← Quay lại trang sách

PHẦN BA (A) PHẦN VỀ FATE

TÍNH HỮU DỤNG. Nhưng mặt trời có những công dụng của nó, chuyện đó ngay đến một kẻ đầu đất cũng biết, Seaman nói. Đến gần thì mặt trời là địa ngục, nhưng từ xa thì mặt trời thật có ích, thật đẹp, chỉ có đồ ma cà rồng mới không thể nhận thấy điều ấy. Đoạn ông bắt đầu nói về những thứ trước kia còn có ích, những thứ nhìn chung là được thừa nhận giá trị nhưng nay thì chỉ gây ngờ vực, tỉ như nụ cười. Chẳng hạn, hồi thập niên năm mươi, ông nói, chỉ cần một nụ cười là người ta mở cửa mời ta vào. Tôi không biết liệu nó có thể đưa ta đến nơi này nơi nọ không, nhưng mở cửa thì nhất định là được. Nay thì chẳng ai tin vào một nụ cười. Trước kia, nếu ta là người bán hàng và đến một nơi nào đấy, tốt hơn là ta mang một nụ cười rạng rỡ. Cho dù ta là bồi bàn hay doanh nhân, thư ký, bác sĩ, nhân viên đánh máy, thợ làm vườn thì cũng vậy. Những người không bao giờ mỉm cười chỉ có cảnh sát và cai ngục. Điều đó thì không thay đổi. Nhưng mọi người khác, họ thảy đều ra sức mỉm cười. Đấy là thời kỳ hoàng kim cho các nha sĩ ở Hoa Kỳ. Người da đen, dĩ nhiên, luôn luôn mỉm cười. Người da trắng mỉm cười. Người châu Á. Người gốc Bồ Đào Nha. Nay thì ta đều biết đằng sau một nụ cười có thể ẩn nấp kẻ thù tệ hại nhất của ta. Hay nói cách khác, ta không tin một ai, nhất là những kẻ mỉm cười, vì ta biết bọn họ muốn ở ta điều gì đó. Thế nhưng truyền hình Mỹ vẫn đầy ắp nụ cười và những hàm răng càng ngày càng hoàn hảo. Những kẻ đó muốn ta đặt lòng tin vào họ chăng? Không. Những kẻ đó muốn ta tin rằng họ là người tốt, không có khả năng làm hại ai chăng? Không. Thực ra họ chẳng muốn gì ở ta hết. Chỉ là họ muốn phô cho ta thấy hàm răng của họ, nụ cười của họ, chẳng đòi hỏi gì đáp lại ngoài niềm ngưỡng mộ của chúng ta. Ngưỡng mộ. Họ muốn chúng ta nhìn họ, chỉ có thế. Hàm răng hoàn hảo của họ, thân thể hoàn hảo của họ, phong thái hoàn hảo của họ, như thể họ thường xuyên bứt khỏi mặt trời và là những mảnh lửa nhỏ, những mẩu địa ngục chói lòa, hiện diện trên trái đất này chỉ nhằm mục đích duy nhất là được tôn sùng. Hồi tôi còn nhỏ, Seaman nói, tôi không nhớ là trẻ con có đeo niềng răng. Nay thì hầu như tôi chưa gặp đứa trẻ nào không đeo niềng răng. Người ta ép ta phải nhận những thứ vô ích không phải vì chúng làm tăng chất lượng cuộc sống mà vì chúng là mốt hoặc dấu hiệu phân biệt đẳng cấp, và những kẻ thời thượng cũng như tầng lớp thượng lưu, họ cần sự ngưỡng mộ, sự tôn sùng. Dĩ nhiên, các mốt có đời sống rất ngắn, một năm, nhiều nhất bốn năm, rồi sau đó trải qua tất cả các giai đoạn suy tàn. Dấu hiệu phân biệt đẳng cấp, ngược lại, chỉ tàn hoại khi nào cái thân xác mang chúng tàn hoại mà thôi. Thế rồi ông bắt đầu nói về những thứ hữu dụng mà cơ thể cần. Trước hết, một chế độ ăn cân bằng. Tôi thấy trong nhà thờ này có nhiều người béo, ông nói. Tôi ngờ rằng ít ai trong quý vị có ăn rau xanh. Có lẽ đã đến lúc đưa ra một công thức món ăn. Tên của món là: bắp cải mini dầm chanh. Xin hãy ghi vào. Thành phần cho bốn người ăn gồm có: 800 gam bắp cải mini, nước cốt và vỏ một quả chanh, một củ hành, một nhánh rau mùi, ba thìa bơ, tiêu, muối. Các vị làm thế này: Một: rửa sạch bắp cải, bóc bỏ lá ngoài, xắt nhỏ hành và rau mùi. Hai: luộc bắp cải trong nồi nước sôi pha muối trong hai mươi phút hoặc đến khi mềm. Sau đó để ráo nước rồi bỏ qua một bên. Ba: đun chảy bơ trên chảo, phi hành, thêm vỏ chanh, nước cốt chanh, tiêu muối vừa miệng. Bốn: cho bắp cải vào, trộn nước xốt, đun lại vài phút, rắc rau mùi lên, xếp vào đĩa, trang trí vài lát chanh. Ngon đến nỗi phải xòe ngón tay mà mút, Seaman nói. Không cholesterol, tốt cho gan, tốt cho tuần hoàn máu, rất chi lành mạnh. Đoạn ông đọc công thức cho món Salad tôm rau diếp và Salad súp lơ xanh, và rồi ông nói con người ta không thể chỉ ăn thức ăn lành mạnh mà sống được. Còn phải đọc sách nữa, ông nói. Đừng xem tivi nhiều quá. Các chuyên gia nói tivi không làm hại mắt. Tôi tự cho phép mình nghi ngờ chuyện đó. Tivi không tốt cho thị giác còn điện thoại di động thì vẫn còn là một bí ẩn. Có thể chúng gây ung thư, như một số nhà khoa học đã nói. Tôi không phủ định cũng không khẳng định, nhưng mà vậy đó. Điều tôi muốn nói là các vị phải đọc sách. Mục sư đây biết tôi đang nói với các vị sự thật. Hãy đọc sách của các tác giả da đen. Nhưng chớ dừng lại ở đó. Đây mới là đóng góp đích thực của tôi cho buổi tối nay. Đọc sách không bao giờ là phí phạm thì giờ. Hồi ở tù tôi đọc sách. Đó là nơi tôi bắt đầu đọc sách. Rất nhiều. Tôi ngấu nghiến sách như thể chúng là món cốt lết nướng. Ở trong tù người ta tắt đèn sớm lắm. Ta lên giường nghe các tiếng động. Bước chân. La hét. Như thể là nhà tù thay vì ở California thì lại ở bên trong sao Thủy, hành tinh gần mặt trời nhất. Ta thấy vừa nóng vừa lạnh và đó là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy ta đang cô đơn hoặc đang ốm. Ta cố nghĩ về những chuyện khác, dĩ nhiên là những thứ đẹp đẽ, nhưng không phải khi nào cũng làm được. Đôi lúc, một cai ngục ngồi nơi bàn gần nhất bật đèn lên và ánh sáng từ ngọn đèn đó chiếu qua chấn song xà lim của ta. Chuyện đó xảy ra với tôi không biết bao nhiêu lần. Ánh sáng từ một ngọn đèn đặt không đúng chỗ, hoặc của mấy bóng đèn cao áp trong hành lang trên đầu mình hoặc hành lang lân cận. Chừng đó tôi lấy sách, giơ ra trước ánh đèn mà đọc. Không dễ gì, bởi các con chữ và đoạn văn dường như có vẻ điên khùng hoặc kinh sợ sao đó trong cái bầu không khí dưới lòng đất và khôn lường ấy. Nhưng tôi vẫn cứ đọc, đọc hoài, đôi khi nhanh đến nỗi ngay chính tôi cũng ngạc nhiên, và đôi khi rất chậm, như thể từng câu từng chữ là một cái gì đó quý báu cho toàn bộ cơ thể tôi chứ không chỉ bộ óc tôi. Và tôi có thể đọc như thế hàng giờ, chẳng hề bận tâm mình có mệt hay không cũng chẳng màng tới cái sự thực rành rành là tôi đang ngồi tù vì đã đứng lên bảo vệ anh em bằng hữu, trong khi hầu hết bọn họ chẳng thèm mảy may bận tâm liệu tôi đã chết rục xương chưa. Tôi biết mình đang làm một việc hữu ích. Đó mới là điều đáng kể. Tôi đang làm một việc hữu ích trong khi cai tù đi tới đi lui hoặc chào nhau khi đổi gác bằng những lời thân mật mà với tôi thì nghe như những lời chửi tục tằn và, nay nghĩ kỹ lại, có lẽ đúng là tục tằn thật. Tôi đang làm một việc hữu ích. Một việc hữu ích, dù người ta muốn nhìn nó thế nào cũng mặc. Đọc cũng như suy nghĩ, như cầu nguyện, như nói chuyện với một người bạn, như trình bày suy nghĩ của mình, như lắng nghe suy nghĩ của người khác, như nghe nhạc (phải, phải), như ngắm phong cảnh, như đi dạo trên bãi biển. Và các vị, các vị những người thật tử tế, giờ chắc các vị đang tự hỏi: Barry, anh đọc gì? Tôi đọc mọi thứ. Nhưng trên tất cả tôi nhớ một cuốn sách mà tôi đã đọc trong những thời khắc tuyệt vọng nhất của đời mình và nó đã mang lại cho tôi bình an. Sách gì vậy? Đó là một cuốn gọi là Tóm tắt giản lược tổng tập Voltaire và tôi cam đoan với các vị đó là một cuốn sách rất hữu ích hay ít nhất là rất hữu ích đối với tôi.

