← Quay lại trang sách

PHẦN BA (B) PHẦN VỀ FATE

Khi thức dậy y gọi cho trưởng ban thể thao của tờ tạp chí, báo cho anh ta biết Pickett hiện không có ở Santa Teresa.

“Chả có gì lạ,” trưởng ban thể thao nói, “chắc anh ta đang ở một nông trại nào đó ở Las Vegas.”

“Vậy làm thế quái nào tôi phỏng vấn được?” Fate nói. “Anh muốn tôi đến Las Vegas à?”

“Phỏng vấn á? Chả cần phỏng vấn ai hết, chúng tôi chỉ cần có người thuật lại trận đấu, cậu biết mà, bầu không khí, tâm trạng trên sàn đấu, tình hình phong độ của Pickett, ấn tượng anh ta gây ra với người Mexico.”

“Chu cảnh chung,” Fate nói.

“Chu cái gì?” trưởng ban thể thao hỏi.

“Bầu không khí chung ấy mà,” Fate nói.

“Dùng cách diễn đạt dễ hiểu thôi,” trưởng ban thể thao nói, “giống như là cậu đang ngồi trong quán bar kể chuyện, xung quanh cậu toàn bạn bè và tất cả đang thèm nghe cậu nói muốn chết đi ấy.”

“Tôi hiểu,” Fate nói, “mai tôi sẽ liên lạc với anh.”

“Nếu có gì cậu không hiểu thì cũng đừng lo, ở đây tụi tôi sẽ biên tập sao cho đọc cứ như cả đời cậu toàn ngồi bên võ đài ấy.”

“Được rồi, tôi hiểu,” Fate nói.

♣ ♣ ♣

Khi bước ra ngoài ban công ngoài phòng mình y thấy ba đứa trẻ tóc vàng, gần như bạch tạng, đang chơi với một quả bóng màu trắng, một cái xô đỏ và mấy cái xẻng nhựa màu đỏ. Đứa lớn nhất chừng năm tuổi còn đứa bé nhất thì ba. Đó không phải chỗ an toàn cho trẻ con chơi. Không cẩn thận thì bọn chúng có thể nảy ra ý định băng qua đường và một chiếc xe tải có thể chẹt chết chúng như chơi. Y nhìn hai bên đường: ngồi trên một băng ghế gỗ, trong bóng râm, một người đàn bà tóc vàng khè đeo kính râm đang trông chừng chúng. Y chào bà ta. Người đàn bà nhìn y trong một thoáng rồi khẽ giật cằm tuồng như bà không thể rời mắt khỏi lũ trẻ được.

Fate xuống thang và chui vào xe. Cái nóng bên trong xe thật không chịu nổi, y liền mở cả hai cửa sổ. Chẳng biết tại sao y lại nghĩ đến mẹ, cái lối bà dõi nhìn y hồi y còn nhỏ. Khi y khởi động xe, một trong mấy đứa trẻ bạch tạng đứng dậy nhìn y chăm chăm. Fate cười với nó và đưa tay vẫy. Đứa trẻ thả quả bóng xuống và đứng nghiêm như nhà binh. Khi xe rẽ ra khỏi bãi đỗ xe của nhà nghỉ, đứa trẻ giơ tay phải lên lưỡi trai cái mũ đang đội và cứ đứng như thế cho đến khi xe của Fate biến mất về phía Nam.

Trong khi lái xe y lại nghĩ đến mẹ. Y thấy bà bước đi, thấy bà từ sau lưng, thấy gáy bà khi bà ngồi xem một chương trình tivi, nghe tiếng bà cười, thấy bà rửa bát trong chậu rửa. Tuy nhiên mặt bà lại luôn luôn ở trong bóng tối, như thể theo cách nào đó bà đã chết rồi hoặc như thể bà đang nói với y, bằng cử chỉ chứ không bằng lời, rằng những khuôn mặt là không quan trọng ở cõi đời này cũng như ở cõi đời kia. Chẳng có nhà báo nào ở Sonora Resort, nên y đành phải hỏi lễ tân đến Arena del Norte thì đi lối nào. Khi tới được nhà thi đấu, y nhận ra có sự nhốn nháo. Y hỏi một người đánh giày vừa mới dọn đồ nghề ra trên hành lang rằng có chuyện gì vậy, người đánh giày liền cho y biết võ sĩ người Mỹ vừa mới tới.

Y gặp Count Pickett trên võ đài, gã mặc com lê thắt cà vạt và phô một nụ cười toe toét, tự tin. Đám phóng viên ảnh đang chụp hình còn cánh nhà báo vây quanh võ đài thì gọi gã bằng tên riêng và hỏi tới tấp. Khi nào thì anh bước lên đài vô địch? Có đúng là Jesse Brentwood sợ anh không? Anh đến Santa Teresa hết bao nhiêu tiền? Có thật là anh lén làm đám cưới với tình nhân ở Las Vegas không? Ông bầu của Pickett đứng cạnh gã. Ông lùn béo và là người trả lời hầu hết các câu hỏi. Cánh nhà báo Mexico hỏi ông bằng tiếng Tây Ban Nha và gọi ông bằng tên, Sol, ông Sol, và ông Sol trả lời họ bằng tiếng Tây Ban Nha và thỉnh thoảng cũng gọi các nhà báo Mexico bằng tên. Một nhà báo Mỹ, anh chàng bự con có bộ mặt vuông, hỏi rằng đưa Pickett tới đấu ở Santa Teresa liệu có phải đạo về mặt chính trị không.

“Phải đạo về mặt chính trị, ý anh là gì?” ông bầu hỏi.

Tay nhà báo dợm trả lời, nhưng ông bầu đã cắt ngang.

“Quyền Anh là một môn thể thao,” ông nói, “và thể thao, giống như nghệ thuật, nằm ngoài chính trị. Đừng trộn lẫn thể thao với chính trị, Ralph ạ.”

“Vậy điều ông muốn nói là,” tay nhà báo tên Ralph nói, “ông không sợ gì việc đưa Count Pickett tới Santa Teresa.”

“Count Pickett chẳng sợ ai,” ông bầu nói.

“Người thắng được tôi hãy còn chưa ra đời,” Count Pickett nói.

“Được, Count là đàn ông, nhìn là thấy rồi. Nên tôi đoán câu hỏi nên là: có phải anh ta có mang một người đàn bà đi theo không?” Ralph hỏi.

Một nhà báo Mexico ở phía đầu kia võ đài đứng dậy bảo anh ta đi mà tự phịch mình đi. Ai đó ở không xa Fate hét lên rằng tốt nhất anh ta chớ có nói năng dấm dớ về người Mexico nếu không muốn bị ăn đạp vào mồm.

“Câm mồm đi đằng ấy, không thì đây giúp đằng ấy câm miệng đó.”

Ralph chừng như chẳng nghe thấy người ta nói gì mà vẫn đứng đó điềm nhiên, chờ câu trả lời của ông bầu. Một số nhà báo Mỹ đang đứng một góc võ đài, gần đám phóng viên ảnh, nhìn ông bầu với vẻ dò hỏi. Ông bầu hắng giọng rồi nói:

“Chúng tôi chả có đàn bà nào đi cùng hết, Ralph à, anh biết chúng tôi không bao giờ đi cùng đàn bà mà.”

“Kể cả bà Alversohn cũng không?”

Ông bầu cười rộ và vài nhà báo cũng cười rộ.

“Anh biết quá rõ là vợ tôi không thích quyền Anh, Ralph à,” ông bầu nói.

♣ ♣ ♣

“Họ nói về cái quái gì vậy?” Fate hỏi Chucho Flores khi họ ăn sáng ở một quán bar gần Arena del Norte.

