người Mỹ ở Trung Quốc đâu, cam đoan với ông. Có thể nói chính chúng tôi đã mở đường cho Kissinger và Nixon. Và tôi với Lou có thể cứ thế mà nói trong ba tiếng đồng hồ, ông ta bảo tôi kể về những người tôi đã bắn vào lưng, còn tôi kể cho ông ta nghe về các chính khách tôi đã gặp và những nước tôi đã đến. Cho đến khi cuối cùng tôi cũng gạt bỏ được ông ta với lòng nhẫn nại của người Cơ đốc, và từ đó tôi chẳng bao giờ gặp lại ông ta nữa. Lou chắc đã chết vì bệnh xơ gan. Đời tôi thì cứ thế mà trôi, với cùng những nỗi sợ đó và cùng cảm giác vô định đó. Thế rồi một hôm tôi nhận ra có một điều tôi vẫn chưa quên. Tôi vẫn chưa quên cách nấu ăn. Tôi chưa quên món thịt thăn lợn của mình. Nhờ có bà chị giúp đỡ, bà là một trong các thiên thần của Chúa và thích nói về đồ ăn thức uống, tôi bắt đầu viết ra tất cả các công thức nấu ăn mình nhớ được, các công thức của mẹ tôi, các món tôi đã nấu hồi ở trong tù, các món tôi đã làm ở nhà ngày Chủ nhật, trên mái nhà, cho bà chị tôi, mặc dù tôi phải nói là chị ấy không quá ưa thịt. Khi viết xong cuốn sách tôi đến New York đưa nó cho vài nhà xuất bản và một trong số đó tỏ ra quan tâm, phần còn lại thì quý vị biết rồi. Cuốn sách làm cho tôi lại được công chúng chú ý một lần nữa. Tôi đã học được cách kết hợp nấu ăn với lịch sử. Tôi đã học được cách kết hợp nấu ăn với lòng tri ân và nỗi bối rối trong lòng tôi trước sự tử tế của ngần ấy con người, từ bà chị quá cố của tôi cho đến vô số người khác nữa. Và hãy cho phép tôi nói rõ một điều. Khi tôi dùng từ bối rối, ý tôi còn muốn nói là sững sờ nữa. Nói cách khác, là nỗi bàng hoàng kinh ngạc trước một cái gì kỳ vĩ. Như những bông lan Ngôi sao Bethlehem, hay hoa đỗ quyên, hay hoa cúc trường sinh. Nhưng tôi cũng hiểu ra rằng chừng đó không đủ. Tôi không thể mãi mãi sống dựa vào các côn