♣ ♣ ♣

Đêm hôm đó, sau khi đưa Seaman về nhà, Fate ngủ ở khách sạn nơi tòa báo đã gọi điện từ New York để đặt phòng cho y. Lễ tân bảo y rằng người ta đợi y tới từ ngày hôm trước, sau đó đưa y một tin nhắn của sếp y hỏi xem mọi chuyện thế nào rồi. Y lên phòng rồi gọi điện về tòa soạn, biết là giờ này chẳng còn ai ở đó, và để lại tin nhắn giải thích một cách mơ hồ cuộc gặp gỡ của y với ông già.

Y tắm rồi đi nằm. Y bật tivi, tìm chương trình khiêu dâm. Y tìm được một phim trong đó một đàn bà Đức làm tình với hai đàn ông da đen. Người đàn bà Đức nói tiếng Đức và hai người da đen cũng vậy. Y tự hỏi ở Đức cũng có người da đen sao. Đoạn y đâm chán liền chuyển sang kênh miễn phí. Y xem một đoạn của một chương trình ba xu trong đó một mụ đàn bà béo ị trạc ngoài bốn mươi phải ngồi nghe những lời thóa mạ của chồng mụ, một gã béo ị độ tuổi ba mươi, và của nhân tình mới của chồng mụ, một ả đàn bà đỡ béo hơn trạc ngoài ba mươi. Thằng đàn ông này nhất định là đồ chó đẻ, y nghĩ. Chương trình này được quay ở Florida. Ai cũng mặc áo ngắn tay, ngoại trừ người dẫn chương trình, tay này mặc áo blazer trắng, quần ka ki màu, sơ mi màu xanh xám, cà vạt màu ngà. Có những lúc tay dẫn chương trình có vẻ hơi khó chịu. Gã béo vung tay vung chân và nhổm lên nhổm xuống như một tay chơi nhạc rap, được ả bồ hơi ít béo hơn của gã khích thêm. Trong khi đó, vợ gã béo thì làm thinh, cứ chăm chăm nhìn khán giả cho đến khi bật khóc mà chả nói lời nào.

Chắc tới đây là hết, Fate nghĩ. Nhưng chương trình này hoặc phần này của chương trình không kết thúc ở đó. Khi thấy vợ mình nước mắt vắn dài, gã béo càng thóa mạ dữ hơn. Giữa những thứ gã dùng để gọi vợ, Fate nghĩ y nghe thấy từ béo. Gã còn bảo vợ rằng gã không cho phép mụ tiếp tục làm gã tàn đời đâu. Tôi không phải là của cô, gã nói. Ả bồ đỡ béo hơn của gã nói: anh ấy không phải là của bà, đến lúc bà sáng mắt ra rồi đấy. Sau một hồi, người đàn bà đang ngồi kia phản ứng. Mụ đứng dậy nói mụ nghe thế đủ quá rồi. Mụ không nói với chồng hay với nhân tình của chồng mà nói thẳng với người dẫn chương trình. Tay này bảo mụ hãy làm chủ tình hình và nói những gì cần nói. Tôi bị lừa nên mới tham gia chương trình này, người đàn bà nói trong khi vẫn khóc. Chẳng ai bị lừa tới đây cả, người dẫn nói. Đừng hèn nhát, cứ nghe xem anh ấy có gì để nói với bà đi, tình nhân của gã béo nói. Nghe xem tôi có gì nói với cô đi, gã béo nói, đi vòng quanh mụ. Mụ béo giơ một bàn tay lên như thể nó là cái hãm xung rồi rời khỏi sân khấu. Ả nhân tình ngồi xuống ghế. Sau một hồi, gã béo cũng ngồi. Tay dẫn chương trình, lúc đó đang ngồi giữa khán giả, liền hỏi gã làm nghề gì. Hiện giờ tôi không có việc làm, nhưng hồi trước tôi làm bảo vệ, gã nói. Fate chuyển kênh. Y lấy trong tủ lạnh mini ra một chai whiskey hiệu Tennessee Bull. Sau ngụm đầu tiên y thấy buồn nôn. Y đậy nắp chai lại rồi cất vào tủ lạnh. Sau một lát y ngủ mất, tivi vẫn mở.

♣ ♣ ♣

Trong khi Fate đang ngủ, có một phóng sự về một người Mỹ mất tích ở Santa Teresa, bang Sonora phía Bắc Mexico. Phóng viên, Dick Medina, là người Mỹ gốc Mexico, anh ta nói về danh sách dài các phụ nữ bị giết ở Santa Teresa, nhiều người trong số đó cuối cùng phải vào nằm ở mộ chung ngoài nghĩa địa vì không ai đến nhận xác họ. Medina đang nói trên sa mạc. Đằng sau anh ta, có thể thấy một con đường và xa hơn nữa là một dải đất nhô lên mà có một lúc trong phóng sự Medina giơ tay chỉ, nói đó là Arizona. Gió thổi phơ phất mái tóc đen mượt của tay phóng viên. Anh ta mặc sơ mi ngắn tay. Sau đó là cảnh quay một vài nhà máy lắp ráp và giọng của Medina nói rằng nạn thất nghiệp hầu như không tồn tại dọc theo dải biên giới này. Người ta đứng xếp hàng dài trên vỉa hè chật hẹp. Xe tải phủ kín một thứ bụi mịn màu nâu giống cứt con nít. Những cái hố giữa đất, như hố bom thời Thế chiến thứ nhất, dần dần biến thành bãi đổ rác. Bộ mặt tươi cười của một thằng nhóc không quá hai mươi, mảnh dẻ da ngăm, xương gò má lộ, mà Medina, nói ngoài khung hình, nhận định là một pollero hay coyote tức người chuyên dẫn người di cư bất hợp pháp vượt biên. Medina nói ra một cái tên. Tên một cô gái. Sau đó là cảnh những con phố của một thị trấn bang Arizona vốn là nơi xuất thân của cô gái. Những căn nhà có khoảnh sân cháy nắng và hàng rào bằng lưới chuồng gà màu bạc. Khuôn mặt đau buồn của người mẹ. Kiệt sức vì khóc. Khuôn mặt người cha, một người cao lớn, vai rộng, nhìn chằm chằm vào ống kính chẳng nói gì. Đằng sau hai người này thấp thoáng bóng ba cô con gái vị thành niên. Ba đứa con gái khác của chúng tôi, người mẹ nói bằng tiếng Anh giọng nặng. Ba cô bé, đứa lớn nhất không thể quá mười ba, bỏ chạy vào trong bóng tối của căn nhà.

♣ ♣ ♣

Trong khi phóng sự này đang phát trên tivi, Fate mơ thấy một người từng được anh viết bài, bài đầu tiên của anh được đăng trên tờ Bình minh Da đen, sau khi ba bài khác bị từ chối. Ông ta là một ông già da đen, già hơn Seaman nhiều, sống ở Brooklyn và là thành viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ. Hồi Fate gặp ông thì chẳng còn đảng viên cộng sản nào ở Brooklyn nữa, nhưng ông già vẫn duy trì chi bộ của mình. Tên ông là gì? Antonio Ulises Jones, mặc dù bọn nhóc trong xóm gọi ông là Nhóc Scottsboro. Chúng cũng kêu ông là Già Khùng hay Túi Xương hay Da Khô, nhưng thường thì chúng gọi ông là Nhóc Scottsboro, do nhiều lý do, một trong đó là Antonio Jones hay kể về chuyện xưa kia xảy ra ở Scottsboro, về các phiên tòa ở Scottsboro, về những người da đen suýt bị hành hình kiểu lynch ở Scottsboro, những người mà ngày nay ở Brooklyn chả ai còn nhớ.

