PHẦN BỐN (A) PHẦN VỀ CÁC TỘI ÁC
Trong khi cảnh sát đang làm việc hầu làm sáng tỏ cái chết của Bò Cái, Harry Magaña tìm ra căn nhà Miguel Montes sống. Một chiều Chủ nhật nọ y canh chừng, và sau hai tiếng đồng hồ, đợi mãi mệt quá, y bèn phá khóa mà vào. Nhà chỉ có một phòng, một bếp và buồng tắm. Trên tường dán ảnh các diễn viên Hollywood. Trên một ngăn kệ là hai bức ảnh Miguel đóng khung, và quả thật anh ta là một gã có bộ mặt thật thà, điển trai, kiểu phụ nữ thích. Y lục lọi hết các ngăn kéo. Trong một ngăn y bắt gặp một cuốn séc và một con dao. Khi lật nệm trải giường lên y thấy có vài ba tạp chí và thư từ. Y lật qua mấy tờ tạp chí. Dưới bếp, bên dưới một cái tủ, y bắt gặp một phong bì cất bốn bức ảnh Polaroid. Một bức chụp một căn nhà giữa sa mạc, một căn nhà bằng gạch sống nom khiêm nhường, có một cổng vòm nhỏ và hai cửa sổ bé tí. Đỗ gần căn nhà là một chiếc xe tải nhỏ dạng truyền động bốn bánh. Một bức khác chụp hai cô gái quàng vai nhau, đầu nghếch sang trái, cùng nhìn vào ống kính với vẻ cực kỳ tự tin giống nhau, như thể họ vừa mới đặt chân lên hành tinh này hoặc đã gói ghém xong hành lý để đi. Bức này chụp ở một con phố đông người, hẳn là ở khu trung tâm Santa Teresa. Bức thứ ba chụp một chiếc máy bay nhỏ trên một đường băng đất, trong sa mạc. Đằng sau máy bay là một ngọn đồi. Mọi thứ khác đều bằng phẳng, chẳng có gì ngoài cát và cây bụi. Bức sau cùng chụp hai người đàn ông không nhìn vào ống kính và có lẽ đang xỉn hoặc đang phê, mặc sơ mi trắng, một người đội mũ, cả hai đang bắt tay nhau như đôi bạn chí thân. Y lùng khắp để tìm cái máy ảnh Polaroid song không thấy. Y cho mấy bức ảnh, thư từ, con dao vào túi rồi lục soát khắp nhà thêm lần nữa đoạn ngồi xuống một cái ghế mà đợi. Đêm đó Miguel Montes không về, đêm sau cũng không. Y nghĩ có thể tay này đã vội vàng rời thành phố hoặc đã chết rồi. Y thấy ngã lòng. Cũng may cho y, từ khi quen Demetrio Águila y không còn phải ở nhà trọ lẫn ở khách sạn hay trắng đêm lang thang hết quán bar này đến quán bar kia uống rượu, thay vì vậy y về ngủ ở một căn nhà trên phố Luciérnaga, quận Rubén Darío, nhà của bạn y, ông này đã trao chìa khóa cho y. Căn nhà nhỏ này, khác với những gì người ta có thể chờ đợi, luôn luôn sạch sẽ, tuy nhiên sự sạch sẽ của nó, sự ngăn nắp chỉn chu của nó, không hề có nét nữ tính nào: đó là một sự sạch sẽ khắc kỷ, hoàn toàn không duyên dáng thanh tao, giống như sự sạch sẽ chỉn chu trong một nhà tù hay trong tu viện, một sự sạch sẽ chỉn chu hướng tới đạm bạc chứ không phải tới sự phong nhiêu. Đôi lần, khi về nhà, y gặp Demetrio Águila đang pha cà phê olla dưới bếp và cả hai cùng ngồi trong phòng khách trò chuyện. Nhờ nói chuyện với người Mexico này mà y thấy an tâm. Người Mexico này nói về cái thời ông còn chăn bò ở nông trại Triple T và về mười cách khác nhau để thuần một con ngựa non hoang. Đôi khi Harry bảo ông nên đi cùng y đến thăm Arizona, người Mexico bèn trả lời rằng đâu cũng như nhau thôi, Arizona, Sonora, New Mexico, Chihuahua, như nhau hết, và Harry liền ngẫm nghĩ rồi cuối cùng thấy không thể chấp nhận rằng đâu cũng như nhau, nhưng y thấy buồn nếu nói ngược lại ý Demetrio Águila cho nên y không nói. Những lần khác thì họ cùng nhau ra ngoài và ông người Mexico có thể nhìn cận cảnh những phương thức mà tay Mẽo sử dụng, về lý thuyết ông không ưa sự nghiệt ngã của các phương thức đó, song ông tin là chúng đều có cái để biện minh. Đêm đó, khi Harry quay về căn nhà trên phố Luciérnaga, y thấy Demetrio Águila còn thức, và trong khi pha cà phê y bảo ông rằng manh mối cuối cùng của y đã bốc hơi. Demetrio Águila không nói gì. Ông rót cà phê rồi làm món trứng bác với thịt hun khói. Hai người bắt đầu lặng lẽ ăn. Tôi tin là chẳng có gì bốc hơi cả, ông người Mexico nói. Có những người những con thú và kể cả những vật này vật kia nữa, vì lý do này khác, đôi khi khiến ta có cảm tưởng là chúng muốn bốc hơi, muốn biến đi. Dù anh không tin, Harry ạ, nhưng đôi khi một tảng đá cũng muốn biến mất, chính mắt tôi thấy rồi. Nhưng Chúa không cho phép. Ngài không cho phép là bởi Ngài không thể cho phép được. Anh có tin Chúa không, Harry? Có, thưa ông Demetrio, Harry Magaña nói. Vậy thì hãy tin ở Chúa, Ngài không cho phép cái gì bốc hơi đi cả.
♣ ♣ ♣Vào khoảng thời gian này Juan de Dios Martínez vẫn ngủ với bác sĩ Elvira Campos hai tuần một lần. Đôi khi viên thanh tra cảm thấy mối quan hệ này vẫn cứ duy trì được thì quả là phép lạ. Có những khó khăn, có những hiểu lầm, song họ vẫn ở bên nhau. Trên giường, sự lôi cuốn đến từ hai phía, anh tin như vậy. Anh chưa bao giờ ham muốn người phụ nữ nào như ham muốn bà. Giá như có quyền quyết định thì anh đã cưới bà giám đốc mà không cần nghĩ đến lần thứ hai. Đôi khi, những lúc đã lâu không gặp bà, anh bắt đầu nghĩ ngợi lan man về những khác biệt văn hóa giữa hai người, vốn bị anh xem là trở ngại chính. Chẳng hạn, bà giám đốc thích hội họa và có thể nhìn một bức tranh mà biết tác giả là ai. Những cuốn sách bà đọc anh chưa nghe tới bao giờ. Thứ nhạc bà nghe chỉ khiến anh mơ màng buồn ngủ, nghe một chặp là anh chỉ muốn nằm xuống đánh một giấc, song anh cẩn thận không làm vậy ở nhà bà. Ngay cả đồ ăn bà giám đốc thích cũng khác với đồ ăn anh thích. Anh cố gắng thích nghi với hoàn cảnh mới và đôi khi lại đến cửa hàng băng đĩa mua vài món của Beethoven và Mozart đem về nhà nghe một mình. Thường là anh ngủ gật. Song những giấc mơ của anh thì thanh bình và hạnh phúc. Anh mơ thấy mình cùng Elvira Campos sống chung trong một túp lều trên núi. Trong túp lều không có điện hay nước máy, cũng chẳng có gì gợi họ nhớ lại nền văn minh. Họ ngủ trên da gấu, chăn đắp là da sói. Và thỉnh thoảng Elvira Campos cất tiếng cười, rền vang, khi bà chạy vào trong rừng và anh chẳng thấy bà đâu nữa.