“Về những người đàn bà bị giết,” Chucho Flores nói với vẻ u ám. “Ngày một nhiều,” anh ta nói. “Cứ lâu lâu con số lại lớn lên thêm và lại được đưa lên báo và đám nhà báo lại nói về nó. Thiên hạ người ta cũng bàn về nó, thế rồi câu chuyện cứ lớn dần lên như quả cầu tuyết cho đến khi mặt trời ló dạng thế là quả cầu thổ tả liền tan ra và mọi người liền quên bẵng, ai về làm việc nấy.”

“Ai về làm việc nấy?” Fate hỏi.

“Mấy vụ giết người chó chết này cũng giống như đình công vậy, amigo à, một cuộc đình công man dại chó chết.”

Sự đánh đồng giữa giết người với đình công nghe khá lạ. Nhưng Fate gật đầu không nói gì.

“Đây là một thành phố lớn, lớn hẳn hoi,” Chucho Flores nói. “Chúng tôi cái gì cũng có. Nhà máy, xưởng lắp ráp, một trong những thành phố có tỷ lệ thất nghiệp rất thấp, thuộc hàng thấp nhất Mexico, một tập đoàn ma túy, một dòng chảy thường trực các công nhân từ những thành phố khác tới, người nhập cư từ Trung Mỹ, một cơ sở hạ tầng đô thị không có khả năng gánh vác nổi mức tăng dân số cơ học, chúng tôi có tiền và cũng có lắm nghèo khó, chúng tôi có óc tưởng tượng và có nạn quan liêu, có bạo lực và có nguyện vọng làm ăn sinh sống yên ổn. Chỉ có một thứ chúng tôi còn thiếu,” Chucho Flores nói.

Dầu mỏ, Fate nghĩ, nhưng không nói ra.

“Các anh không có cái gì?” y hỏi.

“Thời gian,” Chucho Flores nói. “Chúng tôi không có chút thời gian chó chết nào.”

Thời gian để làm gì? Fate nghĩ. Thời gian để cho cái đống cứt này, phần là một nghĩa địa bị bỏ quên và phần là một bãi rác, có thể biến thành kiểu như Detroit? Hồi lâu hai người không nói gì. Chucho Flores lôi ra một cây bút chì cùng cuốn sổ rồi bắt đầu vẽ những khuôn mặt đàn bà. Anh ta vẽ rất nhanh, hoàn toàn đắm mình vào đấy, và đồng thời, theo như Fate cảm thấy, với một tài năng nhất định, như thể trước khi chuyển sang làm nhà báo thể thao Chucho Flores từng học vẽ và đã dành nhiều tiếng đồng hồ ký họa cảnh đời thực. Không ai trong các phụ nữ của anh ta mỉm cười. Một số người nhắm mắt. Vài người khác thì già và quay đầu sang các hướng, tuồng như đang chờ cái gì đó hoặc ai đó gọi tên họ. Không một người nào đẹp.

“Anh giỏi thật,” Fate nói khi Chucho Flores bắt đầu vẽ bức chân dung thứ bảy.

“Có gì đâu,” Chucho Flores nói.

Thế rồi, chủ yếu vì nếu cứ nói mãi về tài vẽ của anh chàng Mexico thì Fate cảm thấy khó xử sao đó, y liền hỏi về những người đàn bà chết.

“Hầu hết họ là công nhân làm ở các nhà máy lắp ráp. Gái trẻ tóc dài. Nhưng đây không nhất thiết là dấu hiệu giúp truy ra hung thủ, vì ở Santa Teresa gần như tất cả con gái đều để tóc dài,” Chucho Flores nói.

“Hung thủ chỉ có một thôi à?” Fate hỏi.

“Họ nói thế,” Chucho Flores đáp, vẫn vẽ. “Vài người đã bị bắt. Vài vụ đã được phá án. Nhưng theo người ta nói thì hung thủ chỉ có một và không bao giờ bắt được.”

“Bao nhiêu phụ nữ đã bị giết?”

“Tôi không biết,” Chucho Flores nói, “nhiều, hơn hai trăm.”

Fate quan sát anh chàng Mexico bắt tay vào vẽ bức chân dung thứ chín.

“Một người làm sao giết được ngần ấy,” y nói.

“Đúng thế, amigo. Quá nhiều, ngay cả với một kẻ sát nhân Mexico.”

“Họ bị giết như thế nào?” Fate hỏi.

“Không ai biết chắc cả. Họ biến mất. Họ bốc hơi vào không khí, phút trước còn đó, phút sau không còn. Và ít lâu sau xác họ xuất hiện trong sa mạc.”