Khi Fate gặp ông, thuần túy tình cờ, Antonio Jones chắc đã tám mươi tuổi và đang sống tại một căn hộ hai phòng ở một trong các khu nghèo nhất Brooklyn. Trong phòng khách có một cái bàn và hơn mười lăm cái ghế, đều là những ghế gấp quầy bar cũ bằng gỗ, chân dài, lưng thấp. Trên tường có ảnh một người rất to con, ít nhất hai mét, ăn mặc kiểu công nhân thời xưa, đang nhận văn bằng từ tay một thằng bé nhìn thẳng vào ống kính mà mỉm cười phô ra hai hàm răng hoàn hảo trắng lóa. Mặt của tay công nhân khổng lồ, theo cách nào đó, cũng giống như mặt một đứa con nít.

“Là tôi đó,” Antonio Jones bảo Fate khi y đến nhà ông lần đầu, “còn cái ông to con là Robert Martillo Smith, công nhân bảo trì công trình công cộng thành phố Brooklyn, chuyên gia chui xuống cống và vật nhau với những con cá sấu dài mười mét.”

Trong ba cuộc trò chuyện giữa hai người, Fate hỏi Jones nhiều câu, trong đó có vài câu nhằm châm chích lương tri của ông già. Y hỏi ông về Stalin. Y hỏi ông về Lenin. Y hỏi về Marx và Antonio Jones đáp rằng lẽ ra y phải bắt đầu từ chính chỗ này mới phải: Marx là người tuyệt vời. Sau đó, Antonio Jones bắt đầu nói về Marx bằng những từ đẹp nhất. Chỉ có một thứ duy nhất ông không thích ở Marx: tính khí khó chịu. Ông đổ cho tính khí đó là do nghèo khó, bởi vì theo Jones cái nghèo không chỉ gây ra bệnh tật và oán hận mà cả tính khí khó chịu nữa. Câu hỏi kế tiếp của Fate là Jones nghĩ sao về sự sụp đổ Bức tường Berlin và sau đó là sự sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa trong đời thực. Chuyện đó có thể nhìn thấy trước, tôi tiên đoán được từ mười năm trước khi nó xảy ra, Antonio Jones đáp vậy. Thế rồi, bỗng dưng, ông bắt đầu hát Quốc tế ca. Ông mở cửa sổ và bằng một giọng trầm khiến Fate không bao giờ ngờ tới ông cất cao mấy câu đầu: Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn! Khi đã hát xong ông hỏi Fate liệu y có thấy Quốc tế ca là một bài ca được viết dành riêng cho người da đen không. Tôi không biết, Fate đáp, tôi chưa bao giờ nghĩ thế cả. Sau đó, Jones cho y một trình bày tóm lược về những người cộng sản ở Brooklyn. Trong thời Thế chiến thứ hai họ có hơn một ngàn. Sau chiến tranh con số này tăng lên mười ba ngàn. Hồi phong trào McCarthy mới bắt đầu thì còn khoảng bảy trăm, khi phong trào McCarthy kết thúc thì chỉ còn chưa quá hai trăm đảng viên cộng sản ở Brooklyn. Hồi thập niên sáu mươi chỉ còn phân nửa con số đó và đến đầu thập niên bảy mươi chỉ còn đếm được không quá ba mươi đảng viên cộng sản rải rác ở năm chi bộ không thể nào thu nhỏ hơn được nữa. Cuối thập niên bảy mươi thì còn lại mười. Và đến đầu thập niên tám mươi thì chỉ còn bốn. Trong suốt thập niên đó, trong số bốn người còn sót lại thì hai người chết vì ung thư còn một người mất tung mất tích mà không nói với ai. Có thể ông ấy chỉ đi đâu đó và chết trên đường đi hoặc trên đường về, Antonio Jones trầm ngâm. Điều chắc chắn là ông không bao giờ xuất hiện nữa, ở trụ sở không, ở nhà không, ở các quán bar ông thường đến cũng không. Có khi ông đến sống với con gái tại Florida. Ông là người Do Thái và có cô con gái sống ở đấy. Điều chắc chắn là đến năm 1987 chỉ còn lại một người, là tôi. Và tôi vẫn còn đây, ông nói. Vì sao? Fate hỏi. Antonio Jones đắn đo trong mấy giây, cân nhắc xem nên trả lời sao. Cuối cùng ông nhìn thẳng vào mắt Fate nói:

“Vì phải có ai đó duy trì cho chi bộ hoạt động chứ.”

Mắt Jones nhỏ và đen như than, mi mắt ông sùm sụp nếp nhăn. Ông hầu như không có mí mắt. Lông mày ông rụng gần hết, và đôi khi, lúc ông cùng Fate ra ngoài đi bộ trong khu xóm, ông đeo đôi kính râm to và cầm gậy, đến khi về thì lại kê gậy cạnh cửa. Ông có thể mấy ngày liền không ăn gì. Khi ta đến một độ tuổi nhất định rồi thì đồ ăn không tốt, ông nói. Ông không liên lạc gì với bất cứ người cộng sản nào ở Hoa Kỳ hay ở nước ngoài, trừ tiến sĩ Minski, giáo sư ở Đại học California-Los Angeles đã về hưu, ông này thì thi thoảng ông có thư từ. Cho đến mười lăm năm trước tôi vẫn còn thuộc Quốc tế thứ ba. Minski thuyết phục được tôi gia nhập Quốc tế thứ tư, ông nói. Rồi ông nói:

“Con ạ, để ta cho con một cuốn sách rồi sẽ rất có ích cho con.”

Fate nghĩ chắc là Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, có lẽ bởi vì, trong phòng khách, y đã thấy chất đống ở mấy góc phòng và dưới ghế là một số bản Tuyên ngôn do chính Antonio Jones ấn hành - ai mà biết được ông kiếm đâu ra tiền hay đã dỗ ngon dỗ ngọt nhà in ra sao - nhưng khi ông già đặt cuốn sách vào tay y thì y ngạc nhiên thấy đó không phải Tuyên ngôn mà là một cuốn dày cộp có nhan đề Nghề buôn nô lệ của một người tên Hugh Thomas viết, người này y chưa nghe nói tới bao giờ. Thoạt đầu y từ chối không nhận.

“Cuốn này đắt tiền quá, với lại chắc chắn là bản duy nhất ông có,” y nói.

Jones đáp rằng y không phải bận tâm, ông mua được nó không phải bằng tiền mà bằng sự khôn ngoan, nghe vậy Fate suy ra ông có được cuốn này là do ăn cắp, mặc dù chuyện đó y cũng thấy khó tin, bởi ông già chẳng có vẻ gì là kẻ đi làm những chuyện như vậy, mặc dù cũng có khả năng ông già có kẻ đồng lõa ở hiệu sách nơi ông thó được những gì mình thích, một chú da đen giả mù mỗi khi Jones luồn một cuốn sách vào dưới áo khoác.

Khi về đến căn hộ vài giờ sau đó, chỉ cần lật qua cuốn sách, y đã nhận ra tác giả là người da trắng. Một người Anh da trắng cũng từng là giáo sư ở Sandhurst, Học viện Quân sự Hoàng gia, khiến Fate cảm thấy ông ta ít nhiều tương đương với hạ sĩ quan huấn luyện, một tay trung sĩ người Anh chó má mặc quần soóc, thế là y dẹp sách sang một bên không đọc. Ngoài ra thì cuộc phỏng vấn Antonio Ulises Jones được người đọc đón nhận. Fate nhận thấy rằng với hầu hết đồng nghiệp y bài báo này chẳng là gì hơn một sự liều dấn sâu vào cảnh quan người Mỹ gốc Phi. Một mục sư khùng điên, một tay nghệ sĩ nhạc jazz đã về vườn khùng điên, thành viên cuối cùng khùng điên của Đảng Cộng sản Brooklyn (Quốc tế thứ tư). Điều tra xã hội học mới thiệt là ngoạn mục. Nhưng họ thích bài báo và chẳng bao lâu sau y được chuyển thành phóng viên trong biên chế. Y chẳng bao giờ gặp lại Antonio Jones, cũng như rất có thể sẽ không bao giờ gặp lại Barry Seaman nữa.