♣ ♣ ♣Đọc thư đi, Harry, Demetrio Águila nói. Ông cần tôi đọc bao nhiêu lần thì tôi sẽ đọc bấy nhiêu. Bức thư đầu là của một người bạn cũ của Miguel sống ở Tijuana, dù phong bì không đóng dấu bưu điện, và là một tập hợp những kỷ niệm về cái thời hạnh phúc hai người chia sẻ cùng nhau. Thư nhắc tới bóng chày, gái làng chơi, xe ăn cắp, đánh nhau, rượu, và nhắc sơ qua ít nhất năm vụ án mà đáng lẽ đã khiến Miguel Montes và bạn anh ta phải ngồi tù. Thư thứ hai là của một người phụ nữ. Thư đóng dấu bưu điện ngay ở Santa Teresa. Người phụ nữ đòi tiền và yêu cầu trả cấp kỳ. Nếu không thì cứ đợi hậu quả, thư nói. Thư thứ ba, xét theo chữ viết, tuy không ký tên, vẫn là của người phụ nữ đó, chưa được Miguel trả nợ, và thư nói anh ta có ba ngày để ló mặt tới mang tiền theo, tới đâu anh ta biết rồi đó, còn nếu không - và ở lá thư này, theo Demetrio Águila, và theo cả Harry Magaña nữa, có thể nhận ra một thoáng cảm thông, thoáng cảm thông kiểu phụ nữ mà Miguel luôn có thể cậy vào, ngay cả trong giờ phút gian khó nhất - người phụ nữ gợi ý hắn hãy rời thành phố càng nhanh càng tốt và đừng nói gì với bất cứ ai. Thư thứ tư là của người bạn kia và có lẽ, dù dấu bưu điện không đọc được, là từ thành phố Mexico. Anh bạn này, vốn là người miền Bắc vừa chuyển về thủ đô, kể với Miguel những ấn tượng của mình về thành phố lớn ấy: anh nói về tàu điện ngầm, mà anh so sánh với một nấm mồ chung, về sự lạnh băng của người dân thủ đô, những kẻ chẳng bao giờ nhấc ngón tay lên giúp một ai, về chuyện đi lại khó khăn, vì sống ở thủ đô mà có một chiếc ô tô chó chết thì là việc hoàn toàn vô ích bởi đường sá cứ tắc hoài không dứt, về sự ô nhiễm và phụ nữ xấu đui xấu mù. Nhân viết về chuyện này anh liền kể một số chuyện tiếu lâm tục tĩu. Thư sau cùng là của một cô gái sống ở Chucarit, gần Navojoa, phía Nam Sonora, và, đúng như có thể dự đoán, là một thư tình. Cô nói dĩ nhiên cô chờ anh, cô sẽ nhẫn nại chờ, và mặc dù cô muốn gặp anh đến chết được song bước đầu tiên phải là của anh còn cô thì không vội gì cả. Nghe như là thư của một cô nàng ở quê nhà, Demetrio Águila nói. Chucarit, Harry Magaña nói. Tôi có linh cảm anh chàng của chúng ta sinh ở Chucarit, ông Demetrio à. Anh có tin là tôi cũng định nói y như vậy không, Demetrio Águila nói.
♣ ♣ ♣Đôi khi Juan de Dios Martínez ngồi nghĩ anh muốn biết về cuộc đời của bà giám đốc đến nhường nào. Chẳng hạn, những tình bạn của bà. Bạn bè bà là ai? Anh chẳng biết ai trong số đó, ngoại trừ dăm ba nhân viên ở trung tâm y tế, những người mà bà giám đốc cư xử tử tế song luôn luôn giữ khoảng cách. Bà có bạn bè không? Anh ngờ là có, mặc dù bà chẳng bao giờ nói tới chuyện ấy. Một đêm, sau khi họ làm tình, anh nói anh muốn biết nhiều hơn về cuộc đời bà. Bà giám đốc nói anh đã biết nhiều quá rồi còn gì. Juan de Dios Martínez không nài nỉ.
♣ ♣ ♣Bò Cái bị giết vào tháng Tám năm 1994. Vào tháng Mười nạn nhân kế tiếp được phát hiện ở bãi rác mới của thành phố, một đống thối rữa lên men dài ba cây số rộng một cây số rưỡi trong một thung lũng về phía Nam hẻm núi Ojito, bên rìa xa lộ Casas Negras, nơi ngày ngày có một đoàn hơn trăm xe tải tới đổ rác. Mặc dù kích thước lớn như thế song bãi rác này chẳng bao lâu nữa sẽ hóa ra nhỏ và người ta đã nói tới chuyện, xét vì các bãi rác bất hợp pháp đang mọc lên như nấm, cần phải xây dựng một bãi rác mới ở ven rìa hoặc về phía Tây khu Casas Negras. Theo giám định pháp y, cô gái chết trạc mười lăm mười sáu tuổi, tuy nhiên ý kiến cuối cùng thuộc về chuyên viên bệnh học, vị này khám nghiệm cô gái ba ngày sau đó và tán thành với đồng nghiệp của mình. Cô đã bị hãm hiếp theo đường âm đạo và hậu môn rồi sau đó bị siết cổ. Cô cao một mét bốn mươi. Những người lượm rác phát hiện ra cô bảo rằng cô mặc áo ngực, váy denim xanh dương, mang giày thể thao Reebok. Đến khi cảnh sát tới nơi thì áo ngực và váy denim xanh dương chẳng còn thấy đâu nữa. Trên ngón đeo nhẫn bàn tay phải của cô có một chiếc nhẫn vàng nạm đá đen, khắc tên một học viện tiếng Anh ở trung tâm thành phố. Cô được chụp ảnh rồi sau đó cảnh sát đến chỗ học viện ngôn ngữ kia, song không ai nhận ra cô gái chết. Anh được đăng trên các tờ El Heraldo del Norte và La Voz de Sonora nhưng cũng không có kết quả gì. Thanh tra José Márquez và thanh tra Juan de Dios Martínez thẩm vấn giám đốc trường trong suốt ba giờ và hình như còn động tay động chân, vì luật sư của ông giám đốc đâm đơn kiện rằng thân chủ của mình bị ngược đãi. Vụ kiện chẳng đi đến đâu song cả hai thanh tra bị đại diện bang và cảnh sát trưởng khiển trách. Một bản tường trình về hành vi của họ cũng được gửi cho lãnh đạo cảnh sát tư pháp ở Hermosillo. Hai tuần sau xác cô gái chưa xác định được danh tính được chuyển đi để làm phình thêm nguồn cung xác cho sinh viên khoa Y của Đại học Santa Teresa.
♣ ♣ ♣Đôi khi thanh tra Juan de Dios Martínez ngạc nhiên trước khả năng làm tình cừ khôi không biết mệt mỏi của Elvira Campos. Bà làm tình giống như sắp chết tới nơi, anh nghĩ. Đã hơn một lần anh muốn bảo bà không cần phải thế, bà không cần phải hùng hục thế kia, rằng với anh chỉ cần cảm thấy bà bên cạnh, chỉ cần khẽ chạm vào bà là đủ rồi, song, gì chứ chuyện tình dục thì bà giám đốc rất thực tế và đâu ra đó. Bà hoàng của anh, đôi khi Juan de Dios Martínez nói với bà, kho báu của anh, tình yêu của anh, và bà, trong bóng tối, bảo anh im đi rồi mút cho kỳ hết giọt cuối cùng của anh - của tinh dịch anh? của linh hồn anh? của chút sự sống thảm hại mà anh cảm thấy còn sót lại ở mình? Họ làm tình, trong vùng tranh tối tranh sáng, bà từng nói là muốn vậy. Đôi lần anh những muốn bật đèn lên để ngắm bà, nhưng lại thôi, vì không muốn làm bà phật lòng. Đừng bật đèn, có lần bà bảo anh vậy, và anh thấy dường như Elvira Campos đọc được ý nghĩ của anh.