♣ ♣ ♣

Khi họ lái xe về Sonora Resort nơi Fate định sẽ kiểm tra hộp thư email, y chợt nghĩ ra rằng viết một bài báo về các phụ nữ bị giết thì sẽ hấp dẫn hơn nhiều so với viết về trận đấu Pickett-Fernández. Và y viết cho trưởng ban của mình như thế. Y hỏi liệu y có thể nán lại thành phố này thêm một tuần không và đề nghị họ cử một phóng viên ảnh đến. Đoạn y ra ngoài uống một cốc bia nơi quán bar, nhập bọn cùng dăm ba nhà báo Mỹ. Họ đang nói về trận đấu và tất cả đều nhất trí là Fernández sẽ không trụ nổi quá bốn hiệp. Một người trong bọn kể chuyện võ sĩ người Mexico Hercules Carreño. Anh ta cao tới gần hai mét, điều hiếm có so với người Mexico, dân xứ này hầu hết không cao mấy. Và tay Hercules Carreño này còn khỏe nữa, từng làm nghề bốc vác ngoài chợ hay thồ hàng cho lò mổ nào đấy, và có người thuyết phục anh ta thử thời vận với quyền Anh. Anh ta khởi nghiệp muộn. Lúc đó chắc anh ta đã hăm lăm tuổi. Nhưng ở Mexico võ sĩ hạng nặng đâu có nhiều, nên anh ta đánh trận nào cũng thắng. Xứ này có nhiều võ sĩ hạng gà giỏi, hạng ruồi giỏi, hạng lông giỏi, đôi khi có cả võ sĩ hạng bán trung giỏi, nhưng hạng nặng hay dưới nặng giỏi thì không. Chuyện này có liên quan đến truyền thống và dinh dưỡng. Là vấn đề loại hình. Nay thì Mexico có một ông tổng thống cao hơn tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Đây là chuyện xưa nay chưa từng có. Dần dần, các tổng thống Mexico ngày một cao hơn. Ngày trước chuyện này tưởng tượng ra còn không được nữa là. Một tổng thống Mexico giỏi lắm cũng chỉ cao đến vai tổng thống Mỹ. Đôi khi đầu của tổng thống Mexico chỉ cao hơn cái khóa thắt lưng của tổng thống Mỹ vỏn vẹn có vài xăng ti mét. Đó đã thành truyền thống. Nhưng nay tầng lớp trên của Mexico đang thay đổi. Họ đang ngày càng giàu hơn và họ đi tìm vợ ở phía Bắc biên giới. Cái đó người ta gọi là cải thiện giống nòi. Một người Mexico thấp bé cho thằng con thấp bé đi du học California. Thằng bé có tiền nên muốn gì làm nấy và điều đó làm cho vài em sinh viên bị ấn tượng lắm. Chẳng có chốn nào trên trái đất này có số gái ngu tính trên mét vuông nhiều hơn ở một trường đại học California. Kết luận: thằng bé kiếm được mảnh bằng và một cô vợ sẽ về Mexico sống cùng thằng bé. Thế là những đứa cháu của tay Mexico thấp bé không còn thấp bé lắm nữa, chúng nó cao trung bình và da chúng cũng sáng hơn. Lũ cháu này, khi thời điểm đến, liền lên đường làm cuộc hành trình khai lộ vào đời giống như cha chúng. Đại học Mỹ, vợ Mỹ, con cái ngày một cao hơn. Thế có nghĩa là, tầng lớp thượng lưu Mexico, hoàn toàn tự nguyện, đang làm cái điều người Tây Ban Nha đã làm, nhưng theo chiều ngược lại. Người Tây Ban Nha, vốn máu nóng và ít nhìn xa trông rộng, đã ngủ với đàn bà Anh điêng, hãm hiếp họ, buộc họ theo đạo của mình và tin là bằng cách đó đất nước này sẽ chuyển sang màu trắng. Đám người Tây Ban Nha đó tin ở một màu trắng lai tạp. Họ đánh giá quá cao tinh dịch của mình. Họ lầm. Không ai có thể hãm hiếp được ngần ấy con người. Điều đó về mặt toán học là không thể. Thể xác không chịu nổi. Ta đâm mệt. Thêm nữa, họ hiếp là hiếp từ dưới lên, trong khi lẽ ra họ phải hiếp từ trên xuống thì mới thiết thực hơn. Cái kiểu của người Tây Ban Nha đáng ra có thể thu được ít nhiều kết quả nếu như họ có khả năng hãm hiếp chính lũ con lai tạp của mình rồi sau đó là những đứa cháu lai tạp của mình và có thể cả bầy chắt lai tạp của mình. Nhưng khi đã bảy mươi tuổi, đứng vững trên hai chân còn khó thì ai lại còn đi hãm hiếp bàn dân thiên hạ nữa? Ta có thể thấy kết quả đầy ra đó quanh mình. Tinh dịch của đám người Tây Ban Nha đó, những kẻ tự cho mình là khổng lồ, đã mất tăm trong đám đông vô hình vô dạng hàng ngàn người Anh điêng. Những người lai tạp đầu tiên, có dòng máu năm mươi-năm mươi, cầm trịch đất nước, là bộ trưởng, binh lính, chủ hiệu, người sáng lập những thành phố mới. Và họ vẫn tiếp tục hãm hiếp, nhưng chuyện đó không cho ra cùng một thứ quả, bởi những đàn bà Anh điêng mà họ hiếp sinh ra những đứa con lai mestizo mang dòng máu da trắng còn ít hơn. Và cứ thế. Cho đến khi ta có anh chàng võ sĩ này, Hercules Carreño, anh ta ban đầu đánh đâu thắng đó, hoặc vì đối thủ anh ta còn mèng hơn anh ta hoặc vì các trận đấu đều được dàn xếp trước cả rồi, khiến cho một số người Mexico phổng mũi cho rằng Mexico từ nay có một nhà vô địch hạng nặng thứ thiệt rồi và thế là một ngày kia người ta đưa anh ta sang Hoa Kỳ cho anh ta đấu với một gã Ireland say rượu sau đó thì với một tay da đen đang phê cần sa và sau đó với một thằng cha Nga béo ị, và anh ta thắng tất, khiến người Mexico càng sướng càng tự hào hơn: thời khắc huy hoàng cho nhà vô địch của họ đã đến rồi. Thế là người ta bố trí một trận đấu với Arthur Ashley, ở Los Angeles, không biết có ai trong các anh xem trận đó chưa, tôi thì xem rồi, người ta gọi Arthur Ashley là Art Tàn Ác. Hắn có cái tên ấy là từ trận đó mà ra. Hercules Carreño tội nghiệp bị quét phăng chả còn gì. Ngay từ hiệp một đã thấy rõ đây sẽ là một cuộc thảm sát. Art Tàn Ác cứ nhẩn nha mà đấu tuồng như toàn bộ thời gian trên thế giới này là của hắn, chả việc gì phải vội, chọn vị trí chính xác để tung cú móc nào là trúng y boong cú đó, biến mỗi hiệp thành một bài thực tập chuyên đề, hiệp ba tập trung vào cái mặt, hiệp bốn tập trung vào lá gan. Rốt cuộc, Hercules Carreño chỉ trụ nổi tới hiệp tám. Sau đó anh ta vẫn còn đấu trên mấy võ đài hạng ba. Hầu như luôn luôn cứ đến hiệp hai là anh ta gục. Đoạn anh ta kiếm được việc làm là bảo vệ sàn nhảy, nhưng anh ta lờ đờ quá đến nỗi chỉ giữ được chân ấy không quá một tuần. Anh ta chẳng bao giờ về lại Mexico. Có khi anh ta quên mất mình là người Mexico không chừng. Người Mexico thì dĩ nhiên đã quên anh ta. Nghe nói anh ta quay sang ăn xin ngoài phố và một ngày nọ chết dưới một cây cầu. Niềm tự hào của quyền Anh hạng nặng Mexico, tay nhà báo nói.

Những người khác cười rộ rồi sau đó tất cả đều ra vẻ ăn năn. Hai mươi giây mặc niệm để tưởng nhớ Carreño xấu số. Những bộ mặt, đột ngột đâm ra nghiêm cẩn, làm Fate nghĩ tới một dạ hội hóa trang. Trong một thoáng y nghe khó thở, y thấy căn hộ trống không của mẹ mình, y có dự cảm về hai con người đang làm tình trong một căn hộ khốn khổ khốn cùng, tất cả cùng một lúc, một khoảnh khắc được định nghĩa bằng từ xung hạn. Mày là thằng nào, đại diện báo chí cho Ku Klux Klan phỏng? Fate hỏi. Chà chà chà, lại thêm một thằng nhọ, tay nhà báo nói. Fate cố xông lại gần gã mà cho gã ít nhất một đấm (chẳng dám mơ đến một cú bạt tai), nhưng đám nhà báo đứng quanh người vừa kể chuyện liền ngăn y lại. Đùa tẹo thôi mà, y nghe ai đó nói. Ta đều là người Mỹ mà. Ở đây có ai là người của Klan đâu. Ít nhất là tôi nghĩ thế. Đoạn y nghe thêm nhiều tiếng cười rộ. Khi y bình tĩnh lại mà ngồi một mình trong góc quán bar, một trong mấy nhà báo ban nãy nghe kể chuyện Hercules Carreño liền lại gần chìa tay ra.

“Chuck Campbell, Sport Magazine, Chicago.”

Fate bắt tay nhà báo nọ rồi cho anh ta biết tên mình và tờ báo y đang làm việc.

“Nghe nói phóng viên bên báo cậu bị giết,” Campbell nói.

“Đúng vậy,” Fate nói.

“Chuyện tình yêu tình đương, tôi đoán vậy,” Campbell nói.

“Tôi không biết,” Fate nói.

“Tôi có biết Jimmy Lowell,” Campbell nói, “chúng tôi đã gặp nhau ít nhất bốn chục lần, nhiều hơn số lần một vài ông gặp tình nhân hay thậm chí là gặp vợ. Ông ta là người tốt. Ông ta thích bia và ham ăn. Ông ta từng nói, người lắm việc thì phải ăn nhiều và đồ ăn nhất định phải ngon. Đôi lần chúng tôi bay cùng nhau. Tôi mà đi máy bay là không ngủ được. Jimmy Lowell cứ hễ ngồi lên máy bay là ngủ suốt chặng, chỉ thức dậy để ăn hay để kể vài câu chuyện. Thật tình thì ông ta chẳng khoái gì môn quyền Anh đâu, môn ông ta mê là bóng chày, nhưng ở báo của cậu thì ông ta viết đủ thứ, kể cả quần vợt. Ông ta chẳng bao giờ nói xấu ai một lời. Ông ta tôn trọng mọi người và mọi người tôn trọng ông ta. Cậu có nghĩ thế không?”

“Tôi chưa bao giờ gặp Lowell,” Fate nói.