Khi y thức giấc trời vẫn còn tối.

♣ ♣ ♣

Trước khi rời Detroit y đến hiệu sách duy nhất đáng mặt là hiệu sách ở thành phố mua Nghề buôn nô lệ của Hugh Thomas, cựu giáo sư Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst. Đoạn y theo đại lộ Woodward vòng ra khu trung tâm. Y uống một tách cà phê và ăn bánh nướng điểm tâm ở một quán tại Greektown. Khi y bảo không muốn ăn gì thêm, chị hầu bàn, một phụ nữ tóc vàng trạc tuổi bốn mươi, liền hỏi y có ốm không. Y bảo y bị đau dạ dày. Chị hầu bàn liền cất tách cà phê vừa mới rót cho y rồi bảo chị ta có thứ tốt hơn cho y. Lát sau chị ta quay lại mang theo một món trà hãm bằng cây anit và một thứ thảo mộc gọi là boldo mà Fate chưa nếm bao giờ và lúc đầu Fate từ chối không chịu thử.

“Anh cần là cần cái này chứ không phải cà phê,” chị hầu bàn nói.

Chị ta là một phụ nữ cao, mảnh khảnh, cặp ngực rất to và hông đẹp. Chị ta mặc váy đen và áo cánh trắng, đi giày đế bằng. Mãi một hồi hai người không nói gì, cả hai đều im lặng chờ đợi, cho đến khi Fate nhún vai nhấp một ngụm trà. Chừng đó chị hầu bàn mỉm cười mà bỏ đi phục vụ khách khác.

♣ ♣ ♣

Ở khách sạn, khi sắp trả tiền phòng, y phát hiện ra mình có tin nhắn điện thoại từ New York. Một giọng y không nhận ra yêu cầu y liên lạc với trưởng ban của y hoặc trưởng ban thể thao càng sớm càng tốt. Y gọi điện thoại từ dưới sảnh. Y nói chuyện với cô gái ngồi bàn kế bên thì cô ta bảo y chờ trong khi cô đi tìm trưởng ban. Lát sau một giọng không quen cất lên. Người nói tự giới thiệu là Jeff Roberts, trưởng ban thể thao, rồi anh ta bắt đầu nói với Fate về một trận quyền Anh. Trận này Count Pickett đấu, anh ta nói, mà chúng tôi lại chẳng có ai đi viết bài cả. Tay trưởng ban gọi y là Oscar cứ như hai người đã quen nhau hàng bao năm rồi, và cứ nói hoài nói mãi về Count Pickett, một tay đấm hạng dưới nặng đầy hứa hẹn của Harlem.

“Chuyện đó thì liên quan gì tới tôi?” Fate nói.

“Chậc, Oscar,” trưởng ban thể thao nói, “cậu biết là Jimmy Lowell chết rồi đấy, mà chúng tôi thì vẫn chưa tìm được ai thay thế anh ta.”

Fate nghĩ trận đấu chắc là ở Detroit hay Chicago và thoáng nghĩ nấn ná thêm vài hôm chưa về New York vội cũng chẳng phải là một ý tồi.

“Anh muốn tôi viết bài về trận ấy phải không?”

“Đúng đấy bồ ạ,” Roberts nói, “chừng năm trang, chân dung ngắn về Pickett, trận đấu, và chút màu sắc địa phương.”

“Đấu ở đâu?”

“Ở Mexico,” trưởng ban thể thao nói, “và hãy nhớ là ban tụi tôi cấp công tác phí hậu hơn ban của cậu nhiều.”

♣ ♣ ♣

Hành lý xếp xong xuôi, Fate đến căn hộ của Seaman lần cuối. Y thấy ông già đang đọc sách và ghi ghi chép chép. Từ dưới bếp thoảng lên mùi gia vị và hành tỏi phi.

“Tôi đi đây,” y nói. “Tôi ghé qua để tạm biệt ông.”

Seaman hỏi ông có thể mời y ăn gì đó đã không.

“Không, tôi không có thì giờ,” Fate nói.

Họ ôm nhau rồi Fate xuống cầu thang, bước ba bậc một làm như đang rất vội lao ra đường, như một thằng nhóc chạy ra ngoài để hưởng một buổi chiều tự do với chúng bạn. Trên đường lái xe về phía sân bay Detroit-Wayne County, y nghĩ về những cuốn sách lạ lùng của Seaman, Bách khoa toàn thư Pháp giản lược và cuốn mà y chưa thấy nhưng Seaman nói là đã đọc trong tù, Tóm tắt giản lược tổng tập Voltaire, khiến cho y phá ra cười.

♣ ♣ ♣

Ở sân bay y mua vé đến Tucson. Trong khi đợi, tựa vào quầy một quán cà phê, y nhớ lại giấc mơ đêm trước về Antonio Jones, ông già chết đã mấy năm nay. Như trước kia, y tự hỏi Jones có thể chết vì gì, và câu trả lời duy nhất y nghĩ ra được là chết vì già. Một hôm, đang đi bộ trên con phố nào đấy ở Brooklyn, Antonio Jones thấy mệt, liền ngồi xuống vỉa hè và một giây sau đã thôi hiện hữu. Có lẽ chuyện với mẹ mình cũng xảy ra giống như thế, Fate nghĩ, nhưng trong thâm tâm y biết là không phải. Khi máy bay cất cánh từ Detroit một cơn bão đã bắt đầu trút xuống thành phố.

Fate mở cuốn sách của người da trắng từng là giáo sư ở Sandhurst viết và bắt đầu đọc từ trang 361. Trang đó viết: “Phía bên kia khu tam giác châu thổ Niger, bờ biển châu Phi rốt cuộc lại ngoặt về phía Nam và ở đó, tại Cameroon, vào cuối thế kỷ mười tám, các thương nhân Liverpool từ Anh đến đã đi tiên phong mở ra một nhánh mới trong nghề buôn nô lệ. Xa hơn nữa, mãi về phía Nam, vùng sông Gabon, ngay phía Bắc mũi Lopez, cũng trở thành một vùng nô lệ hoạt động nhộn nhịp trong thập niên 1780. Đức Cha John Newton thấy dường như vùng này sở hữu ‘những con người nhân văn nhất và đạo đức nhất mà tôi từng gặp ở châu Phi’, có lẽ ‘vì họ là những người ít có liên hệ với người châu Âu nhất tại thời điểm đó’. Nhưng ngoài bờ biển, người Hà Lan đã từ lâu dùng hòn đảo Corisco (từ này trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là ‘sét’) làm trung tâm giao dịch, tuy không chuyên về nô lệ.” Đoạn Fate thấy một tranh minh họa - sách có khá nhiều tranh minh họa - cho thấy một cảng Bồ Đào Nha trên Bờ biển Vàng, gọi là Elmina, bị người Đan Mạch chiếm cứ vào năm 1637. Suốt ba trăm năm mươi năm Elmina là một trung tâm xuất khẩu nô lệ. Trên cảng, và trên một pháo đài nhỏ gần đó xây trên đỉnh một ngọn đồi, phấp phới một lá cờ mà Fate không nhận ra được. Cờ của vương quốc nào vậy ta? y tự hỏi trước khi mắt khép lại và y ngủ mất, sách vẫn để trên lòng.

