← Quay lại trang sách

PHẦN BỐN (B) PHẦN VỀ CÁC TỘI ÁC

Sau khi khóa cửa hàng, thằng nhóc trèo lên một chiếc xe máy Nhật rồi đảo một vòng các phố khu trung tâm, thong thả, làm như nó đang chờ gặp ai đấy, cho đến khi tới phố Universidad thì nó tăng tốc hướng về phía quận Veracruz. Nó dừng trước một căn nhà hai tầng rồi lại khóa xe. Mẹ nó chờ nó đã được mười phút, đồ ăn đã sẵn sàng. Thằng nhóc hôn bà rồi mở tivi. Bà mẹ vào bếp. Bà cởi tạp dề rồi cầm lên một cái ví giả da. Bà hôn thằng nhóc rồi ra khỏi nhà. Mẹ về ngay thôi, bà nói. Thằng nhóc định hỏi bà đi đâu nhưng rốt cuộc chẳng nói gì. Từ một trong các phòng vẳng ra tiếng trẻ con khóc. Thằng nhóc ban đầu không để ý mà cứ xem tivi, nhưng khi tiếng khóc to lên thì nó chịu thua, vào trong phòng bế ra một đứa bé chừng vài tháng tuổi. Đứa bé trắng trẻo mũm mĩm, hoàn toàn trái ngược với thằng anh. Thằng nhóc cho đứa bé ngồi lên đầu gối rồi tiếp tục ăn. Tivi đang chiếu thời sự. Nó thấy một nhóm da đen đang chạy qua các con phố một thành phố Mỹ, một người đang nói về sao Hỏa, một nhóm phụ nữ sải bước từ dưới biển lên và cười rộ trước ống kính. Nó dùng điều khiển từ xa chuyển kênh. Một cặp choai choai đang đấm bốc. Nó lại chuyển kênh, vì nó không thích quyền Anh. Mẹ nó cứ như bốc hơi rồi, nhưng đứa bé đã thôi khóc và thằng nhóc không thấy phiền vì phải trông em. Chuông cửa reo. Thằng nhóc vẫn còn thì giờ chuyển kênh - một bộ phim dài tập - rồi mới đứng dậy, ôm theo đứa bé ra mở cửa. Ra là mày sống ở đây, Epifanio nói. Vâng, thằng nhóc nói. Sau lưng Epifanio là một tay cớm, một tay cớm lùn, mặc dù y vẫn cao hơn thằng nhóc, và y ngồi vào ghế bành chẳng đợi mời. Mày đang ăn tối à? Epifanio hỏi. Vâng, thằng nhóc nói. Cứ ăn đi, cứ ăn đi, Epifanio nói trong khi đảo vào hết phòng nọ đến phòng kia, vào rồi lại ra ngay, cứ như chỉ cần liếc một cái là anh có thể săm soi mọi ngóc ngách trong nhà. Tên mày là gì? Epifanio hỏi. Juan Pablo Castanón, thằng nhóc nói. Tốt, Juan Pablo, trước hết cứ ngồi ăn tiếp đi, Epifanio nói. Vâng, thưa ông, thằng nhóc nói. Và đừng có hoảng lên kẻo lại làm rơi thằng bé, Epifanio nói. Tay cảnh sát kia mỉm cười.

♣ ♣ ♣

Một giờ sau họ ra về và Epifanio hiểu rõ tình hình hơn nhiều. Klaus Haas là người Đức nhưng đã nhập quốc tịch Mỹ. Gã có hai cửa hàng ở Santa Teresa, bán đủ thứ từ máy nghe nhạc Walkman tới máy vi tính, và gã có một cửa hàng tương tự ở Tijuana, cho nên mỗi tháng gã phải tới đó một lần để kiểm tra sổ sách, trả lương nhân viên và bổ sung hàng dự trữ. Gã còn sang Mỹ hai tháng một lần, tuy không phải vào ngày cố định hay theo lệ, trừ có một điểm là không lần nào gã đi quá ba ngày. Gã từng sống một thời gian ở Denver nhưng đã bỏ đi vì rắc rối với phụ nữ. Gã thích phụ nữ, nhưng theo mọi người biết thì gã chưa kết hôn lần nào và cũng không có bạn gái. Gã thường đến các quán bar và nhà thổ ở khu trung tâm, là chỗ bạn bè với chủ vài nơi trong số ấy, vốn từng được gã lắp đặt camera an ninh hoặc phần mềm kế toán. Ít nhất có một trường hợp là thằng nhóc biết chắc chắn, vì chính nó là người lập trình. Trên tư cách ông chủ thì Haas công bằng và hợp lý, trả lương không tệ, dù đôi khi gã vô cớ nổi khùng và gặp ai đánh nấy. Thằng nhóc chưa bị đánh bao giờ, nhưng nó đã bị mắng mấy lần vì đi làm muộn. Vậy Haas đã đánh ai? Một thư ký, thằng nhóc nói. Khi được hỏi có phải cô thư ký bị đánh là cô đang làm không, thằng nhóc bảo không, là cô trước kia, cô ấy thì nó không biết. Vậy sao mày biết cô ta bị đánh? Vì mấy nhân viên lão làng nhất nói thế, mấy người làm ở kho, nơi tay tóc vàng trữ một phần hàng của gã. Tên tất cả các nhân viên này đều được ghi lại hẳn hoi. Cuối cùng Epifanio đưa ảnh Estrella Ruiz Sandoval cho thằng nhóc xem. Có thấy cô này tới cửa hàng không? Thằng nhóc nhìn ảnh rồi bảo có, mặt cô này có vẻ quen quen.