“Đừng cả nghĩ về những gì cậu vừa nghe,” Campbell nói. “Làm báo thể thao là một nghề rất chán, thành thử người ta thỉnh thoảng cứ nói văng mạng mà chẳng nghĩ, hoặc bịa chuyện để có gì khác mà nói chứ không lặp đi lặp lại cùng một thứ. Đôi khi tụi tôi nói điều ngu xuẩn nhưng mà chẳng có ý gì đâu. Cái thằng kể chuyện tay võ sĩ Mexico ấy, hắn không phải người xấu. Hắn là người đàng hoàng, đầu óc cởi mở hơn nhiều người khác. Chỉ có điều là thỉnh thoảng, để giết thì giờ, tụi tôi xử sự như lũ lợn. Nhưng chúng tôi chẳng có ý gì đâu,” Campbell nói.

“Không có vấn đề gì,” Fate nói.

“Theo cậu thì Count Pickett sẽ thắng ở hiệp mấy?”

“Tôi không biết,” Fate nói. “Hôm qua tôi có xem Merolino Fernández tập luyện, tôi không thấy anh ta có vẻ là kẻ chắc sẽ thua.”

“Hắn sẽ gục ở hiệp ba,” Campbell nói.

Một nhà báo khác hỏi Fernández đang lưu lại ở đâu.

“Không xa thành phố,” Fate nói, “thật ra thì tôi không biết, tôi không đi một mình, có vài người Mexico dẫn tôi đi.”

♣ ♣ ♣

Khi Fate bật máy tính lên lần nữa, y thấy thư trả lời của trưởng ban mình. Không có nhu cầu quan tâm mà cũng không có ngân sách cho bài báo mà y đề xuất. Trưởng ban của y đề nghị y giới hạn ở việc hoàn thành nhiệm vụ do trưởng ban thể thao giao phó rồi thì quay về ngay. Fate nói chuyện với một lễ tân ở Khách sạn Sonora Resort đề nghị thu xếp một cuộc hội đàm với New York.

Trong khi chờ gọi điện y nghĩ đến những đề tài khác của y đã bị tòa báo khước từ. Mới đây nhất là đề tài về một nhóm chính trị ở Harlem gọi là Hội Huynh đệ Mohammed. Y đã gặp họ trong một cuộc biểu tình ủng hộ Palestine. Cuộc biểu tình khá ô hợp, ở đó có thể gặp những nhóm người Ả Rập, nhóm cánh tả New York, những nhà hoạt động mới nổi chống toàn cầu hóa. Tuy nhiên Hội Huynh đệ Mohammed khiến y chú ý ngay vì họ đi dưới một bức chân dung Osama bin Laden lớn. Tất cả đều da đen, tất cả đều mặc áo jacket da màu đen, đội mũ bê rê đen, đeo kính đen, khiến họ có phần hao hao giống nhóm Báo Đen, chỉ có điều Báo Đen là trẻ vị thành niên và những ai không còn vị thành niên thì cũng có vẻ trẻ trung, một hào quang của tuổi trẻ và bi kịch, trong khi Huynh đệ Mohammed thì là đàn ông trưởng thành, vai rộng bắp tay cuồn cuộn, những người đã dành hết giờ này sang giờ khác ở phòng tập thể thao, cử tạ, sinh ra để làm vệ sĩ, nhưng mà vệ sĩ của ai? Những cỗ xe tăng người thực thụ mà chỉ cần có mặt là đủ đáng sợ rồi, mặc dù nhóm họ dự biểu tình không quá hai chục người, có thể ít hơn, nhưng tấm chân dung Osama bin Laden, chẳng hiểu vì sao, có một hiệu ứng nhân bội, trước hết là vì lúc ấy chưa đầy sáu tháng sau khi xảy ra vụ tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới cho nên việc đi đây đi đó cùng với bin Laden, cho dẫu chỉ là chân dung của ông ta thôi, cũng đã mang tính khiêu khích ghê gớm. Đương nhiên, không chỉ mình Fate nhận thấy sự hiện diện ít ỏi và ngang nhiên của Huynh đệ Mohammed: ống kính truyền hình dõi theo họ, người phát ngôn của họ được phỏng vấn, cánh nhiếp ảnh của nhiều tờ báo ghi lại sự hiện diện của nhóm người tuồng như đang gào lên kêu người ta hãy nghiền nát mình này.

Fate quan sát họ từ xa. Y nhìn họ nói chuyện với các nhóm truyền hình rồi với vài phóng viên đài phát thanh địa phương, y nhìn họ hét vang khẩu hiệu, y nhìn họ đi đều bước giữa đám đông và y đi theo họ. Trước khi đoàn biểu tình bắt đầu tan rã, các thành viên Huynh đệ Mohammed đã rời khỏi đoàn, trông như đã hẹn nhau từ trước. Một cặp xe tải nhỏ chờ họ nơi góc đường. Chỉ khi đó Fate mới nhận ra họ không có quá mười lăm người. Họ chạy. Y chạy theo họ. Y giải thích là muốn phỏng vấn họ cho tờ báo của y. Họ nói chuyện bên mấy chiếc xe tải, trên một con phố phụ. Người có vẻ là chỉ huy, một tay cao lớn béo tốt đầu cạo nhẵn, hỏi y làm cho tờ nào. Fate cho anh ta biết, thế là anh ta nhìn y với nụ cười chế giễu.

“Thời này còn ai đọc cái tờ chết bầm đó nữa,” anh ta nói.

“Đấy là tờ báo dành cho các huynh đệ,” Fate nói.

“Cái tờ báo chó chết dành cho các huynh đệ đó chỉ có phản bội các huynh đệ mà thôi,” anh kia nói, vẫn cười. “Xưa thấy mẹ rồi.”

“Tôi không nghĩ vậy,” Fate nói.

Một tay phụ bếp người Tàu đi ra để vứt mấy túi rác. Một người Ả Rập từ chỗ góc đường quan sát họ. Những gương mặt xa lạ xa xăm, Fate nghĩ trong khi người có vẻ là chỉ huy kia cho y một giờ, một ngày, một địa điểm ở Bronx nơi vài ngày nữa họ sẽ gặp nhau.

♣ ♣ ♣

Fate giữ đúng hẹn. Ba thành viên của Hội Huynh đệ và chiếc xe tải nhẹ màu đen đang chờ y. Họ lái xe đến một tầng hầm gần Baychester. Tay béo đầu cạo nhẵn chờ y ở đó. Anh ta bảo Fate gọi anh ta là Khalil. Những người khác không nói tên. Khalil nói về Cuộc Thánh Chiến. Giải thích cho tôi nghe Thánh Chiến tức là cái quỷ gì, Fate bảo. Cuộc Thánh Chiến nói thay chúng tôi khi miệng chúng tôi khô cong, Khalil nói. Cuộc Thánh Chiến là ngôn ngữ của người câm, của những người mất khả năng nói, những người không bao giờ biết nói thế nào. Tại sao các anh biểu tình chống Israel? Fate hỏi. Bọn Do Thái áp bức chúng ta, Khalil nói. Đã bao giờ có người Do Thái trong Ku Klux Klan đâu, Fate nói. Đó là điều mà bọn Do Thái muốn chúng ta tin. Trên thực tế Klan ở đâu cũng có. Ở Tel Aviv, ở London, ở Washington. Nhiều lãnh tụ Klan là người Do Thái, Khalil nói. Lúc nào cũng thế. Hollywood đầy rẫy lãnh tụ Klan. Là ai? Fate hỏi. Khalil lưu ý Fate rằng điều anh ta sắp nói không thể được ghi âm.

“Những tay Do Thái có máu mặt đều có luật sư Do Thái giỏi,” anh ta nói.