♣ ♣ ♣

Ở sân bay Tucson y thuê một chiếc xe, mua một tấm bản đồ đi đường, rồi lái xe về phía Nam thành phố. Bầu không khí khô của sa mạc hình như mài sắc sự thèm ăn uống của y, cho nên y dự định dừng xe ăn tối ở quán ăn ven đường đầu tiên y gặp. Hai chiếc Camaro cùng model và cùng màu lướt ngang qua y, hú còi. Y nghĩ chắc họ đang đua xe. Mấy xe này chắc có động cơ cải tiến, thân xe lóa sáng dưới mặt trời Arizona. Y đi qua một nông trại nhỏ có bán cam, nhưng không dừng lại. Nông trại này cách xa lộ chừng trăm mét và quầy bán cam, một chiếc xe đẩy cũ kỹ có che vải bạt và bánh to bằng gỗ, đứng ngay bên lề đường, do hai thằng bé Mexico trông coi. Đi thêm vài cây số nữa theo con đường, y thấy một chỗ gọi là Góc Cochise, liền đỗ xe trong một bãi to, gần một trạm xăng. Hai chiếc Camaro đỗ cạnh một lá cờ phía trên có một sọc đỏ còn phía dưới có một sọc đen. Chính giữa lá cờ là một vòng tròn trắng, phía trong có mấy chữ Câu lạc bộ ô tô Chiricahua. Y thoáng nghĩ có khi người lái hai chiếc Camaro kia là dân Anh điêng, nhưng rồi y thấy ý nghĩ đó thật vớ vẩn. Y ngồi vào một góc nhà hàng, cạnh một cửa sổ từ đó có thể thấy xe mình. Ở bàn bên cạnh có hai người. Một người trẻ và cao, trông như giáo viên công nghệ thông tin. Anh ta có nụ cười dễ gần và thỉnh thoảng lại áp hai tay lên mặt, có thể là biểu hiện của sửng sốt hay kinh hoảng hay bất cứ gì khác. Người kia thì y không thấy mặt, nhưng rõ là khá lớn tuổi hơn người cùng bàn. Cổ ông này đậm, tóc bạc trắng, ông ta đeo kính. Mỗi khi nói hoặc lắng nghe ông ta đều thụ động, không làm cử chỉ cũng không nhúc nhích.

♣ ♣ ♣

Cô gái phục vụ đến chỗ bàn y là người Mexico. Y gọi cà phê rồi đọc đi đọc lại thực đơn mất vài phút. Y hỏi họ có bánh club sandwich không. Cô hầu bàn lắc đầu. Bít tết, Fate nói. Kèm salsa không? hầu bàn hỏi. Salsa là gì? Fate hỏi. Ớt, cà chua, hành và rau mùi. Rồi thêm ít gia vị nữa. Được, để tôi thử xem. Khi cô hầu bàn đi rồi y nhìn quanh nhà hàng. Ở một bàn y thấy có hai người Anh điêng, một người lớn một thiếu niên, chắc là cha con. Ở bàn khác y thấy hai đàn ông da trắng cùng một đàn bà Mexico. Hai người đàn ông giống hệt nhau, hai anh em sinh đôi đúc cùng một khuôn trạc năm mươi tuổi, người đàn bà Mexico thì chắc tầm bốn lăm, và rõ là hai anh em sinh đôi mê bà ta điên cuồng. Ấy là chủ hai chiếc Camaro, Fate nghĩ. Y cũng nhận ra chẳng ai trong nhà hàng là người da đen, trừ y.

♣ ♣ ♣

Người trẻ tuổi ở bàn bên nói gì đó về cảm hứng. Fate chỉ nghe được rằng: ông từng là cảm hứng cho tất cả chúng tôi. Người tóc bạc nói điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Người trẻ tuổi giơ tay lên mặt nói gì đó về sức mạnh ý chí, về sức mạnh duy trì một cái nhìn. Đoạn anh ta bỏ tay khỏi mặt và với cặp mắt ngời sáng anh ta nói: tôi không định nói về một cái nhìn tự nhiên, một cái nhìn của cảnh giới tự nhiên, ý tôi là một cái nhìn trong cõi trừu tượng. Người tóc bạc nói: dĩ nhiên. Khi ông tóm được Jurevich, người trẻ tuổi nói, và rồi giọng anh ta bị chìm đi trong tiếng động cơ diesel rống chói tai. Một chiếc xe đầu kéo vừa đỗ vào bãi. Hầu bàn đặt cà phê và bít tết kèm salsa lên bàn y. Người trẻ tuổi vẫn đang nói về người có tên Jurevich đã bị người tóc bạc tóm được.

“Không khó đâu,” người tóc bạc nói.

“Một tên giết người cẩu thả,” người trẻ tuổi nói, đoạn anh ta giơ tay lên miệng như sắp hắt hơi.

“Không,” người tóc bạc nói, “một tên giết người cẩn thận.”

“Ồ, tôi thì nghĩ là hắn cẩu thả,” người trẻ tuổi nói.

“Không, không, một tên giết người cẩn thận,” người tóc bạc nói.

“Đằng nào tệ hơn?” người trẻ tuổi nói.

Fate cắt một miếng thịt. Thịt vừa dày vừa mềm, ăn ngon. Salsa thì đậm đà, nhất là khi ta đã quen với cái nóng.

“Bọn cẩu thả tệ hơn,” người tóc bạc nói. “Khó mà xác lập được mẫu hành vi của chúng.”

“Nhưng có xác lập được không?” người trẻ tuổi hỏi.

“Nếu có phương tiện và thì giờ, cái gì ta cũng làm được,” người tóc bạc nói.

Fate giơ tay ngoắc cô hầu bàn. Người đàn bà Mexico tựa đầu lên vai một trong hai anh em sinh đôi và người sinh đôi kia mỉm cười như thể đó là chuyện thường tình. Fate tưởng tượng rằng bà ta là vợ của người sinh đôi đang choàng tay ôm bà ta, nhưng cuộc hôn nhân của họ không dập tắt được tình yêu hay niềm hy vọng của người anh em kia. Ông bố Anh điêng yêu cầu thanh toán. Trong khi đó, cậu nhóc Anh điêng đã lấy từ đâu ra một cuốn truyện tranh và đang đọc. Ngoài bãi đỗ xe Fate thấy tay tài xế xe tải vừa mới đỗ xe xong. Anh ta vừa mới đi vệ sinh bên trạm xăng, giờ đang quay ra, vừa đi vừa chải mái tóc vàng bằng một cái lược bé tí. Cô hầu bàn hỏi y dùng gì. Thêm một cà phê và một cốc nước to.

“Chúng ta đã quen với cái chết rồi,” y nghe người trẻ tuổi nói.

“Bao giờ chả vậy,” người tóc bạc nói, “luôn luôn.”

♣ ♣ ♣

Vào thế kỷ mười chín, tầm giữa hay cuối thế kỷ mười chín, người tóc bạc nói, xã hội quen với việc lọc cái chết qua lớp vải ngôn từ. Đọc những bài phóng sự thời đó, ta có thể nghĩ thời đó hầu như chẳng có tội ác nào, hoặc chỉ một vụ án mạng thôi là đủ để làm bấn loạn cả một đất nước. Chúng ta không muốn giữ cái chết trong nhà mình, trong giấc mơ và trong tưởng tượng của mình, thế nhưng trên thực tế vẫn có kẻ phạm những tội ác kinh khủng, cắt xẻo người ta, hãm hiếp đủ loại, kể cả giết người hàng loạt. Dĩ nhiên, hầu hết những kẻ giết người hàng loạt không bao giờ bị tóm. Cứ lấy trường hợp nổi tiếng nhất thời đó mà xem. Chẳng ai biết Jack Máy Xẻ là ai. Mọi thứ đều đi qua bộ lọc ngôn từ, mọi thứ đều được cắt gọt cho vừa với nỗi sợ của chúng ta. Một đứa bé làm gì khi nó sợ? Nó nhắm mắt lại. Và nó thét lên nữa, nhưng trước hết nó nhắm mắt lại. Ngôn từ phục vụ mục tiêu này. Và điều thú vị là, những nguyên mẫu của sự điên và sự tàn bạo của con người được phát minh ra không phải bởi con người thời đại chúng ta mà bởi tổ tiên chúng ta. Nói cách khác, người Hy Lạp đã phát minh ra cái ác, nhìn thấy cái ác mà tất cả chúng ta mang trong mình, song những bằng chứng hay chứng thực về cái ác này không còn làm chúng ta lay động, chúng ta thấy chúng có vẻ phù phiếm, vô nghĩa. Cũng có thể nói y như vậy về sự điên. Chính người Hy Lạp đã mở cho ta thấy một loạt khả năng điên, thế nhưng ngày nay chúng chả có nghĩa gì với chúng ta cả. Các vị sẽ nói: mọi thứ đều thay đổi. Dĩ nhiên mọi thứ đều thay đổi, nhưng các nguyên mẫu của tội ác thì không thay đổi, cũng như bản tính của chúng ta không thay đổi. Có lẽ là vì vào thời đó xã hội thượng lưu hãy còn quá nhỏ bé. Tôi đang nói về thế kỷ mười chín, thế kỷ mười tám, thế kỷ mười bảy. Rõ ràng xã hội quá nhỏ bé. Hầu hết con người ta vẫn đang nằm ở ngoài lề xã hội. Chẳng hạn, vào thế kỷ mười bảy, ít nhất hai mươi phần trăm một chuyến tàu chở lô hàng nô lệ chết trên đường đi. Ý tôi muốn nói ở đây là những người da màu bị đem đi bán, tới Virginia, ví dụ vậy. Và chuyện đó chẳng làm ai bức xúc cũng chẳng được đưa lên trang nhất các báo Virginia hay khiến cho ai đó ra đường đòi đem thuyền trưởng tàu đó ra treo cổ. Nhưng nếu một chủ đồn điền phát điên giết chết hàng xóm rồi cưỡi ngựa về nhà, vừa xuống ngựa là giết luôn vợ mình, hai người chết cả thảy, xã hội Virginia sẽ khiếp vía ít nhất là sáu tháng liền, và truyền thuyết về kẻ giết người trên lưng ngựa có thể lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người Pháp chẳng hạn. Dưới thời Công xã Paris năm 1871, hàng ngàn người bị giết nhưng không ai nhỏ lấy một giọt nước mắt. Cũng khoảng thời gian đó một thợ mài dao giết vợ và mẹ già y (không phải mẹ vợ y, mà là mẹ đẻ của y, bạn thân mến ạ) và sau đó bị cảnh sát bắn hạ. Tin đó không những được đăng trên các báo khắp nước Pháp mà còn được đưa lên các báo châu Âu và thậm chí còn xuất hiện trên tờ Examiner của New York. Tại sao? Câu trả lời: những người bị giết trong Công xã Paris không thuộc về xã hội, những người da màu chết trên thuyền không thuộc về xã hội, trong khi người đàn bà bị giết ở thủ phủ một tỉnh của Pháp và kẻ giết người ngồi trên lưng ngựa ở Virginia thì thuộc về xã hội, tức là những gì xảy ra với họ có thể viết ra được, có thể đọc được. Tức là, ngôn từ thời đó hầu hết được dùng trong nghệ thuật trốn tránh chứ không phải trong nghệ thuật làm phơi lộ. Hay có thể dù gì đi nữa chúng vẫn làm phơi lộ điều gì đó. Điều đó là gì, tôi phải thừa nhận là không biết.