♣ ♣ ♣Vào tháng Mười một, trên tầng hai một tòa nhà đang xây dựng, vài công nhân phát hiện thấy một xác phụ nữ trạc ba mươi, cao một mét năm mươi, da ngăm, tóc nhuộm vàng, có hai răng bịt vàng, mặc độc áo phông và quần lót. Cô đã bị hãm hiếp và siết cổ. Không có giấy tờ gì. Tòa nhà nằm trên phố Alondra, quận Podestá, ở khu thượng Santa Teresa. Do vị trí của công trình nên các công nhân không ngủ đêm lại đó như ở các công trường xây dựng khác, về đêm có một bảo vệ tư trông coi tòa nhà. Khi bị thẩm vấn, anh này thú nhận là, trái với các điều khoản trong hợp đồng lao động, ban đêm anh ta toàn ngủ vì ban ngày anh ta làm việc tại một nhà máy, và có một số đêm anh ta chỉ ở lại công trường đến hai giờ sáng rồi thì về nhà, trên đại lộ Cuauhtémoc, quận San Damián. Cuộc thẩm vấn khá gay gắt, do cánh tay phải của cảnh sát trưởng là Epifanio Galindo tiến hành, tuy nhiên ngay từ đầu đã thấy rõ người gác đêm nói sự thật. Người ta giả định, chẳng phải không có cơ sở, rằng nạn nhân là người mới đến vùng này, và ở đâu đó ắt phải có một cái vali đựng quần áo của cô. Đinh ninh như vậy, người ta tiến hành thẩm tra các nhà trọ và khách sạn ở khu trung tâm, nhưng chẳng nơi nào đang có một vị khách biến mất cả. Ảnh cô được đăng trên các báo của thành phố, song không có kết quả gì: hoặc chẳng ai biết cô hoặc ảnh không rõ hoặc không ai muốn dính tới cảnh sát. Người ta kiểm tra các trình báo có người mất tích ở các bang khác trong cả nước, song chẳng có mô tả nào trùng khớp với người chết xuất hiện ở tòa nhà trên phố Alondra. Chỉ có một điều rõ ràng, hay ít nhất là rõ ràng đối với Epifanio: người phụ nữ này không phải người ở đâu đó quanh đấy, cô không bị siết cổ và hãm hiếp ở đâu đó quanh đấy, vậy thì tại sao lại vứt xác cô ở khu thượng thành phố, trên những con phố đêm đêm cảnh sát hay nhân viên bảo vệ tư luôn cần mẫn đi tuần? Sao lại phải cất công đem xác lên tầng hai một tòa nhà đang xây dựng, chịu mọi rủi ro mà việc đó kéo theo, kể cả là bị ngã xuống cầu thang hẵng còn chưa có tay vịn, trong khi nếu hợp lý ra thì phải vứt xác trong sa mạc hoặc ven một bãi rác? Suốt hai ngày anh nghĩ về chuyện đó. Trong khi đang ăn, trong khi đang nghe cộng sự nói về chuyện thể thao hoặc phụ nữ, trong khi lái chiếc xe của Pedro Negrete, trong khi ngủ. Cho tới khi anh quyết định rằng dù có nghĩ bao nhiêu thì anh cũng chẳng lần ra được câu trả lời thỏa ý, thế là anh thôi không nghĩ về chuyện đó nữa.
♣ ♣ ♣Đôi khi, nhất là vào ngày nghỉ, thanh tra Juan de Dios Martínez thích đi ra ngoài cùng với bà giám đốc. Tức là, anh muốn thiên hạ thấy anh đi với bà, ăn ở một nhà hàng trên phố cùng bà, không phải nhà hàng rẻ tiền cũng chẳng phải nhà hàng đắt tiền gì lắm mà là một nhà hàng bình thường nơi những cặp bình thường vẫn đến ăn và là nơi anh hầu như chắc chắn sẽ tình cờ gặp ai đó anh quen biết, người mà anh có thể giới thiệu bà giám đốc một cách tự nhiên, thoải mái, điềm tĩnh, đây là bạn gái tôi, Elvira Campos, bác sĩ tâm thần. Ăn xong có lẽ họ sẽ quay về căn hộ của bà để làm tình rồi đánh một giấc. Và đêm đến họ sẽ lại đi chơi, lái chiếc BMW của bà hoặc chiếc Cougar của anh, đi xem phim hoặc đi uống ở một quán ngoài trời nào đó hoặc đi nhảy đầm ở một trong số các hộp đêm ở Santa Teresa. Hạnh phúc quá vẹn toàn, Juan de Dios Martínez nghĩ. Elvira Campos, ngược lại, thậm chí không muốn nghe nói tới chuyện cho bàn dân thiên hạ thấy họ cặp với nhau. Gọi điện tới trung tâm tâm thần, cái đó thì được, với điều kiện nói ngắn thôi. Rồi gặp riêng hai tuần một lần. Một ly whiskey hoặc vodka Absolut và phong cảnh ban đêm. Những lời tạm biệt khô không khốc.
♣ ♣ ♣Cũng trong tháng Mười một năm 1994 ấy, người ta phát hiện ra xác chết cháy sém một phần của Silvana Pérez Arjona ở một lô đất trống. Cô mười lăm tuổi, mảnh dẻ, da ngăm, cao mét sáu. Mái tóc đen của cô dài quá vai, mặc dù khi người ta phát hiện ra cô thì nửa mái tóc đã bị cháy rụi. Phát hiện xác là mấy phụ nữ sống ở quận Las Flores đến phơi quần áo ven lô đất, và chính họ đã gọi cứu thương. Xe cứu thương do một người trạc bốn lăm tuổi lái, phụ xế là một cậu không quá hai mươi chắc là con ông. Khi xe tới nơi, người đàn ông lớn tuổi hơn hỏi các phụ nữ đó và những người hiếu kỳ xúm xít đứng quanh rằng có ai quen biết người chết không. Vài người xúm lại phía trước cô, nhìn chăm chăm mặt cô rồi lắc đầu. Không ai biết cô. Vậy thì thưa các vị, nếu tôi là các vị tôi sẽ đi chỗ khác, nhân viên y tế lớn tuổi nói, vì cớm sẽ muốn thẩm vấn tất cả mọi người đấy. Ông không nói to, nhưng giọng ông vang khắp, thế là mọi người lục tục tản đi. Giờ thì có vẻ như chẳng còn ai trên lô đất, song hai nhân viên y tế mỉm cười vì họ biết người ta vẫn đang nấp đâu đó nhìn ra. Trong khi một trong hai người, cậu trẻ hơn, ngồi trong xe gọi bộ đàm cho cảnh sát, người lớn tuổi hơn thả bộ dọc mấy con phố bẩn thỉu của quận Las Flores đến một quầy bán taco mà chủ nhân có biết ông. Ông mua sáu suất carnita, ba suất có kem chua ba suất không, cả sáu đều cực cay, và hai lon Coca-Cola. Đoạn ông trả tiền và thong thả quay lại xe cứu thương, ở đó cậu trẻ nom giống con ông đang tựa người vào thanh cản sốc đọc truyện tranh. Khi cảnh sát đến, cả hai đã ăn xong và đang hút thuốc. Trong ba giờ đồng hồ cái xác nằm trên lô đất trống. Theo giám định pháp y cô gái đã bị hãm hiếp. Hai vết dao đâm thẳng vào tim là nguyên nhân tử vong. Sau đó kẻ giết người đã cố đốt xác phi tang, nhưng hình như hắn đã làm như mèo mửa hoặc ai đó đã bán cho hắn nước thay vì xăng hoặc là hắn đã hoảng quá. Ngày hôm sau người ta biết được cô gái đã chết tên là Silvana Pérez Arjona, công nhân một nhà máy ở khu công nghiệp General Sepúlveda, không xa nơi xác cô được phát hiện. Cho đến một năm trước đây Silvana vẫn sống với mẹ và bốn anh chị em, tất cả đều là công nhân tại các nhà máy khác nhau quanh thành phố. Cô là người duy nhất được đi học, tại trường trung học Profesor Emilio Cervantes, quận Lomas del Toro. Tuy nhiên, vì lý do kinh tế, cô phải thôi học và một trong các bà chị tìm cho cô chỗ làm ở Horizon W&E, tại đó cô gặp tay công nhân Carlos Llanos, ba mươi lăm tuổi, bắt đầu hẹn hò với anh ta và cuối cùng chuyển đến sống ở nhà anh ta, trên phố Prometeo. Theo bạn bè của Llanos, anh ta là người tốt tính, có uống rượu nhưng không say sưa bê tha, thì giờ rảnh thì đọc sách, điều này hơi không bình thường và khiến anh ta có vòng hào quang của một người đặc biệt. Theo mẹ của Silvana, chính điều này đã quyến rũ con gái bà, người chưa từng có bạn trai nếu không kể vài ba mối tình ngây thơ lúc còn đi học. Họ ở cùng nhau bảy tháng. Llanos đọc sách, phải, và đôi khi hai người ngồi trong phòng khách nhỏ nhà anh ta bàn luận về những gì họ đang đọc, song anh ta đọc thì ít uống thì nhiều và là một người cực kỳ ghen tuông và bất nhất khó lường. Những lần về thăm mẹ, đôi lúc Silvana thú nhận anh ta có đánh cô. Đôi khi hai người, hai mẹ con, ngồi ôm nhau khóc cả giờ, không bật đèn. Vụ bắt giữ Llanos diễn ra không mấy khó khăn và là vụ đầu tiên Lalo Cura tham gia. Hai xe cảnh sát Santa Teresa xịch đến, họ gọi cửa, Llanos mở cửa, họ chẳng nói chẳng rằng quật anh ta xuống sàn, còng tay anh ta đưa về đồn, ở đó người ta định buộc cho anh ta cả tội giết người phụ nữ vô danh trên phố Alondra hay ít nhất là người phụ nữ được phát hiện ở bãi rác mới của thành phố, nhưng không sao làm được, chính Silvana Pérez là chứng cứ ngoại phạm của anh ta, bởi vào những ngày xảy ra các vụ đó có người thấy anh ta đang đi cùng cô, lòng vòng quanh khu công viên đổ nát của quận Carranza nơi đang có lễ hội, thậm chí ngay cả họ hàng của Silvana cũng nhìn thấy anh ta đi cùng cô. Còn vào các buổi đêm thì, cho đến một tuần trước anh ta vẫn toàn làm ca đêm ở nhà máy, các đồng nghiệp có thể làm chứng cho anh ta. Về vụ giết Silvana thì anh ta nhận tội và chỉ thấy hối tiếc vì đã cố đốt xác cô. Bé Silvana của tôi hay lắm, anh ta nói, bé không đáng bị đối xử như thế.