“Là ai?” Fate hỏi. Khalil kể tên ba đạo diễn và hai diễn viên. Đoạn Fate chợt nghĩ ra. Y hỏi: Woody Allen có phải là thành viên Klan không? Phải, Khalil nói, xem phim của hắn mà xem, anh có bao giờ thấy người anh em da đen nào trong đó chưa? Không, không thấy nhiều, Fate nói. Không một người nào, Khalil nói. Tại sao các anh mang áp phích có hình Osama bin Laden? Vì Osama bin Laden là người đầu tiên hiểu được bản chất của cuộc đấu tranh hiện nay. Sau đó họ nói về sự vô tội của bin Laden và Trân Châu Cảng và chuyện cuộc tấn công tòa Tháp Đôi tiện lợi ra sao với một số người. Như kiểu đám buôn bán cổ phiếu, Khalil nói, những kẻ giấu trong văn phòng mình những giấy tờ buộc tội người ta, những kẻ bán vũ khí và cần một chuyện gì thuộc kiểu ấy xảy ra. Theo anh nói thì, Fate nói, Mohamed Atta là đặc vụ chìm làm việc cho CIA hoặc FBI. Di hài Mohamed Atta giờ ở đâu rồi? Khalil hỏi. Ai dám nói chắc Mohamed Atta thực sự đi trên một trong mấy chiếc máy bay đó? Tôi sẽ nói cho anh nghe tôi nghĩ gì. Tôi nghĩ rằng Atta đã chết. Anh ấy chết khi đang bị tra tấn, hoặc bị bắn một phát vào gáy. Tôi nghĩ rằng sau đó người ta băm xác anh ấy thành từng mảnh nhỏ rồi nghiền nát xương anh ấy cho đến khi trông như xương gà con. Tôi nghĩ sau đó họ cho hết xương vụn và thịt vụn của anh ấy vào một cái hộp, đổ đầy xi măng vào hộp rồi ném xuống một đầm lầy nào đó ở Florida. Và người ta cũng làm y vậy với những ai đồng hành với Mohamed Atta.

Vậy ai lái mấy chiếc máy bay đó? Fate hỏi. Những thằng điên thuộc Klan, những bệnh nhân không tên của mấy nhà thương điên miền Trung Tây, những kẻ tình nguyện được tẩy não để sẵn sàng tự sát. Hằng năm có hàng ngàn người biến mất ở xứ này mà chẳng ai thử đi tìm. Thế rồi người ta nói về người La Mã về đấu trường La Mã và về những Kitô hữu đầu tiên bị sư tử ăn thịt. Nhưng lũ sư tử sẽ nghẹn họng khi gặp thịt đen của chúng ta, Khalil nói.

♣ ♣ ♣

Ngày hôm sau Fate gặp họ ở một câu lạc bộ tại Harlem, ở đó y được giới thiệu với Ibrahim, một người vóc trung bình mặt đầy sẹo, anh ta liền mô tả hết sức chi li cho y tất cả những việc từ thiện mà Hội Huynh đệ đã làm ở khu này. Họ cùng ăn ở một quán ăn sát vách câu lạc bộ. Quán do một phụ nữ đảm đương, có một thằng nhỏ giúp việc cho bà ta và trong bếp có một ông già cứ hát không ngừng. Chiều đến thì Khalil nhập bọn và Fate hỏi hai người kia họ đã quen nhau ở đâu. Trong tù, họ nói. Nhà tù là nơi anh em da đen tương ngộ. Họ nói về những nhóm đạo Hồi khác ở Harlem. Ibrahim và Khalil không đánh giá cao các nhóm ấy, nhưng họ vẫn cố tỏ ra chừng mực và duy trì đối thoại. Chẳng chóng thì chầy những người đạo Hồi tốt đều sẽ tự đến với Hội Huynh đệ Mohammed.

Trước khi đi, Fate nói với họ rằng người ta sẽ không bao giờ tha thứ cho họ vì đã diễu hành dưới bức hình Osama bin Laden. Ibrahim và Khalil cười ha hả. Fate thấy họ giống như hai tảng đá đen đang rung bần bật vì cười.

“Chắc họ chả bao giờ quên được đâu,” Ibrahim nói.

“Giờ thì họ biết họ đang đương đầu với ai rồi,” Khalil nói.

♣ ♣ ♣

Trưởng ban của y bảo y quên vụ viết bài về Hội Huynh đệ đi.

“Tụi da đen đó, chúng nó có mấy đứa?” ông ta hỏi.

“Cỡ hai chục,” Fate nói.

“Hai chục thằng nhọ,” trưởng ban của y nói. “Ít nhất năm thằng trong đó là FBI cài vào.”

“Có khi còn hơn,” Fate nói.

“Tụi nó có gì đáng cho ta quan tâm?” trưởng ban hỏi.

“Sự ngu xuẩn,” Fate nói. “Vô vàn những cách khác nhau để chúng ta tự hủy diệt mình.”

“Cậu đã thành một tay khổ dâm rồi hả, Oscar?” trưởng ban hỏi.

“Có thể,” Fate thừa nhận.

“Cậu cần phải đụ cái nhiều hơn,” trưởng ban nói. “Ra ngoài nhiều hơn, nghe nhạc nhiều hơn, kết bạn và chuyện trò với người ta.”

“Tôi có nghĩ tới rồi,” Fate nói.

“Nghĩ tới gì?”

“Đụ cái nhiều hơn,” Fate nói.

“Mấy chuyện kiểu đó người ta không nghĩ, người ta làm,” trưởng ban nói.

“Đầu tiên phải nghĩ tới đã,” Fate nói. Đoạn y nói thêm, “Tôi viết bài đó được không?”

Trưởng ban lắc đầu.

“Quên đi,” ông nói. “Bán nó cho một tờ tạp chí triết học hay là tạp chí nhân học đô thị, hoặc nếu muốn thì viết một cái kịch bản chó chết để cho thằng Spike Lee chó chết dựng thành phim, nhưng đăng trên tạp chí của tôi thì không.”

“Được rồi,” Fate nói.

“Đụ mẹ nó, đi diễu hành mang theo ảnh bin Laden cơ đấy,” trưởng ban nói.

“Phải lớn cật lắm,” Fate nói.

“Phải có cật bằng thép, lại còn phải ngu tới số nữa kìa.”

“Chắc chắn là có vài cảnh sát chìm trà trộn trong tụi đó,” Fate nói.

“Cũng vậy thôi,” trưởng ban nói, “dù có là ai thì đấy cũng là dấu hiệu.”

“Dấu hiệu gì?” Fate hỏi.

“Chúng ta đang sống trên một hành tinh của những thằng điên,” trưởng ban nói.

♣ ♣ ♣

Khi trưởng ban của Fate nghe điện thoại, y giải thích cho ông biết chuyện gì đang diễn ra ở Santa Teresa. Y tóm tắt bài báo y muốn viết. Y nói về những người đàn bà bị giết, về khả năng là tất cả các tội ác đó đều do một hay hai kẻ gây ra, điều này khiến cho hai kẻ đó trở thành những tên giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử, y nói về tình trạng buôn lậu ma túy xuyên biên giới, về nạn tham nhũng chính trị và sự tăng trưởng vô hạn độ của thành phố này, y hứa chỉ cần thêm một tuần là y có thể thu thập mọi tư liệu cần thiết rồi sau đó y sẽ về New York và trong năm ngày sẽ nộp bài.

“Oscar,” trưởng ban của y nói, “cậu ở đó là để viết bài về một trận quyền Anh chó chết.”

“Chuyện này quan trọng hơn,” Fate nói, trận đấu chỉ là chuyện nhỏ. Chuyện tôi đang đề xuất mới đáng nói hơn nhiều.”

“Cậu đề xuất cái gì?”

“Phác họa cảnh quan nền công nghiệp ở thế giới thứ ba,” Fate nói, “một aide-mémoire về tình hình hiện tại ở Mexico, một bức tranh toàn cảnh về vùng biên giới, một trong những bài quan trọng nhất về tình hình tội phạm, mẹ kiếp.”

“Aide-mémoire á?” trưởng ban của y nói. “Đấy là tiếng Pháp phải không, thằng đen? Cậu biết tiếng Pháp từ khi nào vậy?”

“Tôi không biết tiếng Pháp,” Fate nói, “nhưng tôi biết một cái aide-mémoire chó chết có nghĩa là gì.”

“Tôi cũng biết một cái aide-mémoire chó chết nghĩa là gì,” trưởng ban nói, “tôi còn biết merci với lại au-revoir và faire l’amour nghĩa là gì nữa, faire l’amour cũng giống như là coucher avec moi, có nhớ bài hát không? voulez-vous coucher avec moi, ce soir? chắc là cậu, thằng đen à, cậu muốn coucher avec moi, chỉ có điều cậu quên nói voulez-vous*, mà trong chuyện này thì lẽ ra cậu phải nói câu đó đầu tiên mới phải. Đã hiểu chưa? Cậu phải nói voulez-vous không thì người ta nói cút mẹ mày đi.”

“Có tư liệu để viết bài rất hay đấy,” Fate nói.

“Có bao nhiêu thằng đen dính vào vụ này?” trưởng ban hỏi.

“Ông nói cái quái gì vậy hả?” Fate hỏi.

“Bao nhiêu thằng đen chó chết bị tròng dây thừng quanh cổ vậy?” trưởng ban hỏi.

“Làm sao tôi biết được, tôi đang nói về một bài báo hay,” Fate nói, “chứ đâu phải về vụ nổi loạn nào ở khu ghetto.”

“Vậy là nói cách khác trong chuyện này không có thằng đen nào hết,” trưởng ban nói.

“Da đen thì không có, nhưng hơn hai trăm phụ nữ Mexico bị giết,” Fate nói.

“Khả năng thắng của Count Pickett là bao nhiêu?” trưởng ban hỏi.

“Ông đi mà cho thằng Count Pickett thượng lên cái lỗ đít đen của ông,” Fate nói.

“Cậu gặp tay kia chưa?” trưởng ban hỏi.

“Ông đi mà cho thằng Count Pickett thượng lên cái lỗ đít chó đẻ của ông đi,” Fate nói, “và nhớ bảo thằng đó để mắt đến ông vì khi nào về New York tôi sẽ đá đít ông đấy.”

“Cậu làm phận sự của mình đi, và đừng có chi quá tay, thằng đen,” trưởng ban nói.

Fate gác máy.

Cạnh y, đang mỉm cười với y, là một phụ nữ mặc đồ jean xanh và áo khoác da. Cô đeo kính râm, có một túi xách loại tốt và một máy ảnh khoác vai. Cô nom có vẻ là khách du lịch.

“Anh quan tâm đến các vụ giết người ở Santa Teresa à?” cô hỏi.

Fate nhìn cô và phải mất một hồi mới hiểu ra là cô đã nghe cuộc nói chuyện qua điện thoại của y.

“Tôi là Guadalupe Roncal,” người phụ nữ vừa nói vừa chìa tay ra.

Y bắt tay. Đó là một bàn tay thanh tú.

“Tôi là nhà báo,” Guadalupe Roncal nói khi y buông tay cô ra. “Nhưng tôi không đến đây để viết về trận đấu. Quyền Anh không làm tôi hứng thú, mặc dù tôi biết có một vài phụ nữ thấy quyền Anh rất gợi tình. Nói thật, tôi thì thấy nó thô lậu và vô nghĩa. Anh có nghĩ thế không? Hay anh thích nhìn hai người đàn ông trưởng thành đánh nhau?”

Fate nhún vai.

“Anh không nói? Được thôi, tôi không phải là người có quyền phán xét môn thể thao anh thích. Thực tình thì tôi không thích môn thể thao nào hết. Quyền Anh không, vì lý do tôi vừa nói, bóng đá không, bóng rổ không, cả điền kinh cũng không. Vậy chắc anh sẽ tự hỏi tôi làm gì trong một khách sạn đầy nhóc nhà báo thể thao chứ không phải là một nơi yên tĩnh hơn, nơi tôi không phải cứ hễ lần nào xuống quầy bar hay nhà ăn là lại nghe toàn những câu chuyện vừa buồn vừa bi tráng về những trận đấu tuyệt vời tự đời tám hoánh nào. Tôi sẽ kể nếu anh đến ngồi ở bàn tôi và cho phép tôi mời anh một cốc.”

Khi đi theo cô Fate chợt nghĩ có khi y đang đi cùng một ả điên hay có khi là một ả mồi chài, nhưng Guadalupe Roncal trông không có vẻ là điên hay một ả mồi chài, mặc dù thật ra Fate không biết những ả điên Mexico hay ả mồi chài Mexico trông ra sao. Tuy nhiên cô cũng trông không giống nhà báo. Họ ngồi ở một bàn ngoài trời, nhìn xuống một công trình xây dựng dở dang, một tòa nhà hơn mười tầng. Một khách sạn khác, người phụ nữ cho y biết với vẻ hờ hững. Một vài công nhân tựa mình vào mấy thanh dầm hoặc ngồi trên đống gạch đang nhìn họ hoặc là Fate nghĩ vậy, mặc dù không thể nói chắc được bởi vì những hình người di động nơi tòa nhà đang xây dở ấy nhỏ quá.

“Như tôi đã nói, tôi là nhà báo,” Guadalupe Roncal nói. Tôi làm cho một trong mấy tờ báo lớn của thủ đô Mexico. Và tôi ở khách sạn này là vì sợ.”

“Sợ gì?” Fate hỏi.

“Sợ mọi thứ. Khi việc ta làm có liên quan đến những vụ giết phụ nữ ở Santa Teresa, rốt cuộc ta sẽ sợ mọi thứ. Sợ người ta sẽ đánh đập mình. Sợ bị bắt cóc. Sợ bị tra tấn. Dĩ nhiên, có kinh nghiệm thì bớt sợ. Nhưng tôi không có kinh nghiệm. Chẳng có kinh nghiệm nào hết. Tôi đến khổ vì thiếu kinh nghiệm. Thậm chí có thể nói ở đây tôi là một nhà báo mật, nếu như có thứ như vậy. Tôi biết tất cả những gì liên quan đến các vụ giết người. Nhưng tôi không phải chuyên gia đích thực về chủ đề này. Tôi muốn nói rằng cho tới cách đây một tuần đó vẫn chưa phải chủ đề của tôi. Tôi không biết nhiều về nó, tôi chưa viết gì về nó cả, thế rồi tự dưng khi không người ta đặt tập hồ sơ những người bị giết lên bàn tôi và tôi được giao đảm nhiệm vụ này. Anh muốn biết tại sao không?”

Fate gật đầu.

“Vì tôi là phụ nữ mà phụ nữ thì không thể khước từ nhiệm vụ. Dĩ nhiên, tôi đã biết số phận hay kết cục của người tiền nhiệm của tôi là thế nào rồi. Ai ở tòa soạn cũng biết hết. Vụ này gây rất nhiều chú ý, có khi chính anh cũng đã nghe nói rồi.” Fate lắc đầu. “Chúng giết anh ấy, dĩ nhiên rồi. Anh ấy đã dấn quá sâu nên chúng giết anh ấy. Không phải ở đây, ở Santa Teresa, mà ở thủ đô. Cảnh sát nói đó là một vụ giết người cướp của. Anh có biết chuyện xảy ra thế nào không? Anh ấy lên taxi. Taxi chuyển bánh. Thế rồi đến một góc đường xe dừng lại và hai người lạ mặt lên xe. Chúng lái xe vòng vòng một hồi đến nhiều chỗ có máy rút tiền, rút cho kỳ sạch thẻ tín dụng của người tiền nhiệm của tôi, sau đó chúng lái xe đến đâu đó ven thành phố rồi dùng dao đâm chết anh ấy. Anh ấy không phải nhà báo đầu tiên chết vì những gì mình viết. Trong hồ sơ của anh ấy tôi còn thấy thông tin về hai người nữa. Một người là phụ nữ, phóng viên truyền thanh, bị bắt cóc ở thủ đô, còn một là người Mỹ gốc Mexico làm việc cho một tờ báo ở Arizona tên là La Raza, anh này thì mất tích. Cả hai đều đang điều tra các vụ giết phụ nữ ở Santa Teresa. Cô phóng viên truyền thanh thì tôi có biết từ hồi học ở khoa báo chí. Chúng tôi chưa từng là bạn. Cùng lắm chỉ là trao đổi với nhau dăm câu. Nhưng tôi tin mình đã gặp cô ấy. Trước khi giết cô ấy chúng hãm hiếp và tra tấn cô ấy.”