♣ ♣ ♣

Người trẻ tuổi lấy hai tay che mặt.

“Đây không phải chuyến đi đầu tiên của ông tới Mexico,” anh ta nói, bỏ tay khỏi mặt và mỉm nụ cười như của loài mèo.

“Không,” người tóc bạc nói. “Mấy năm trước, tôi đã ở đấy một thời gian, cố giúp một tay, nhưng tình hình thật vô phương.”

“Thế tại sao lần này ông trở lại?”

“Để nhìn xem, chắc vậy,” người tóc bạc nói. “Tôi đang ở nhà một người bạn, tôi làm quen với ông ấy hồi đến Mexico lần trước. Người Mexico hiếu khách lắm.”

“Không phải đi công tác chính thức à?”

“Ồ không,” người tóc bạc nói.

“Vậy ý kiến không chính thức của ông về những gì đang xảy ra ở đó là thế nào?”

“Tôi có vài ý kiến, Edward ạ, và tôi không muốn ý kiến nào trong số đó lên báo mà không được tôi đồng ý.”

Người trẻ tuổi lấy tay che mặt mà nói:

“Giáo sư Kessler ạ, tôi im như thóc.”

“Được rồi,” người tóc bạc nói. “Tôi sẽ nói với anh ba điều tôi tin chắc: (a) bất cứ ai sống ở thành phố đó đều ở ngoài xã hội, tất cả, tuyệt đối không trừ một ai, đều giống như những người Cơ đốc thời cổ đại trong đấu trường La Mã; (b) các tội ác có nhiều chữ ký khác nhau; (c) thành phố này có vẻ nhộn nhịp, dường như đang tiến tới trước theo cách nào đó, nhưng điều tốt nhất mà tất cả họ - tất cả, tất cả, không có ngoại lệ - nên làm là đêm nào đấy ra khỏi nhà tiến vào sa mạc và băng qua biên giới.”

Khi hoàng hôn đỏ chói bắt đầu đổ xuống và hai anh em sinh đôi, hai cha con người Anh điêng và mấy người ở bàn bên đã đi lâu rồi, Fate quyết định gọi bồi để trả tiền. Một cô gái da màu mũm mĩm, không phải cô hầu bàn hồi nãy, đem biên lai tới và hỏi mọi thứ có vừa khẩu vị y không.

“Gì cũng thích,” Fate vừa nói vừa lục tiền trong túi.

Đoạn y trở lại ngắm hoàng hôn. Y nghĩ về mẹ y, về bà hàng xóm của mẹ y, về tòa báo, về những con phố của New York với một nỗi buồn và sự chán chường không thể nói thành lời. Y mở cuốn sách của ông cựu giáo sư Sandhurst và đọc một đoạn hú họa. Nhiều thuyền trưởng tàu nô lệ chỉ coi nhiệm vụ của mình là đã hoàn thành một khi đã giao xong lô hàng nô lệ của mình ở Tây Ấn. Tuy nhiên thường là tiền bán nô lệ không thể thu đủ nhanh để trả cho tàu nô lệ một kiện đường thay cho tiền mặt. Các thương nhân và thuyền trưởng không thể biết chắc ở quê nhà người ta sẽ trả giá bao nhiêu cho hàng hóa mà họ mang về bằng tiền túi của mình. Các đồn điền có thể phải mất vài năm mới trả được tiền mua nô lệ. Đôi khi, thương nhân châu Âu thích được người ta trả bằng ngân phiếu hơn là nhận đường, bột chàm, bông vải hay gừng để đổi lấy nô lệ của họ, vì ở London giá các mặt hàng này thường khó lường hoặc rất thấp. Tên hay thật, y nghĩ. Bột chàm, đường, gừng, bông vải. Những bông hoa đo đỏ của bụi chàm. Thuốc nhuộm màu xanh dương sẫm, với những tia lóng lánh màu đồng. Một người đàn bà thân vẽ màu chàm, đang tắm dưới vòi hoa sen.

Khi y thức giấc, cô hầu bàn mũm mĩm lại gần hỏi y đi đâu. Tới Mexico, Fate nói.

“Tôi cũng đoán vậy,” cô hầu bàn nói, “nhưng mà ở đâu bên Mexico?”

Tựa mình lên quầy, một đầu bếp vừa hút thuốc vừa nhìn họ, chờ y trả lời.

“Đến Santa Teresa,” Fate nói.

“Chỗ đó chả hay lắm,” cô hầu bàn nói, “nhưng mà lớn, có nhiều câu lạc bộ và nhiều chỗ vui chơi.”

Fate nhìn xuống sàn, mỉm cười, nhận ra rằng hoàng hôn sa mạc đã nhuộm gạch lát sàn thành màu đỏ rất dịu.

“Tôi là nhà báo,” y nói.

“Anh sắp viết về các tội ác,” người đầu bếp nói.

“Tôi không hiểu anh nói chuyện gì. Tôi đi viết về một trận quyền Anh thứ Bảy này,” Fate nói.

“Ai đấu?” người đầu bếp hỏi.

“Count Pickett, võ sĩ hạng dưới nặng người New York.”

“Hồi trước tôi theo dõi các trận đấu luôn,” người đầu bếp nói. “Tôi đặt cược và mua tạp chí quyền Anh, nhưng một hôm tôi quyết định bỏ. Nay thì tôi chẳng biết tên tuổi ai với ai đâu. Anh muốn uống gì không? Là tôi mời nhé.”

Fate ngồi vào quầy và xin một cốc nước. Người đầu bếp cười nói là theo anh ta biết nhà báo ai cũng uống rượu hết.

“Tôi cũng uống,” Fate nói. “Nhưng tôi e dạ dày tôi đang không ổn lắm.”

Mang cho y cốc nước xong, người đầu bếp muốn biết ai sẽ đấu với Count Pickett.

“Tôi không nhớ tên,” Fate nói. “Tôi có ghi đâu đó, chắc là người Mexico.”

“Lạ nhỉ,” người đầu bếp nói. “Xưa nay chưa hề có tay đấm hạng dưới nặng giỏi nào người Mexico cả. Hai mươi năm một lần có một tay hạng nặng, rồi thường thì thằng cha lại hóa điên hoặc bị bắn chết, nhưng hạng dưới nặng thì không có.”

“Có thể tôi nhầm, không phải người Mexico,” Fate thừa nhận.