♣ ♣ ♣

Lần kế tiếp Epifanio đến gặp Klaus Haas thì đã gần nửa đêm. Anh bấm chuông và phải đợi hồi lâu mới có người ra mở cửa, tuy trong nhà vẫn đang sáng đèn. Căn nhà nằm ở quận Cerezal, một khu trung lưu gồm những nhà một đến hai tầng, không phải nhà nào cũng mới, ở đó người ta có thể đi bộ mua bánh mì hay sữa dọc những vỉa hè yên tĩnh trồng cây, tách biệt khỏi tiếng ồn của quận Madero cách đấy không xa, và xa hẳn cái đinh tai nhức óc của khu trung tâm. Chính Haas mở cửa. Gã mặc sơ mi trắng bỏ ngoài quần, và thoạt tiên gã không nhận ra hoặc làm bộ không nhận ra anh. Epifanio chìa thẻ cảnh sát ra, tuồng như họ đang đùa với nhau, rồi hỏi hắn có nhớ anh không. Haas hỏi anh muốn gì. Tôi vào được không? Epifanio hỏi. Phòng khách rất đẹp, bày các ghế bành và một cái sofa to màu trắng. Haas lấy một chai whiskey từ trong tủ rượu rồi tự rót cho mình một ly. Gã hỏi anh có muốn uống không. Epifanio lắc đầu. Tôi đang làm nhiệm vụ, anh nói. Hasas lắc đầu kèm một tiếng cười lạ. Nó nghe như haaa, hoặc aaaa, hoặc cười khịt, nhưng chỉ một lần độc nhất. Epifanio ngồi xuống một cái ghế bành rồi hỏi liệu Haas có bằng chứng ngoại phạm vững chắc vào hôm Estrella Ruiz Sandoval bị giết không. Haas nhìn anh từ đầu xuống chân rồi sau vài giây mới nói nhiều khi gã còn không nhớ đêm qua mình đã làm gì. Mặt gã đỏ dừ lên và lông mày gã nom trắng hơn bình thường, tuồng như gã đang phải cố sức tự chủ. Tôi có hai nhân chứng khẳng định đã thấy anh ở cùng nạn nhân, Epifanio nói. Ai? Haas hỏi. Epifanio không trả lời. Anh nhìn quanh phòng khách rồi gật gù. Mấy thứ này chắc tốn bộn nhỉ, anh nói. Tôi làm ăn chăm chỉ và kiếm cũng khá, Haas nói. Cho tôi xem đi, Epifanio nói. Xem cái gì? Haas hỏi. Cái nhà, Epifanio nói. Đừng có bỡn với tôi, anh bạn, Haas nói, nếu anh muốn khám nhà tôi thì đem trát tới đây. Trước khi ra về Epifanio nói: tôi tin là anh đã giết cô gái đó. Cô ấy và ai mà biết còn bao nhiêu người nữa. Đừng có bỡn với tôi, Haas nói. Gặp sau nhá, Epifanio nói, rồi chìa tay. Đừng có bỡn với tôi, Haas nói. Anh gan đấy, Epifanio nói trên ngưỡng cửa. Vì Chúa, anh bạn, vì Chúa, đừng có bỡn với tôi, để tôi yên đi, Haas nói.