“Ở đây, ở Santa Teresa?” Fate hỏi.

“Không, anh bạn à, ở thủ đô cơ. Cánh tay của những kẻ giết người, nó dài, dài lắm,” Guadalupe Roncal nói bằng giọng mơ màng. “Trước đây tôi làm việc cho ban tin tức địa phương. Tôi hầu như chưa bao giờ được đứng tên tác giả. Tôi là kẻ vô danh hoàn toàn. Khi người tiền nhiệm của tôi chết, hai ông sếp tờ báo đến gặp tôi. Họ mời tôi đi ăn trưa. Dĩ nhiên tôi nghĩ chắc có chuyện không hay rồi. Hay là một trong hai ông này muốn ngủ với tôi. Tôi chẳng quen ông nào cả. Tôi biết họ là ai, nhưng tôi chưa bao giờ nói chuyện với ai trong hai ông. Bữa ăn rất ngon. Họ rất đúng mực và lịch lãm, tôi thì vừa khôn ngoan vừa thận trọng. Giá như lúc đó tôi gây cho họ ấn tượng xấu hơn thì chắc sẽ hay hơn. Sau đó chúng tôi quay về tòa soạn và họ bảo tôi đi theo họ, họ có chuyện quan trọng muốn nói với tôi. Chúng tôi vào văn phòng của một trong hai người. Đầu tiên họ hỏi tôi có muốn tăng lương không. Đến khi đó thì tôi nhận ra có gì đó không bình thường rồi và tôi cảm thấy thôi thúc muốn nói không, nhưng tôi nói có, thế là họ lấy ra một tờ giấy và nói một con số, chính là số tiền tôi đang kiếm được với tư cách phóng viên tin tức địa phương, rồi họ nhìn thẳng vào tôi và nói một con số khác, tương đương với số lương tôi tăng lên bốn chục phần trăm. Tôi vui quá suýt nhảy cẫng lên. Thế rồi họ đưa tôi tập hồ sơ mà người tiền nhiệm tôi đã tập hợp được và bảo từ nay tôi sẽ chuyên tâm vào vụ các phụ nữ bị giết ở Santa Teresa. Tôi hiểu ra là nếu thoái lui, tôi sẽ mất tất cả. Tôi thì thầm hỏi sao lại là tôi. Bởi vì cô rất thông minh, Lupita, một người nói. Bởi vì chẳng ai biết cô, người kia nói.”

Người phụ nữ thở dài sườn sượt. Fate mỉm cười thông cảm. Họ gọi thêm whiskey và bia. Các công nhân trên tòa nhà đang xây đã biến mất. Tôi uống nhiều quá, người phụ nữ nói.

“Từ khi đọc hồ sơ của người tiền nhiệm, tôi đã uống quá nhiều whiskey, nhiều hơn trước rất nhiều, tôi còn uống vô độ cả vodka và tequila nữa, còn giờ thì tôi phát hiện ra thứ đồ uống vùng Sonora này, bacanora, và cái này tôi cũng uống nhiều,” Guadalupe Roncal nói. “Và càng ngày tôi càng sợ hơn, đôi khi không kiểm soát tâm trí mình được nữa. Hiển nhiên, người ta nói người Mexico không bao giờ biết sợ.” Cô cười to. “Láo toét. Chúng tôi sợ nhiều chứ, chỉ có điều chúng tôi che giấu giỏi thôi. Chẳng hạn, khi mới tới Santa Teresa, tôi sợ đến chết được. Trên chuyến bay từ Hermosillo nếu như máy bay có đâm xuống đất chắc tôi cũng thấy chẳng sao. Ít nhất thì cũng chết nhanh, đó là tôi nghe người ta nói vậy. Cũng may có một đồng nghiệp của tôi ở thủ đô cho tôi địa chỉ khách sạn này. Anh ấy bảo tôi anh ấy sẽ ở Sonora Resort để viết bài về trận quyền Anh và một khi quanh tôi toàn các nhà báo thể thao thế kia thì chẳng ai hại tôi được. Thế nên tôi ở đây. Ngặt một điều là khi trận đấu đã xong rồi thì tôi không thể rời khỏi đây cùng bọn họ mà phải lưu lại Santa Teresa thêm vài ngày nữa.”

“Tại sao?” Fate hỏi.

“Tôi phải phỏng vấn nghi phạm chính của các vụ giết người đó. Anh ta là đồng hương của anh đấy.”

“Tôi không biết gì cả,” Fate nói.

“Anh định viết thế nào về các tội ác ấy đây nếu anh không biết điều đó?” Guadalupe Roncal hỏi.

“Tôi đang định tìm hiểu thông tin. Lúc nãy, tôi gọi điện thoại là để xin thêm thời gian.”

“Người tiền nhiệm của tôi là người biết chuyện này rõ nhất. Anh ấy phải mất bảy năm mới nắm được khái quát những chuyện đang xảy ra ở đây. Cuộc đời buồn không chịu nổi, anh có nghĩ thế không?”

Guadalupe Roncal gõ ngón trỏ lên cả hai bên thái dương, như thể đột nhiên bị đau đầu. Cô thì thầm gì đó Fate nghe không rõ, đoạn cô toan gọi bồi bàn nhưng chỉ có hai người họ đang ngồi chỗ bàn ngoài trời. Khi nhận ra điều đó, cô rùng mình.

“Tôi phải đến gặp anh ta trong tù,” cô nói. “Nghi phạm chính - đồng hương của anh - ngồi tù nhiều năm rồi.”

“Vậy thì làm sao anh ta là nghi phạm chính được?” Fate hỏi. “Tôi cứ tưởng các tội ác ấy vẫn đang diễn ra chứ.”

“Những bí ẩn của Mexico,” Guadalupe Roncal nói. “Anh có muốn cùng đi không? Anh có muốn đi cùng tôi để phỏng vấn anh ta không? Sự thật là tôi sẽ thấy an tâm hơn nếu có một người đàn ông đi với tôi, điều này mâu thuẫn với tín điều của tôi, vì tôi là người theo nữ quyền. Anh có gì chống lại các nhà nữ quyền không? Làm nhà nữ quyền ở Mexico không dễ. Nếu có tiền thì không khó lắm, nhưng nếu là dân trung lưu thì khó. Dĩ nhiên ban đầu thì không, ban đầu thì dễ, ở trường đại học chẳng hạn thì dễ lắm, nhưng rồi thời gian trôi qua, mỗi năm lại một khó hơn. Tôi nói anh nghe, với đàn ông Mexico chỉ thứ chủ nghĩa nữ quyền ở đám gái trẻ thì họ mới thấy hấp dẫn. Nhưng ở xứ này chúng tôi nhanh già lắm. Cái tạng chúng tôi sinh ra là đã nhanh già. Cũng may tôi còn trẻ.”

“Cô còn khá trẻ mà,” Fate nói.

“Nhưng tôi sợ. Và tôi cần có bạn đi cùng. Sáng nay tôi lái xe qua nhà tù Santa Teresa và gần như đã lên cơn hoảng loạn.”

“Rợn đến thế sao?”

“Nó như một giấc mơ,” Guadalupe Roncal nói. “Như một nhà tù sống.”

“Sống?”