“Có thể người Cuba hay Colombia,” đầu bếp nói, “mặc dù người Colombia cũng chẳng có truyền thống hạng dưới nặng nốt.”

Fate uống cốc nước rồi đứng dậy duỗi người. Đến lúc tôi phải đi rồi, y nói, dù thực ra y cảm thấy dễ chịu ở nhà hàng này.

“Từ đây đến Santa Teresa bao xa?” y hỏi.

“Còn tùy,” đầu bếp nói. “Đôi khi chỗ biên giới có nhiều xe tải, ta phải chờ nửa tiếng đồng hồ. Cứ cho từ đây tới Santa Teresa mất ba tiếng, rồi nửa tiếng hay bốn lăm phút chờ ở biên giới thì vị chi bốn tiếng cả thảy.”

“Từ đây tới Santa Teresa chỉ mất tiếng rưỡi thôi,” cô hầu bàn nói.

Người đầu bếp nhìn cô ta mà nói còn tùy đi xe nào và tài xế rành địa hình đến đâu.

“Đã khi nào anh lái xe trong sa mạc chưa?”

“Chưa,” Fate nói.

“Chà, không dễ đâu. Nhìn thì dễ. Có vẻ như dễ nhất trần đời, nhưng không dễ tí nào hết,” đầu bếp nói.

“Anh nói đúng,” cô hầu bàn nói, “nhất là về đêm, lái xe ban đêm trong sa mạc là tôi sợ lắm.”

“Nhầm lẫn một lần, rẽ sai một chỗ thôi là ta có thể lái chệch hướng đến năm mươi cây số,” đầu bếp nói.

“Có lẽ tôi nên đi bây giờ, tranh thủ trời còn sáng,” Fate nói.

“Cũng thế thôi, đầu bếp nói, năm phút nữa là trời tối ngay. Hoàng hôn trong sa mạc có vẻ như chẳng bao giờ chấm dứt, cho đến khi mình chưa kịp nhận ra gì thì nó đã chấm dứt rồi. Cứ như ai đó đã tắt hết đèn vậy,” đầu bếp nói.

Fate xin thêm cốc nước nữa rồi đi lại uống bên cửa sổ. Anh có muốn ăn gì trước khi đi không? y nghe đầu bếp hỏi. Y không trả lời. Sa mạc bắt đầu biến mất.

♣ ♣ ♣

Y lái xe suốt hai tiếng đồng hồ theo những con đường tối, vừa lái vừa bật radio nghe một đài Phoenix phát nhạc jazz. Y đi qua nhiều nơi có nhà cửa có nhà hàng có những khoảnh sân hoa trắng mọc và có những chiếc xe đỗ xộc xà xộc xệch, nhưng trong nhà thì chẳng đèn chẳng đóm, như thể cư dân thảy đều đã chết ngay đêm đó và mùi máu vẫn còn vất vưởng trong không khí. Y nhìn ra hình dáng những ngọn đồi in trên nền trăng và hình dáng những đám mây thấp đứng yên một chỗ hoặc vào khoảnh khắc nào đấy lao về phía Tây như bị hối thúc bởi ngọn gió giật bất ngờ làm dậy bụi lên, những đám bụi được đèn pha xe hay những cái bóng hình thành bởi luồng sáng từ đèn pha xe khoác lên những bộ áo quần kỳ lạ, áo quần của con người, như thể các đám bụi kia là những tay cầu bơ cầu bất lang thang hay những bóng ma lù lù trồi lên dọc ven đường.

Y lạc đường hai lần. Một lần y những muốn quay lại, về phía nhà hàng ban nãy hay về Tucson. Lần khác y tới một thị trấn tên là Patagonia nơi một thằng bé ở trạm xăng cho y biết đường dễ nhất để đến Santa Teresa. Trên đường ra khỏi Patagonia y thấy một con ngựa. Khi đèn pha xe quét qua con ngựa, nó liền ngẩng đầu lên nhìn y. Fate dừng xe lại chờ. Con ngựa màu đen và sau một hồi nó cất bước, biến mất vào bóng tối. Y đi ngang qua một ngọn núi phẳng mà người ta gọi là núi mặt bàn, hay cái y cho là núi mặt bàn. Núi mặt bàn này thật đồ sộ, đỉnh hoàn toàn phẳng, từ đầu này chân đế đến đầu kia chân đế ít nhất cũng phải năm cây số. Gần đường có một con mương. Y ra khỏi xe, vẫn để đèn sáng, đi tiểu một hồi lâu, vừa tiểu vừa hít thở không khí ban đêm mát mẻ. Rồi thì con đường dốc dần xuống dẫn vào một chỗ kiểu như thung lũng mà thoạt trông y nghĩ là rộng mênh mông. Ở góc xa nhất của thung lũng y thấy hình như có ánh lập lòe. Nhưng đó có thể là bất cứ cái gì. Một đoàn xe tải chạy chậm rì, những ánh đèn đầu tiên của một thị trấn. Mà cũng có thể chỉ là mong muốn của y hòng thoát khỏi bóng tối, cái bóng tối mà bằng cách nào đó khiến y nhớ lại thời thơ ấu và thời niên thiếu của y. Y nghĩ rằng vào một lúc nào đó giữa thời thơ ấu và thời niên thiếu y đã mơ thấy cảnh này, không tối như thế, không giống sa mạc như thế, nhưng chắc chắn là tương tự. Y thấy mình đang đi xe buýt cùng một trong các chị em gái của mẹ, họ đang đi một chuyến ngắn, từ New York đến một thị trấn nhỏ gần New York. Y ngồi cạnh cửa sổ và phong cảnh luôn luôn không đổi, toàn nhà chọc trời với xa lộ, cho đến khi bất ngờ miền quê xuất hiện. Chính lúc đó, hay có thể sớm hơn, hoàng hôn đã bắt đầu và y ngắm cây cối, một khu rừng nhỏ mặc dù trong mắt y nó có vẻ lớn hơn. Thế rồi y có cảm giác mình thấy một người đàn ông đi bộ ven khu rừng nhỏ. Người này sải bước, như không muốn để đêm vượt lên bắt kịp mình. Y tự hỏi người này là ai. Y chỉ biết một điều, đó là người chứ không phải bóng ma vì ông ta mặc sơ mi và vừa đi vừa vung tay theo nhịp bước. Sự cô đơn của người đó quá lớn đến nỗi Fate nhớ mình chỉ muốn nhìn đi nơi khác và ôm lấy mẹ, thế nhưng y vẫn mở to mắt nhìn cho đến khi xe đã ra khỏi khu rừng và một lần nữa lại xuất hiện những tòa cao ốc, nhà máy, kho chứa hàng liền liền dọc hai bên đường.

Sự cô đơn của thung lũng mà lúc này y đang băng qua, bóng tối của nó, còn lớn hơn. Y hình dung thấy mình cũng sải bước dọc ven đường. Y rùng mình. Đoạn y nhớ lại bình cốt đựng tro mẹ y và cái tách của bà hàng xóm mà y chưa trả lại, chỗ cà phê lúc này chắc hẳn lạnh vô cùng tận, và những cuốn băng video của mẹ y mà từ nay sẽ chẳng ai xem nữa. Y nghĩ hay mình dừng xe đợi trời sáng. Bản năng mách bảo y rằng một người da đen ngủ trong chiếc xe thuê đỗ nơi ven đường chẳng phải là hành động khôn ngoan lắm ở Arizona. Y chuyển kênh. Một giọng bằng tiếng Tây Ban Nha bắt đầu kể chuyện một ca sĩ ở Gomez Palacio vừa quay về thành phố quê nhà tại bang Durango chỉ để tự sát. Sau đó y nghe giọng một người đàn bà hát ranchera*. Một hồi lâu y vừa lái xe qua thung lũng vừa nghe. Sau đó y thử quay lại kênh Phoenix phát nhạc jazz nhưng không dò được.

♣ ♣ ♣

Bên phía Hoa Kỳ của cửa khẩu biên phòng có một thị trấn tên Adobe. Từng là một nhà máy chuyên sản xuất gạch sống, nay nó là một quần thể nhà ở và các cửa hàng thiết bị, tất cả đều bám dọc theo con phố chính. Ở cuối phố này có một khoanh đất trống thắp đèn sáng trưng và ngay sau đó là cửa khẩu của Hoa Kỳ.

Nhân viên hải quan hỏi hộ chiếu của Fate, y liền đưa hộ chiếu ra. Cùng với hộ chiếu là thẻ nhà báo của y. Nhân viên hải quan hỏi có phải y sang bên kia để viết về mấy vụ giết người không.