♣ ♣ ♣Cũng vào quãng thời gian này trên đài truyền hình Sonora xuất hiện một nhà tiên tri tên là Florita Almada, nhưng những người tin theo bà, số này không nhiều lắm, thì gọi bà là La Santa - Bà Thánh. Florita Almada bảy mươi tuổi và chỉ mới đây thôi, đâu như từ mười năm trước, bà mới được phú cho thiên nhãn. Bà thấy được những thứ không ai thấy được. Bà nghe được những thứ không ai nghe được. Và bà biết cách tìm ra lời giải thích rành mạch cho tất cả những gì xảy ra với bà. Trước khi trở thành nhà tiên tri bà từng là nhà thảo dược, nghề đích thực của bà, hoặc ấy là bà nói vậy, bởi vì tiên tri có nghĩa là người nhìn thấy trước, nhưng bà đôi khi chẳng thấy gì, hình ảnh thì mờ, âm thanh thì nhiễu, tuồng như cái ăng ten đã nảy ra trong não bà không được lắp đặt đúng hoặc là bị bắn thủng lỗ chỗ hoặc là làm bằng giấy bạc và gió muốn bạt hướng nào thì cứ tha hồ bạt. Thành thử mặc dù tự nhận là nhà tiên tri và để cho các môn đồ gọi mình là nhà tiên tri song bà vẫn tin tưởng hơn vào cỏ hoa, vào ăn uống lành mạnh và cầu nguyện. Chẳng hạn, bà khuyên những ai huyết áp cao thôi đừng ăn trứng ăn pho mát và bánh mì trắng, vì các thức ăn ấy có lượng natri cao, mà natri thì hút nước và làm tăng tích nước trong cơ thể, do đó làm tăng huyết áp. Rõ như ban ngày, Florita Almada nói. Cho dù bạn thích ăn điểm tâm bằng món trứng chiên xốt cà chua Mexico hay trứng bác xốt cà chua Mexico đến mấy đi nữa, nhưng nếu đã bị huyết áp cao thì tốt nhất là thôi ăn trứng đi. Và nếu ai đã thôi trứng thì cũng có thể thôi thịt cá, và có thể quyết tâm chỉ ăn cơm với trái cây. Cơm và trái cây, món đó rất tốt cho sức khỏe, nhất là khi người ta đã qua tuổi bốn mươi. Bà cũng phản đối việc tiêu thụ quá nhiều chất béo. Theo bà, tổng lượng chất béo nạp vào cơ thể không bao giờ được vượt quá hai lăm phần trăm tổng năng lượng từ thức ăn. Lý tưởng nhất là lượng tiêu thụ chất béo nên ổn định trong khoảng từ mười lăm đến hai mươi phần trăm. Nhưng người có công ăn việc làm có thể tiêu thụ tới tám, chín mươi phần trăm chất béo, và nếu công việc của họ là kiểu ổn định thì lượng tiêu thụ chất béo có thể lên tới trăm phần trăm, thế thì tai họa, bà nói. Ngược lại, lượng tiêu thụ chất béo ở người thất nghiệp nằm trong khoảng từ ba đến bốn mươi phần trăm, như thế cũng là tai họa nốt, vì những người tội nghiệp ấy không chỉ thiếu ăn mà còn thiếu chất dinh dưỡng, nếu quý vị hiểu ý tôi, Florita Almada nói, quả thực thiếu ăn là tai họa mà thiếu chất dinh dưỡng cũng là tai họa chẳng kém, có lẽ tôi nói thế không rõ ý lắm, ý tôi là ăn bánh tortilla có ớt tốt cho sức khỏe hơn là ăn thịt ba chỉ chó hay thịt ba chỉ mèo hay thịt ba chỉ chuột, bà nói như có ý xin lỗi. Mặt khác, bà cũng chống lại các giáo phái, các lang băm và tất cả những kẻ vô liêm sỉ toàn phỉnh gạt đám dân nghèo. Bà cho rằng botanomancia, hay thuật nhìn cây cỏ đoán tương lai, là trò bịp bợm. Tuy nhiên bà vẫn biết thuật ấy, và có lần bà đã giảng giải cho một tay thầy thuốc hạng ba về ba bốn nhánh khác nhau của thuật tiên tri này, cụ thể là, botanoscopia, dựa trên hình dáng, chuyển động và phản ứng của cây cối, chính nó lại phân thành cromiomancia và licnomancia, nghiên cứu củ hành hoặc quả cây đâm chồi, và dendromancia, nhìn cây mà đoán, rồi filomancia, nghiên cứu lá cây, rồi xilomancia, vốn cũng là một phần của botanoscopia, tiên đoán dựa trên gỗ và nhánh cây, đẹp và nên thơ đấy, song nó liên quan đến chuyện ru ngủ một phần quá khứ cùng với dưỡng nuôi và xoa dịu hiện tại nhiều hơn là chuyện tiên đoán tương lai. Rồi đến botanomancia cleromántica, phân ra thành quiamobolía, dùng vài hạt đậu trắng và một hạt đậu đen, cùng với rabdomancia và palomancia, chuyên dùng các thanh gỗ. Các thuật này thì bà chẳng có lý do gì để chống lại nên cũng chẳng có gì để nói về chúng. Rồi thì có farmacología vegetal, tức là thuật sử dụng những loài cây gây ảo giác và cây chứa ankaloit, các thuật này bà cũng chẳng có gì chống lại để mà nói. Người ta muốn làm gì với cái đầu mình thì cứ làm thôi. Có những người thực hành tốt thuật đấy nhưng cũng có những người, nhất là đám thanh niên đã lười biếng còn đầy thói hư tật xấu, thì không. Bà chẳng nên phán rằng thế nào tốt thế nào không. Rồi đến botanomancia meteorológica, thuật này mới thật thú vị, chỉ có điều rất ít người, số này chỉ đếm trên đầu ngón tay, nắm vững được, đấy là thuật tiên đoán dựa trên quan sát phản ứng của các loài cây. Chẳng hạn: nếu hoa anh túc nâng cánh hoa lên thì thời tiết sẽ tốt. Chẳng hạn: nếu cây bạch dương bắt đầu rung rung thì tức là có điều bất ngờ sắp xảy ra. Chẳng hạn: nếu bông hoa nhỏ có cánh trắng và một tràng hoa nhỏ xíu màu vàng, tên là hoa pijulí, mà nghiêng đầu thì trời sẽ nóng. Chẳng hạn: nếu một loài hoa khác, cánh hơi vàng và đôi khi màu hồng, ở Sonora được gọi là hoa long não, tôi không biết tại sao, còn ở Sinaloa thì kêu là hoa chim ruồi bởi vì nhìn xa nó giống như con chim ruồi, đấy, nếu cái hoa ấy mà khép lại thì trời sẽ mưa. Cuối cùng ta có radiestesia, thuật này hồi đầu dùng một cây gậy gỗ phỉ còn ngày nay thay bằng quả lắc, về thuật này Florita Almada chẳng có gì để nói. Cái nào mình biết thì biết, cái nào chưa biết thì tốt nhất là học. Còn chừng nào chưa học thì đừng nói gì, trừ phi nhằm làm rõ hơn con đường học hỏi của mình. Chính cuộc đời bà, bà giải thích, là một quá trình học hỏi không ngừng. Mãi đến năm hai mươi tuổi - nói thế cho tròn - bà mới bắt đầu học đọc học viết. Bà sinh ở Nácori Grande và không được đi học như trẻ con bình thường bởi mẹ bà bị mù nên bà phải chăm sóc mẹ. Còn về anh chị em ruột, những người bà vẫn lưu giữ những hồi ức mơ hồ và thân ái, thì bà chẳng biết gì. Những cơn cuồng phong của cuộc đời đã khiến anh chị em bà tứ tán khắp mọi miền đất nước và có khi bây giờ họ đã nằm dưới mộ cả rồi. Thời thơ ấu của bà, dẫu có những gian khó tai ương điển hình cho một gia đình nhà nông, vẫn hạnh phúc. Tôi yêu đồng quê, bà nói, mặc dù bây giờ tôi thấy hơi khó chịu vì không còn quen với đám sâu bọ nữa. Cuộc sống ở Nácori Grande, tuy nhiều người chắc không tin, đôi khi có thể rất hấp dẫn. Dẫn đường cho bà mẹ mù cũng có thể thành niềm vui. Nuôi gà cũng có thể