“Tôi không biết giải thích thế nào. Sống động hơn nhiều so với một tòa nhà căn hộ chẳng hạn. Sống động hơn nhiều. Đừng sốc vì điều tôi sắp nói nhé, nó giống như một người đàn bà đã bị băm thành từng mảnh. Một người đàn bà bị băm thành từng mảnh nhưng vẫn sống. Và trong người đàn bà đó, các tù nhân đang sống.”

“Tôi hiểu,” Fate nói.

“Không, tôi không tin là anh hiểu, nhưng cũng thế thôi. Anh quan tâm đến vấn đề này, vậy thì tôi cho anh cơ hội gặp nghi phạm chính của các vụ giết người, đổi lại anh đi cùng tôi và bảo vệ tôi. Tôi nghĩ thế là sòng phẳng và công bằng. Anh đồng ý không?”

“Thế là công bằng,” Fate nói. “Và cô cũng rất tử tế. Điều tôi không hiểu là cô sợ cái gì. Ở trong tù không ai có thể hại cô. Ít nhất là về lý thuyết, những người ở trong tù không thể làm hại ai. Họ chỉ hại nhau thôi.”

“Anh chưa hề thấy ảnh của nghi phạm chính.”

“Chưa,” Fate nói.

Guadalupe Roncal nhìn lên trời mỉm cười.

“Chắc tôi giống con điên,” cô nói, “hoặc như con điếm. Nhưng tôi không phải thứ này cũng chả phải thứ kia. Chỉ là tôi bồn chồn bất an và dạo gần đây tôi uống rượu nhiều quá. Anh có nghĩ tôi muốn đưa anh lên giường không?”

“Không. Tôi tin điều cô kể với tôi.”

“Trong các giấy tờ mà người tiền nhiệm tội nghiệp của tôi để lại có vài bức ảnh. Vài ảnh của nghi phạm. Chính xác là ba tấm. Cả ba đều chụp trong tù. Ở hai bức, tay Mẽo - xin lỗi, tôi nói thế không có ý xúc phạm anh - đang ngồi nhìn ống kính, chắc là ở phòng thăm tù. Hắn tóc rất vàng, mắt rất xanh. Xanh đến nỗi hắn trông cứ như mù. Ở tấm thứ ba thì hắn đứng, nhìn sang phía khác. Hắn cao lêu đêu và gầy, hết sức gầy, nhưng không có vẻ yếu ớt tí nào. Hắn có khuôn mặt của kẻ đang nằm mơ. Tôi không biết nói sao cho rõ. Hắn không có vẻ gì là khó chịu. Hắn đang ở tù, nhưng không gây cho ta ấn tượng là hắn đang ở tù. Hắn cũng không có vẻ bình thản hay ung dung thoải mái. Mà cũng không có vẻ giận dữ. Hắn có khuôn mặt của kẻ đang mơ, nhưng là một kẻ đang mơ ở tốc độ rất cao. Một kẻ đang mơ mà giấc mơ của hắn vượt rất xa giấc mơ của chúng ta. Và điều đó làm tôi sợ. Anh có hiểu không?”

“Thực tình là không,” Fate nói. “Nhưng cô có thể yên tâm là tôi sẽ đi cùng cô để phỏng vấn hắn.”

“Vậy thỏa thuận nhé,” Guadalupe Roncal nói. “Ngày mốt tôi sẽ chờ anh nơi cửa khách sạn, lúc mười giờ. Được không?”

“Mười giờ sáng. Tôi sẽ có mặt,” Fate nói.

“Đúng mười giờ, trước ngọ, OK,” Guadalupe Roncal nói. Đoạn cô lắc đầu và đi khỏi. Fate nhận thấy dáng đi của cô hơi lảo đảo.

♣ ♣ ♣

Từ lúc đó cho đến hết ngày Fate uống rượu với Campbell ở quầy bar tại Sonora Resort. Họ ta thán về nghề viết báo thể thao, một nghề bạc bẽo chẳng bao giờ có cơ đoạt giải Pulitzer và bị hầu hết thiên hạ cho là chỉ có mỗi việc đi xem các trận đấu còn ngoài ra chẳng có gì hơn để nói. Đoạn họ bắt đầu hồi tưởng về thời sinh viên của mình, Fate ở Đại học New York, Campbell thì là một trường tại thành phố Sioux, bang Iowa.

“Hồi đó tớ chỉ quan tâm có mỗi bóng chày và đạo đức thôi,” Campbell nói.

Trong khoảng một giây Fate hình dung cảnh Campbell quỳ gối trong góc một căn phòng tối, tay ôm Kinh Thánh mà khóc. Nhưng rồi Campbell bắt đầu nói về đàn bà, về một quán bar ở một nơi tên là Smithland, kiểu như một quán rượu kiêm quán trọ miền quê gần sông Little Sioux. Trước hết mình phải tới Smithland rồi sau đó đi thêm vài cây số về phía Đông, ở đó, dưới vài tán cây là quán bar đó và các cô phục vụ quán, khách hàng hầu hết là nông dân và một số sinh viên đi xe hơi từ thành phố Sioux tới.

“Tụi tớ luôn làm cùng từng ấy thứ,” Campbell nói, “đầu tiên tụi tớ phịch mấy đứa con gái, sau đó tụi tớ ra ngoài sân chơi bóng chày đến mệt lử, thế rồi khi trời bắt đầu tối tụi tớ sẽ uống cho say mèm và hát những bài hát cao bồi trên hiên quán.”

Ngược lại, hồi Fate còn là sinh viên Đại học New York y không bao giờ uống rượu say cũng chẳng bao giờ ngủ với điếm (sự thực là cả đời y chưa khi nào phải trả tiền để ngủ với đàn bà). Thời gian rảnh rỗi y dành hết cho làm việc và đọc sách. Mỗi tuần một lần, vào thứ Bảy, y dự một khóa sáng tác và có một dạo, không lâu lắm, chỉ vài tháng, y tưởng tượng là có khi y sẽ kiếm sống được bằng cách viết truyện, nhưng rồi ông nhà văn đứng lớp bảo rằng tốt nhất y nên tập trung vào nghề báo thôi.

Nhưng y không nói cho Campbell biết chuyện đó.

Khi trời bắt đầu tối, Chucho Flores đến tìm y. Fate để ý thấy Chucho Flores không mời Campbell đi cùng. Y không biết tại sao, nhưng điều này y vừa thích cũng vừa không thích. Mãi một hồi họ lái xe vòng vòng phố xá Santa Teresa mà không biết đi đâu, ít nhất là Fate có cảm giác vậy, hình như Chucho Flores muốn nói gì đó với y nhưng chưa tìm được lúc thích hợp. Ánh đèn thành phố về đêm làm thay đổi khuôn mặt tay người Mexico. Các cơ mặt anh ta căng ra. Mặt nhìn nghiêng thậm xấu, Fate nghĩ. Chỉ đến khi đó y mới nhận ra rồi y sẽ phải quay về Sonora Resort vì y để xe của mình ở đó.

“Đừng đi xa quá,” y nói.

“Anh có đói không?” tay người Mexico hỏi. Y bảo có. Tay người Mexico phá lên cười rồi bật nhạc. Fate nghe có tiếng đàn phong cầm và vài tiếng hét xa xôi, không phải vì buồn hay vui mà thuần túy do năng lượng, thứ năng lượng tự cấp tự tiêu. Chucho Flores mỉm cười và nụ cười của anh ta vẫn in dấu trên mặt trong khi anh ta không ngừng lái, không nhìn Fate, hướng thẳng ra đằng trước, như thể anh ta đeo nẹp cổ bằng thép, trong khi những tiếng rền rú cứ gần lại gần lại dần micrô và giọng của những người mà Fate gán cho những bộ mặt kinh khiếp bắt đầu hát hoặc cứ tiếp tục hét, ít hơn lúc đầu, và gào lên muôn năm không hiểu vì lý do gì.

“Cái gì vậy?” Fate hỏi.

“Nhạc jazz Sonora,” Chucho Flores nói.

♣ ♣ ♣