“Không,” Fate nói. “Tôi đi viết bài về trận đấu hôm thứ Bảy này.”

“Trận nào?” nhân viên hải quan hỏi.

“Count Pickett, võ sĩ hạng dưới nặng người New York.”

“Chưa bao giờ nghe tên,” nhân viên hải quan nói.

“Anh ta sẽ vô địch thế giới đấy,” Fate nói.

“Hy vọng anh nói đúng,” nhân viên hải quan nói.

Đoạn Fate tiến lên một trăm mét về phía biên giới Mexico và phải ra khỏi xe để mở vali ra, sau đó xuất trình giấy tờ xe, hộ chiếu, thẻ nhà báo. Người ta yêu cầu y điền một số mẫu đơn. Mặt mày đám cảnh sát Mexico đờ đẫn vì kiệt sức. Từ cửa sổ nhà đoan y thấy hàng rào dài, cao chia cách hai nước. Trên đoạn xa nhất của hàng rào y thấy bốn con chim màu đen vắt vẻo đậu, đầu vùi trong bộ lông. Lạnh, Fate nói. Lạnh lắm, tay nhân viên nhà đoan Mexico đang xem xét mẫu đơn mà Fate vừa điền xong liền nói.

“Tụi chim kìa. Chúng nó lạnh.”

Tay nhân viên nhìn theo hướng tay Fate chỉ.

“Chim ó đấy, giờ này ban đêm bao giờ chúng cũng lạnh hết,” anh ta nói.

♣ ♣ ♣

Fate lấy phòng ở một nhà nghỉ ven đường gọi là Las Brisas, ở khu phía Bắc Santa Teresa. Thỉnh thoảng xe tải lại đi ngang trên xa lộ, hướng về Arizona. Đôi khi chúng dừng lại phía bên kia xa lộ, gần các cây xăng, rồi lại đi, không thì tài xế ra khỏi xe ăn gì đó ở trạm xăng tường sơn màu thiên thanh. Đến sáng thì hầu như chẳng có xe tải lớn nào, chỉ có xe con và xe bán tải. Fate mệt đến nỗi khi thiếp đi chẳng hề nhận ra lúc đó mấy giờ.

Khi thức dậy y đến nói chuyện với lễ tân khách sạn hỏi xin một tấm bản đồ thành phố. Lễ tân là một tay chừng hăm lăm tuổi, bảo Fate rằng ở Las Brisas người ta chưa bao giờ có bản đồ, ít nhất là từ khi anh ta bắt đầu làm việc ở đây. Anh ta hỏi y muốn đi đâu. Fate nói mình là nhà báo và muốn đi viết về trận đấu của Count Pickett. Count Pickett đấu với Merolino Fernández, tay lễ tân nói.

“Lino Fernandez,” Fate nói.

“Ở đây chúng tôi gọi anh ta là El Merolino,” lễ tân mỉm cười nói. “Vậy theo anh ai sẽ thắng?”

“Pickett,” Fate nói.

“Để xem, nhưng tôi cuộc là anh sai rồi.”

Đoạn tay lễ tân xé một mảnh giấy vẽ cho y một bản đồ bằng tay chỉ dẫn cặn kẽ đường đến sân quyền Anh Arena del Norte nơi sẽ diễn ra trận đấu. Bản đồ này tốt hơn nhiều so với Fate mong đợi. Arena del Norte trông như một nhà hát xưa từ năm 1900, với một võ đài quyền Anh xây ngay chính giữa. Tại một trong các văn phòng ở đấy Fate trình thẻ nhà báo rồi hỏi Pickett đang trọ ở khách sạn nào. Họ bảo y là tay võ sĩ người Mỹ hãy còn chưa đến thành phố. Trong đám nhà báo mà y gặp có hai người nói được tiếng Anh và đang định phỏng vấn Fernández. Fate hỏi y đi cùng được không, hai nhà báo kia liền nhún vai bảo về phần họ thì thoải mái thôi, chả có vấn đề gì.

Khi họ đến khách sạn nơi đang có cuộc họp báo với Fernández, tay võ sĩ này đang nói chuyện với một nhóm nhà báo Mexico. Mấy nhà báo Mỹ hỏi anh ta bằng tiếng Anh liệu anh ta có tin mình sẽ thắng Pickett không. Fernández hiểu câu hỏi và trả lời là có. Mấy nhà báo Mỹ hỏi anh ta đã có khi nào thấy Pickett đấu chưa. Fernández không hiểu câu hỏi, một trong mấy nhà báo Mexico liền dịch lại.

“Quan trọng là tin vào sức mình,” Fernández nói, và đám nhà báo Mỹ liền ghi câu trả lời của anh ta vào sổ.

“Anh có biết bảng thành tích của Pickett không?” họ hỏi anh ta.

Fernández đợi người ta dịch lại câu hỏi rồi đáp là mấy chuyện đó anh ta không quan tâm. Mấy nhà báo Mỹ cười khi khí, đoạn hỏi anh ta thế bảng thành tích của chính anh ta thì sao. Đấu ba mươi trận, Fernández nói. Hăm lăm trận thắng. Mười tám trận hạ nốc ao. Ba thua. Hai hòa. Không tồi, một trong các nhà báo nói, rồi anh ta hỏi tiếp.

♣ ♣ ♣

Hầu hết các nhà báo trọ ở Khách sạn Sonora Resort, ở trung tâm Santa Teresa. Khi Fate bảo họ y đang trọ ở một nhà nghỉ ven thành phố, họ liền bảo y nên rời khỏi đấy mà thử tìm một phòng ở Sonora Resort. Fate ghé qua khách sạn và liền có ấn tượng ở đó đang diễn ra một hội nghị quy tụ các nhà báo thể thao khắp Mexico. Hầu hết các nhà báo Mexico này biết tiếng Anh và, ít nhất là qua ấn tượng ban đầu, có vẻ dễ gần hơn so với mấy nhà báo Mỹ y vừa gặp. Ở quán bar, một số người đang đặt cược cho trận đấu và nhìn chung họ có vẻ vui vẻ, vô tư lự, song cuối cùng Fate quyết định vẫn ở lại chỗ nhà nghỉ.

Từ một điện thoại ở Sonora Resort y gọi điện về tòa báo theo hình thức người nhận trả tiền, xin nói chuyện với trưởng ban thể thao. Chị nghe máy nói ở đó chẳng có ai.

“Phòng nào cũng vắng tanh,” chị ta nói.

Chị ta có giọng mũi khàn khàn và không nói năng như một thư ký New York mà như một dân quê mới rời khỏi nghĩa trang. Người đàn bà này hiểu biết sớm hơn ai hết về xứ sở của người chết, Fate nghĩ, và chị ta không còn biết mình đang nói gì nữa.

“Tôi sẽ gọi lại sau,” y nói rồi cúp máy.

♣ ♣ ♣

Xe của Fate theo sau xe của hai nhà báo Mexico muốn phỏng vấn Merolino Fernández. Tay võ sĩ Mexico lưu lại ở một nông trại vùng ven Santa Teresa, thành thử không có mấy nhà báo này giúp thì Fate chắc chả bao giờ tìm ra được. Họ lái xe qua một khu ven thành phố men theo một mạng lưới chằng chịt những con đường không tráng nhựa, không đèn. Có những lúc, sau khi đi qua những cánh đồng và bãi đất trống nơi rác thải của dân nghèo đang dần dần tích lại, tưởng như ta sắp sửa ra tới vùng quê đến nơi, nhưng rồi một khu phố khác lại xuất hiện, cũ kỹ hơn, với những căn nhà bằng gạch không nung, bao quanh là những căn lều ọp ẹp xây bằng thùng các tông, mái tôn, bằng những sọt đựng hàng cũ, những căn nhà ổ chuột giúp người ta chống chọi với mặt trời và những cơn mưa rào thỉnh thoảng rơi và dường như đã hóa đá cùng thời gian. Ở đó không chỉ cỏ dại là khác lạ mà ngay cả lũ ruồi cũng có vẻ thuộc một loài khác. Thế rồi một con đường đất xuất hiện, được ngụy trang nhờ đường chân trời đang tối lại dần, chạy song song một con mương, hai bên là hai hàng cây lầm bụi. Những hàng rào đầu tiên xuất hiện. Con đường thu hẹp lại. Hồi xưa đây là đường cho xe bò, Fate nghĩ. Thật