thành niềm vui. Giặt quần áo cũng có thể thành niềm vui. Nấu ăn cũng có thể thành niềm vui. Điều duy nhất khiến bà tiếc nuối là không được đi học. Thế rồi, vì những lý do không đáng nói ra ở đây, họ dời đến sống ở Villa Pesqueira, nơi mẹ bà qua đời còn bà thì, tám tháng sau đó, kết hôn với một người đàn ông bà hầu như chẳng biết gì, một người hay lam hay làm và khả kính, tôn trọng mọi người, lớn tuổi hơn bà khá nhiều, thực tế là khi hai người làm lễ ở nhà thờ thì ông ba mươi tám tuổi còn bà mới mười bảy, tức là ông lớn hơn bà những hăm mốt tuổi!, ông làm nghề buôn bán gia súc, chủ yếu là dê và cừu nhưng thỉnh thoảng cũng mua bán cả bò và lợn con, do hoàn cảnh công việc mà ông thường xuyên phải đi đây đi đó khắp các làng trong vùng, như San José de Batuc, San Pedro de la Cueva, Huépari, Tepache, Lampazos, pisaderos, Nácori Chico, Chorro và Napopa, men theo những con đường đất hay lối mòn do thú qua lại tạo thành hay mấy đường tắt lượn quanh những núi non khúc khuỷu giống như mê cung. Việc làm ăn khá khả quan. Đôi khi bà đi cùng ông trong những chuyến đi ấy, không nhiều, bởi người ta cho rằng một nhà buôn gia súc mà đi xa cùng một phụ nữ, nhất là với vợ ông ta, thì không phải phép, nhưng dù vậy thỉnh thoảng bà vẫn đi. Đó là một cơ hội hiếm hoi để bà nhìn thế giới. Để nhìn thấy những phong cảnh khác, những phong cảnh có vẻ như giống hệt, song nếu nhìn kỹ, với cặp mắt mở to, thì hóa ra vẫn khác nhiều so với phong cảnh ở Villa Pesqueira. Cứ sau trăm mét là thế giới lại đổi thay, Florita Almada nói. Nếu nói có những nơi chốn giống hệt như nhau thì thế là nói láo. Thế giới này như một cơn chấn động. Dĩ nhiên, bà cũng muốn có con cái, song tự nhiên (tự nhiên nói chung hoặc là bản tính tự nhiên của chồng bà, bà nói, cười to) không cho bà gánh cái trách nhiệm ấy. Cái thời gian đáng lẽ dành cho một em bé, bà dùng cho việc học. Ai dạy bà đọc? Trẻ con dạy tôi, Florita Almada nói, chẳng có thầy cô nào tốt hơn đâu. Bọn trẻ con mang theo sách tập đọc, đến nhà bà để được đãi bánh bột ngô. Đời là thế, ngay khi bà nghĩ rằng cơ hội được học hành hay được trở lại trường (chuyện này khó xảy ra, bởi vì ở Villa Pesqueira người ta nghĩ Trường Buổi Tối là tên một ổ điếm ở ngoại ô San José de Pimas) đã vĩnh viễn tan biến, thì bà lại học đọc học viết được mà hầu như chẳng gặp khó khăn gì. Từ đó trở đi bà đọc bất cứ thứ gì rơi vào tay mình. Bà ghi vào sổ tay những ấn tượng và ý nghĩ nảy sinh khi đọc. Bà đọc báo và tạp chí cũ, đọc các tờ rơi cổ động chính trị thi thoảng được đám thanh niên để ria mép lái xe tải phát cho dân. Bà đọc báo mới, đọc số sách ít ỏi bà tìm được và số sách chồng bà đã hình thành thói quen mang về sau mỗi lần đi vắng do bận buôn bán gia súc ở những làng xa, sách ấy đôi khi ông mua không phải vài cuốn mà hàng cân. Năm cân. Mười cân. Có lần ông mang về hai chục cân. Và bà không bỏ sót cuốn nào, bà đọc hết, và không một cuốn nào mà bà không từ đó rút ra được một bài học. Thỉnh thoảng bà đọc những tờ báo từ thủ đô, đôi khi bà đọc sách sử, đôi khi bà đọc sách về tôn giáo, đôi khi bà đọc những cuốn sách tục tĩu khiến bà đỏ mặt, ngồi một mình nơi bàn, các trang sách được chiếu sáng nhờ ánh đèn dầu dường như nhảy múa hoặc mang những hình thù ma quỷ, đôi khi bà đọc sách về kỹ thuật trồng nho hoặc xây lắp nhà tiền chế, đôi khi bà đọc tiểu thuyết kinh dị hoặc truyện ma, bất kỳ thứ văn bản nào được đấng thiêng liêng đặt vào tầm tay bà, và lần nào bà cũng học được gì đấy, đôi khi rất ít, nhưng luôn luôn còn lại gì đó, giống như một mảy vàng giữa núi rác, hay là, để chuốt cho tinh cái ẩn dụ này, Florita nói, giống như một con búp bê đã thất lạc rồi lại được tìm thấy trong núi rác chẳng biết của ai. Dù sao đi nữa, bà không phải người có giáo dục, ít nhất bà không trải qua cái người ta gọi là sự giáo dục kinh điển, bởi vậy bà mong được lượng thứ cho điều này, tuy nhiên bà không thấy có gì đáng phải xấu hổ, vì cái gì bị Chúa lấy đi từ chỗ này thì sẽ được Mẹ đồng trinh trả về ở chỗ khác, và một khi đã thế thì chỉ còn cách lấy làm vui với thế giới này thôi. Và năm tháng cứ qua như thế. Một ngày kia, chồng bà, do những điều kỳ bí vốn vẫn được một số người gọi là luật cân bằng, đâm ra mù. Cũng may bà đã có kinh nghiệm chăm sóc người khiếm thị nên những năm cuối đời của nhà buôn gia súc trôi qua êm ả, bởi vợ ông trông nom ông rất khéo léo và ân cần. Sau đó bà còn lại một mình, và khi ấy bà đã tầm bốn mươi tư tuổi. Bà không đi bước nữa, không phải vì không có người ngấp nghé, mà bởi bà thích ở một mình hơn. Việc bà làm là mua một khẩu súng lục 38 ly, bởi vì khẩu súng chồng bà để lại dùng không tiện lắm, hơn nữa đến lúc này bà đã tiếp quản nghề buôn bán gia súc của ông chồng. Nhưng cái khó nằm ở chỗ, bà giải thích, để mua và đặc biệt để bán súc vật thì cần phải có một sự nhạy cảm nhất định, một chút tập luyện nhất định, một thiên hướng mù quáng nhất định mà bà không sao có được. Theo chân đàn gia súc men theo những con đường mòn trên núi là chuyện rất thú vị, còn bán đấu giá chúng ngoài chợ hay ở lò sát sinh thì thật kinh khủng. Thế nên chẳng bao lâu bà bỏ nghề và tiếp tục đi đây đi đó, cùng con chó của ông chồng quá cố và khẩu súng của bà và đôi khi với đám gia súc của bà, chúng già đi theo bà, song lần này bà đi với tư cách người chữa bệnh, một trong số nhiều người như vậy ở bang Sonora đầy ơn phước, và trong các chuyến đi bà thu thập thảo mộc hoặc ghi lại những ý nghĩ của mình trong khi đàn gia súc gặm cỏ, như Benito Juárez đã làm hồi còn là cậu bé chăn cừu, ôi, Benito Juárez, con người mới tuyệt vời sao, chính trực làm sao, thông thái làm sao, lại còn là chàng trai hấp dẫn vô cùng nữa, về phần đời này của ông người ta chẳng nói gì nhiều, một phần bởi người ta không biết mấy, phần khác là do người Mexico hiểu rõ cứ hễ nhắc đến trẻ con là họ có xu hướng nói toàn chuyện tầm phào ba láp. Bà thì, xin nói rõ nếu ai chưa biết, có nhiều điều để nói về phần đời ấy của ông. Trong số hàng ngàn cuốn sách bà đã đọc, trong đó có sách về lịch sử Mexico, lịch sử Tây Ban Nha, lịch sử Colombia, lịch sử các tôn giáo, lịch sử các giáo hoàng ở Roma, những thành tựu của NASA, bà chỉ tình cờ đọc được nhõn mấy trang khắc họa một cách tuyệt đối trung thành, quá sức trung thành, những gì cậu bé Benito Juárez ắt đã cảm thấy, cảm thấy hơn là nghĩ, khi cậu dẫn đàn cừu đi tìm nơi ăn cỏ, đôi khi đi suốt mấy ngày mấy đêm, như lẽ thường. Trong cuốn sách bìa vàng đó mọi điều đều được trình bày sáng rõ đến mức đôi khi Florita Almada nghĩ tác giả ắt phải là bạn của Benito Juárez và cậu bé đã tin cậy kể tận tai người này mọi trải nghiệm thời thơ ấu. Nếu điều này là có thể. Nếu như có thể thông đạt cho người khác những gì ta cảm thấy khi đêm xuống những vì sao xuất hiện và ta chỉ có một mình giữa chốn mênh mông, và những sự thực của cuộc sống (của cuộc sống ban đêm) bắt đầu diễu qua từng cái một, chừng như đang tắt lịm dần hoặc như thể kẻ nào đó ở giữa đất trời đang tắt lịm dần hoặc chừng như có một căn bệnh lạ đang lưu chuyển trong máu mà tự chúng ta không biết. Người làm gì trên đó hở trăng, giữa bầu trời? cậu mục đồng hỏi trong một bài thơ. Người làm gì, hỡi vầng trăng im lặng? Người không mệt sao khi cứ phải lui tới mãi những con đường trên bầu trời? Cuộc đời của người giống như đời kẻ mục đồng, thức dậy cùng tia sáng đầu tiên đặng dẫn đàn gia súc ra bãi thả. Thế rồi, mệt mỏi, y nghỉ ngơi khi tối đến, không mong đợi gì hơn. Đời kẻ mục đồng có ích gì cho y, và ích gì cho người cái cuộc đời của người? Nói tôi nghe, người mục đồng tự nhủ, Florita Almada nói bằng giọng nồng nàn xúc cảm, nó đi về đâu vậy, sự lang thang ngắn ngủi của tôi, và hành trình bất tử của người? Con người sinh ra là khổ đau và đã sinh ra tức là có nguy cơ chết đi, bài thơ nói. Rồi nữa: Nhưng sao lại đưa ra ánh sáng, sao lại giữ cho sống kẻ mà ta cần phải an ủi bởi cái sự rằng y đã sinh ra? Rồi nữa: Nếu sống là đau khổ thì sao cứ chịu đựng mãi làm gì? Rồi nữa: Vầng trăng tinh khiết này, đấy chính là tình trạng chết. Song người không bao giờ chết, và có thể những gì tôi nói chẳng đáng gì đối với người. Rồi nữa, và ngược lại: Người, kẻ mãi mãi lang thang đơn độc, trầm tư đến vậy, có thể là người hiểu rõ sự sống này trên trần thế, nỗi thống khổ và ưu phiền của chúng tôi, có thể người biết rõ cái chết này là gì, sự tái nhợt cuối cùng này của khuôn mặt, rời xa đất, bỏ lại tất cả những gì thân thuộc thương yêu. Rồi nữa: bầu không bất tận làm gì, sự trong xanh yên bình sâu thẳm bất tận làm gì? Nỗi cô đơn mênh mông này có ý nghĩa gì? Và tôi là ai? Rồi nữa: tôi chỉ biết và chỉ cảm thấy rằng từ những vòng quay vĩnh cửu và từ xác thân dễ hoại của tôi người ta hẳn sẽ rút ra được cho mình cái gì đó tốt lành chân phúc. Rồi nữa: Nhưng đời tôi lại chẳng ra gì. Rồi nữa: già, tóc bạc, ốm đau, chân đất và gần như trần trụi, mang gánh nặng trên vai, lên núi xuống thung, băng qua đá nhọn, qua bãi cát qua vùng chăn thả, giữa bão giông, khi nóng như thiêu đốt rồi sau đó là khi đông giá, chạy, chạy nhanh nữa, qua sông, qua đầm lầy, ngã xuống, vùng dậy rồi lại hùng hục chạy, không ngừng nghỉ, tả tơi, đẫm máu, cuối cùng cũng đến được nơi mà con đường và bao nhiêu khổ cực gắng công cuối cùng đã dẫn tới: vực thẳm khôn cùng, khủng khiếp một khi ta đã rơi vào thì tất cả sẽ bị lãng quên. Rồi nữa: ôi vầng trăng trinh bạch, đời người là thế đó. Rồi nữa: ôi bầy gia súc đang ngơi nghỉ, hẳn chúng bay không biết gì về nỗi cùng khốn của mình, ôi sao mà ta ghen với chúng bay! Không phải chỉ vì bay đi đó đi đây như thể hoàn toàn thanh thản vô lo và mọi thống khổ, mọi đau đớn, mọi khiếp sợ điếng hồn bay đều thật chóng quên, mà còn bởi bay không bao giờ biết chán. Rồi nữa: Khi bay nằm dưới bóng râm, trên cỏ, bay thật bình an hạnh phúc và gần như suốt cả năm bay cứ thế thôi, không hề biết chán là gì. Rồi nữa: ta cũng ngồi trên cỏ, dưới bóng râm, nhưng một nỗi âu lo chiếm lấy tâm ta, như có một cây kim chọc vào ta. Rồi nữa: ấy vậy, nhưng ta chẳng mong muốn gì và cho đến giờ không có lý do gì để than van. Rồi đến chỗ này, sau khi thở dài sườn sượt, Florita Almada nói rằng có thể rút ra một số kết luận: 1) rằng những ý nghĩ chiếm lấy tâm trí một kẻ mục đồng có thể dễ dàng vượt quá tầm kiểm soát bởi đó là bản tính con người. 2) rằng đương đầu với sự buồn chán là một hành vi đòi hỏi chí can trường và Benito Juárez đã làm thế và bà cũng đã làm thế và cả hai khi mặt đối mặt với sự buồn chán đều đã tận mắt thấy những điều kinh khủng mà bà không muốn nhắc lại. 3) rằng bài thơ ấy, giờ bà nhớ lại, là về một chàng mục đồng châu Á, chứ không phải một mục đồng Mexico, nhưng có vậy thì cũng chẳng khác gì, bởi mục đồng ở đâu mà chẳng như nhau. 4) rằng nếu đúng là rốt cuộc mọi khổ cực gắng công đều dẫn tới một vực sâu thăm thẳm thì trước hết bà có hai điều muốn khuyên, một là đừng lừa dối người, hai là đối xử tốt với người. Ngoài chuyện đó ra thì còn có thể bàn tiếp. Và bà cứ làm thế, nghe và nói, cho đến cái ngày Reinaldo qua nhà xin bà tư vấn về một người yêu đã bỏ anh, thế rồi anh ra khỏi nhà bà mang theo một thực đơn ăn kiêng và một lô thảo dược an thần cùng một lô thảo dược thơm khác mà anh giắt vào bốn góc nhà, chúng cho anh cái mùi vừa của nhà thờ vừa của tàu vũ trụ, Reinaldo nói với bạn bè như vậy khi họ đến nhà chơi, mùi mới thánh làm sao chứ, nó làm mình thư giãn đồng thời vui vẻ trong lòng, đến nỗi nó khiến mình đâm muốn nghe nhạc cổ điển, các cậu có thấy vậy không? Và bạn bè Reinaldo bắt đầu nài anh đưa họ đến gặp Florita Almada, ôi Reinaldo à, tôi cần Florita Almada, đầu tiên là một người sau đó là người khác rồi người khác nữa, như cả một dây những kẻ ăn năn đội áo trùm đầu màu tía hay màu đỏ son tuyệt đẹp hay kẻ sọc, Reinaldo bèn cân nhắc thiệt hơn, thôi được rồi, các cậu, tớ đồng ý, tớ sẽ giới thiệu các cậu với Florita, và một tối thứ Bảy nọ, khi Florita đến, căn hộ của Reinaldo được trang hoàng rình rang cho dịp này đến nỗi người ta để cả một hộp piñata* ngoài ban công, bà không có vẻ khó chịu hoặc không hài lòng, mà chỉ hỏi sao các cậu lại cất công đến thế vì tôi, đãi tôi mấy món tuyệt vời này, ai nấu vậy, tôi muốn biết để còn khen người ta, bánh này ngon quá, tôi chưa bao giờ được ăn cái bánh nào như thế, cái này là dứa phải không? Nước ép trái cây tươi, bàn ăn bày biện không chê vào đâu được, các cậu trai sao mà dễ thương đến thế, sao mà chu đáo quá chừng, xem kìa, thậm chí còn mang quà đến cho tôi nữa, dù hôm nay có phải sinh nhật tôi đâu, thế rồi bà đi vào phòng ngủ của Reinaldo và các chàng trai lần lượt theo vào để trút hết nỗi lòng mình, và ai bước vào nặng trĩu sầu lo thì khi bước ra đều tràn trề hy vọng, này Reinaldo, cậu kiếm đâu ra bà ấy thế, bà ấy đúng là kho báu, bà ấy là vị thánh, tôi bật khóc là bà khóc theo tôi, tôi không nói được nên lời thế là bà đoán ra luôn tôi mất ăn mất ngủ vì chuyện gì, bà khuyên tôi thử dùng glicôxit sunphua, người ta nói thứ ấy kích thích biểu mô thận và lợi tiểu, bảo tôi nên thử chữa bằng thủy liệu pháp, tôi thấy bà đổ mồ hôi ra máu, tôi thấy trán bà đính đầy hồng ngọc, bà ru tôi trên ngực bà và hát ru tôi ngủ và khi thức dậy tôi cảm thấy như mình vừa tắm hơi ra, Bà Thánh thấu hiểu những bất hạnh của Hermosillo hơn bất kỳ ai, Bà Thánh cảm thông với những ai bị tổn thương, với trẻ con bị lạm dụng và nhạy cảm, với những người bị hãm hiếp và nhục mạ, với những ai là bung xung cho người ta cười cợt trêu đùa, ai bà cũng cho một lời âu yếm, một lời khuyên thiết thực, những kẻ khác người cảm thấy mình như pa khi bà nói chuyện với họ, kẻ ngu ngơ thấy mình mẫn tuệ, người béo bớt gầy, người bệnh AIDS mỉm cười. Thế cho nên chẳng mất mấy năm Florita Almada, người ai cũng quý yêu, đã được lên truyền hình. Song khi Reinaldo mời bà lần đầu bà bảo không, bà chẳng quan tâm, bà không có thì giờ, ngộ nhỡ có người cắc cớ hỏi bà kiếm đâu ra tiền, mà bà thì chưa sẵn sàng nộp thuế, hoàn toàn chưa!, tốt nhất để hôm khác đi, bà chẳng là ai cả. Nhưng mấy tháng sau, khi Reinaldo thôi không nài nữa, chính bà lại gọi điện bảo anh bà muốn có mặt trong show truyền hình ấy bởi bà có một thông điệp muốn đưa ra cho mọi người. Reinaldo muốn biết đó là thông điệp gì thì bà liền nói gì đó về những linh thị, về trăng, những bức tranh trên cát, những thứ bà đọc ở nhà, dưới bếp, ngồi nơi bàn bếp sau khi khách khứa đã về, tờ báo, các tờ báo, những thứ bà đọc, những cái bóng quan sát bà từ bên kia cửa sổ, mặc dù đó không phải những cái bóng, vì thế nên không phải chúng đang nhìn, đúng ra đó là đêm, đôi khi đêm có vẻ như bị ấm đầu, bà cứ nói theo kiểu đó khiến cho Reinaldo chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhưng bởi thực lòng yêu quý bà nên anh vẫn tìm được cho bà một suất trong chương trình kế của anh. Studio truyền hình nằm ở Hermosillo và đôi khi tín hiệu ở Santa Teresa cũng mạnh song lúc khác thì lại lẫn đầy những hình ảnh ma quái cùng với sương mù và tạp âm nền. Lần đầu Florita Almada lên sóng, tín hiệu tồi đến nỗi ở Santa Teresa hầu như chẳng ai xem được bà, mặc dù Một giờ với Reinaldo là một trong các show được nhiều người ưa thích nhất ở Sonora. Người ta lên chương trình cho bà xuất hiện sau một người nói giọng bụng ở Guaymas tới, y là một tay tự học từng thành danh ở thủ đô, ở Acapulco, Tijuana và San Diego, và tin rằng con rối của anh ta là một vật sống. Vừa mới xuất hiện là y nói vậy liền. Con rối chó chết của tôi, nó sống đấy. Mấy lần nó toan trốn khỏi tay tôi. Mấy lần nó định giết tôi. Nhưng hai tay nó nhỏ quá không cầm súng cầm dao được, bóp cổ tôi lại càng không. Khi Reinaldo nhìn thẳng vào ống kính mà nở cái nụ cười ma lanh độc nhất vô nhị của mình, nói rằng trong các bộ phim về những tay nói giọng bụng luôn luôn xảy ra cùng một số chuyện, nói cách khác là, chuyện con rối nổi loạn chống lại chủ, thì tay nói giọng bụng ở Guaymas, bằng thứ giọng ngắc ngứ của kẻ bị người ta hiểu lầm vô cùng nhiều, liền đáp rằng mấy chuyện đó y biết rõ, y xem mấy phim ấy rồi, có khi còn xem nhiều hơn cả Reinaldo hay bất cứ ai ở khán phòng đây, và y chỉ nghĩ được mỗi một điều rằng sở dĩ có nhiều phim đến thế là vì những chuyện nổi loạn như vậy vốn phổ biến hơn nhiều so với y nghĩ hồi đầu, đến nỗi bây giờ nó lan tràn ra khắp thế giới. Trong thâm tâm, tất cả những người nói giọng bụng chúng tôi, cách này hay cách khác, đều biết rằng một khi những thằng chó chết kia đạt đến một cấp độ sinh khí nào đó, chúng liền sống thật. Chúng hút lấy sự sống từ các buổi diễn. Chúng hút lấy sự sống từ mao quản của người nói giọng bụng. Chúng hút lấy sự sống từ tiếng vỗ tay. Và nhất là từ sự cả tin của khán giả! Có đúng vậy không, Andresito? Đúng, thưa ngài. Mày ngoan hay thỉnh thoảng mày là một thằng oắt con độc ác khốn nạn, hử Andresito? Ngoan, ngoan cực, ngoan ơi là ngoan. Và mày chưa bao giờ tìm cách giết tao chứ hả, Andresito? Chưa bao giờ, chưa bao giờ, chưa bao giờ! Hóa ra là Florita Almada rất bị ấn tượng trước cái vẻ ngây thơ của thằng rối gỗ và câu chuyện của tay nói giọng bụng, bà đâm khoái y ngay lập tức, và khi đến lượt bà thì việc đầu tiên bà làm là tặng cho y đôi lời khích lệ, dù có những lời nhắc khéo của Reinaldo, anh này mỉm cười nháy mắt với bà như muốn nói thằng cha nói giọng bụng hơi bị ấm đầu, tốt nhất bà lờ y đi đừng để ý làm gì. Nhưng Florita không lờ y đi, bà hỏi han sức khỏe y, bà hỏi mỗi đêm y ngủ mấy tiếng, mỗi ngày y ăn mấy bữa và ăn ở đâu, và tuy các câu trả lời của nghệ sĩ nói giọng bụng hầu hết mang ý châm biếm, nói với khán giả để chờ tiếng vỗ tay hoặc chút cảm thông chóng qua, song Bà Thánh cũng có được thừa đủ thông tin đặng mà khuyến cáo (khá là sốt sắng) rằng y nên đến gặp một nhà châm cứu có đôi hiểu biết về thuật não châm, một kỹ thuật tuyệt hảo nhằm chữa các chứng loạn thần kinh xuất phát từ hệ thần kinh trung ương. Đoạn bà liếc sang Reinaldo, anh này ngồi trên ghế nhấp nha nhấp nhổm, và bà bắt đầu nói về linh thị mới nhất của bà. Bà nói bà đã thấy những người phụ nữ chết và những cô gái chết. Một sa mạc. Một ốc đảo. Như trong mấy bộ phim về Binh đoàn Lê dương Pháp ở hải ngoại và người Ả Rập. Một thành phố. Bà nói là ở thành phố đó người ta giết những cô gái nhỏ. Trong khi nói, vừa cố nhớ lại linh thị của mình một cách chính xác nhất, bà nhận ra mình sắp sửa rơi vào trạng thái xuất thần và thế là bà cứng đờ người lại, bởi vì đôi khi, không phải thường xuyên, những cơn xuất thần của bà có thể dữ dội và kết cuộc là người đồng bò lê giữa đất, mà bà không muốn chuyện ấy xảy ra vì đây là lần đầu tiên bà lên tivi. Nhưng cơn xuất thần, cơn hôn ám, nó đang diễn tiến, bà cảm thấy nó trong ngực bà và trong dòng máu chảy qua bà, chẳng cách nào ngăn nó lại được dù bà căng ra chống chọi dù bà vã mồ hôi và mỉm cười với Reinaldo, anh này hỏi bà có thấy khỏe không, Florita, bà có cần trợ lý của anh đem cho bà một ly nước không, liệu ánh đèn sân khấu và cái nóng có làm bà thấy khó ở không. Bà sợ không dám nói, bởi vì đôi khi thứ đầu tiên bị hồn nhập là lưỡi của bà. Và dẫu có muốn, vì làm thế sẽ nhẹ lòng lắm, bà vẫn sợ không dám nhắm mắt, bởi vì chính khi nhắm mắt lại bà sẽ nhìn thấy những gì mà cái vong linh đang nhập vào bà nhìn thấy, cho nên Florita cứ mở mắt thao láo còn miệng thì ngậm chặt (mặc dù cong lên thành một nụ cười dễ chịu và bí ẩn), quan sát nghệ sĩ nói giọng bụng, y cứ nhìn qua nhìn lại từ bà sang con rối của y, tuồng như y chả hiểu chuyện gì đang xảy ra song y ngửi được mùi nguy hiểm, khoảnh khắc bừng ngộ, cái khoảnh khắc không mong đợi và sau đó không hiểu nổi, thứ bừng ngộ vụt lóe lên và chỉ để lại cho ta một thứ duy nhất chắc chắn là sự rỗng không, một cái rỗng không nhanh chóng chuội thoát khỏi ngay cả cái từ mang chứa nó. Và nghệ sĩ nói giọng bụng biết cái này nguy hiểm. Nguy hiểm nhất là cho những người như y, quá nhạy cảm, mang tính khí nghệ sĩ, các vết thương vẫn còn há miệng. Và khi Florita đã chán nhìn nghệ sĩ nói giọng bụng rồi bà nhìn cả Reinaldo, và anh này bảo bà: đừng sợ, Florita, đừng cả thẹn, cứ coi cái show này như là nhà bà, chỉ là ở xa nhà bà thôi. Và bà cũng liếc nhìn, mặc dù ít hơn, về phía cử tọa, ở đấy có vài người bạn của bà ngồi, đợi nghe bà có gì để nói. Tội nghiệp, bà nghĩ, chắc họ đang thấy thương cho mình lắm. Và rồi bà không cưỡng nổi nữa mà rơi vào trạng thái xuất thần. Bà nhắm mắt. Bà mở miệng. Lưỡi bà bắt đầu cử động. Bà nhắc lại điều bà đã nói: một sa mạc lớn, một thành phố lớn, ở phía Bắc bang chúng ta, những cô gái bị giết, những phụ nữ bị giết. Thành phố nào? bà tự hỏi. Nào, thành phố nào vậy? Mình phải biết tên cái thành phố địa ngục này. Bà tập trung trong mấy giây. Nó ở ngay trên đầu lưỡi mình. Tôi không cấm đoán bản thân đâu, thưa quý bà quý cô, những lúc như thế này lại càng không. Nó là Santa Teresa! Nó là Santa Teresa! Giờ tôi thấy rõ rồi. Phụ nữ và các cô gái trẻ đang bị giết ở đó. Người ta đang giết những đứa con gái của tôi ở đó! Con gái của tôi! Con gái của tôi! bà vừa thét vừa hất một cái khăn quàng tưởng tượng lên trên đầu và Reinaldo thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc cột sống từ trên xuống như là xuống thang máy, cũng có thể đi lên, hoặc cả hai cùng một lúc. Cảnh sát chả làm gì hết, sau đó vài giây bà nói, bằng một giọng khác, trầm hơn và nam tính hơn, lũ cảnh sát khốn nạn chả làm gì hết, chúng chỉ nhìn, nhưng nhìn cái gì? chúng nhìn cái gì? Đến đây Reinaldo ra sức kêu gọi bà hãy bình tĩnh lại và tìm cách buộc bà thôi nói, nhưng không được. Tránh xa tôi ra, đồ bợ đỡ, Florita nói. Phải báo cho thống đốc bang biết, bà nói bằng giọng khản đặc. Đây không phải chuyện đùa. José Andrés Briceno phải nghe được chuyện này, ông ấy phải biết người ta đang làm gì với phụ nữ thành Santa Teresa tươi đẹp. Đẹp và cần cù lao động. Sự im lặng này cần phải bị phá vỡ, thưa các bạn. José Andrés Briceho là người tốt, người thông tuệ, ông ấy sẽ không cho phép ngần ấy kẻ giết người cứ nhởn nhơ không ai trừng phạt. Sự vô cảm khủng khiếp nhường ấy và bóng tối khủng khiếp nhường ấy. Thế rồi, bằng giọng một bé gái, bà nói: một số người bị bắt đưa đi trên những chiếc xe màu đen, nhưng người ta giết họ khắp nơi. Đoạn bà nói, bằng giọng bình thường: chẳng lẽ người ta không thể ít nhất thì cũng để các cô trinh nữ được yên hay sao? Một thoáng sau bà nhảy phắt ra khỏi ghế, hình ảnh ấy được các máy quay của Studio 1 ở Đài truyền hình Sonora thu trọn vẹn, đoạn bà sụm xuống sàn như bị đạn tiện ngang. Reinaldo và nghệ sĩ nói giọng bụng lật đật tới giúp bà, nhưng khi họ cố đỡ bà dậy, mỗi người quàng một tay, Florita gầm lên (cả đời chưa bao giờ Reinaldo thấy bà như vậy, một cơn cuồng nộ ghê gớm): đừng đụng vào tôi, lũ côn đồ máu lạnh! Đừng bận tâm tới tôi! Các người không hiểu tôi vừa nói gì sao? Đoạn bà đứng dậy, quay về phía cử tọa, lại gần Reinaldo hỏi chuyện gì vừa xảy ra vậy, và một lát sau bà xin lỗi, nhìn thẳng vào ống kính.
♣ ♣ ♣Vào khoảng thời gian này Lalo Cura tìm thấy vài cuốn sách trong đồn cảnh sát, những cuốn sách chẳng ma nào đọc dường như số trời đã định là làm đồ ăn cho chuột, để trên mấy cái kệ đầy những báo cáo và hồ sơ bị lãng quên. Cậu đem sách về nhà. Có tám cuốn và lúc đầu, để không gây rắc rối, cậu chỉ lấy ba: Kỹ thuật dành cho huấn luyện viên cảnh sát của John C. Klotter, Người chỉ điểm trong nghề điều tra cảnh sát của Malachi L. Hamey và John C. Cross, Các phương pháp điều tra tội phạm hiện đại của Harry Söderman và John O’Connell. Một chiều nọ, khi cậu cho Epifanio biết cậu đã làm gì thì Epifanio liền nói đó là sách gửi từ thủ đô hoặc Hermosillo và không ai đọc. Thế là cậu đem luôn năm cuốn còn lại về nhà. Cuốn cậu thích nhất (cũng là cuốn cậu đọc đầu tiên) là Các phương pháp điều tra tội phạm hiện đại. Tuy nhan đề là thế nhưng sách viết lâu rồi. Ấn bản đầu tiên ở Mexico là từ năm 1965. Bản cậu đang có là tái bản lần thứ chín, năm 1992. Trên thực tế, trong lời bạt cho ấn bản thứ tư được in lại trong bản này, Harry Söderman than thở rằng cái chết của người bạn hiền, chánh thanh tra John O’Connell quá cố, đã dồn toàn bộ gánh nặng sửa chữa bản thảo lên vai ông. Và ông nói tiếp: trong quá trình hiệu đính [cuốn sách này] tôi nhớ lại mà vô cùng nuối tiếc niềm cảm hứng, kinh nghiệm phong phú và sự hợp tác quý báu mà thanh tra O’Connell quá cố đã đem lại. Có lẽ, Lalo Cura nghĩ trong khi đọc cuốn sách dưới ánh sáng tù mù của bóng đèn độc nhất trong căn hộ lúc đêm khuya hoặc trong những tia nắng đầu tiên rọi qua cửa sổ mở, rằng chính ông Söderman này cũng đã chết một thời gian rồi mà cậu chẳng biết. Nhưng điều đó không quan trọng, ngược lại, chính sự thiếu chắc chắn càng thêm thúc đẩy cậu đọc. Cậu đọc và thỉnh thoảng bật cười trước những câu ông người Thụy Điển và ông người Mỹ nói c