♣ ♣ ♣

Nhờ một người bạn thuộc lực lượng cảnh sát El Adobe, Epifanio lấy được hồ sơ của cảnh sát về Klaus Haas. Nhờ vậy anh biết được rằng Haas chưa bao giờ sống ở Denver mà là ở Tampa, Horida, ở đó gã từng bị buộc tội mưu toan hãm hiếp một phụ nữ tên Laurie Enciso. Gã bị giam một tháng rồi sau đó Laurie Enciso bãi nại nên gã được thả. Gã cũng từng bị buộc tội phô dâm và có hành vi thô tục. Khi Epifanio hỏi “hành vi thô tục” nghĩa là cái quái gì vậy thì mấy tay người Mẽo trả lời rằng về cơ bản có nghĩa là sờ soạng, gạ gẫm tục tĩu, và trường hợp thứ ba là kết hợp của hai thứ trên. Ở Tampa Haas cũng bị phạt mấy lần vì tội bức dâm gái điếm, chẳng có vụ nào quá nghiêm trọng. Gã sinh năm 1955 ở Bielefeld, thuộc Tây Đức cũ, di cư sang Mỹ năm 1980. Năm 1990 gã quyết định đổi đất nước lần nữa, lần này là với tư cách công dân Mỹ. Đến sống ở Mexico, tại phía Bắc bang Sonora, rõ ràng là một lựa chọn may mắn, bởi chỉ trong một thời gian ngắn gã đã mở được cửa hàng thứ hai ở Santa Teresa, khách hàng tăng đều, và một cửa hàng nữa ở Tijuana dường như làm ăn cũng khá. Một đêm, đi cùng hai cảnh sát Santa Teresa và một thanh tra, Epifanio đến chỗ cửa hàng của Haas trong khu trung tâm (cửa hàng kia thì ở quận Centeno). Cửa hàng này lớn hơn anh nghĩ nhiều. Mấy phòng phía sau đầy nghẹt những thùng chứa linh kiện máy vi tính sau này sẽ được chính tay Haas lắp ráp. Tuy nhiên, trong một phòng có một cái giường, một giá nến cắm nến, và một tấm gương to cạnh giường. Đèn không sáng, nhưng tay thanh tra đi cùng Epifanio lập tức nhận ra đèn không sáng là do đã bị tháo bóng. Có hai buồng tắm. Một buồng gọn gàng, có xà phòng, giấy vệ sinh, nền sạch. Cạnh bồn cầu là một cây cọ bồn cầu mà Haas buộc tất cả nhân viên vốn chỉ quen giật nước phải dùng. Buồng tắm kia dơ đến nỗi chắc đã bị bỏ phế, mặc dù vòi nước vẫn chảy và bồn cầu vẫn hoạt động, tuy nhiên dường như nó có ở đó nhằm mục đích minh họa cho một hiện tượng bất cân xứng và không hiểu nổi. Rồi đến một hành lang dài dẫn tới cánh cửa mở ra một hẻm nhỏ. Cái hẻm này chất đủ loại rác và thùng các tông, tuy nhiên đứng ở cửa có thể nhìn ra một trong những góc sầm uất nhất của thành phố, trung tâm cuộc sống về đêm của Santa Teresa. Sau đó họ xuống tầng hầm.

♣ ♣ ♣

Hai ngày sau, Epifanio, hai thanh tra và ba cảnh sát Santa Teresa đến cửa hàng mang theo trát bắt Klaus Haas, công dân Mỹ bốn mươi tuổi, tình nghi phạm tội hãm hiếp, tra tấn và giết Estrella Ruiz Sandoval, công dân Mexico mười bảy tuổi, nhưng khi họ tới nơi thì nhân viên cho biết hôm đó ông chủ không đến, thế là nhóm liền tách ra, một thanh tra và hai cảnh sát Santa Teresa lái xe đến cửa hàng kia nằm ở quận Centeno, trong khi Epifanio, một thanh tra và viên cảnh sát Santa Teresa còn lại tới nhà tay người Mỹ gốc Đức ở quận Cerezal, ở đó họ tản ra theo chiến thuật, viên cảnh sát Santa Teresa canh phía sau nhà còn Epifanio và tay thanh tra nhấn chuông cửa. Ngạc nhiên sao, chính Haas ra mở cửa, trông như đang khổ sở vì cảm lạnh hay vì cúm, hoặc ít nhất cũng cho thấy rõ ràng đêm qua ngủ không ngon. Haas mời các cảnh sát vào nhưng họ từ chối và lập tức cho Haas biết gã bị bắt ngay lúc ấy, rồi đưa lệnh bắt giữ ra và cho gã liếc qua trát khám nhà cùng hai cửa hàng của gã, ngay sau đó họ còng tay gã, vì nghi phạm vốn to cao lực lưỡng và không ai biết gã sẽ phản ứng thế nào sau khi đã ý thức được đang có chuyện gì. Đoạn họ tống gã vào phía sau xe tuần tra, lập tức lái về phân khu cảnh sát số 1, để viên cảnh sát Santa Teresa ở lại trông chừng nhà của nghi phạm.

♣ ♣ ♣

Cuộc thẩm vấn Klaus Haas kéo dài bốn ngày và do Epifanio Galindo cùng Tony Pintado thuộc lực lượng cảnh sát Santa Teresa và Ernesto Ortiz Rebolledo, Ángel Fernández cùng Carlos Marin thuộc lực lượng cảnh sát tư pháp tiến hành. Tại cuộc thẩm vấn có mặt Pedro Negrete, cảnh sát trưởng Santa Teresa, đi theo có các khách mời đặc biệt là hai thẩm phán thành phố và César Huerta Cerna, đứng đầu Văn phòng Phó Tổng Chưởng lý Khu vực Bắc Sonora. Nghi phạm hai lần nổi cơn thịnh nộ không thể kiểm soát, khiến các cảnh sát đang thẩm vấn gã phải cố sức khống chế. Sau đó, Haas thừa nhận có quan hệ với Estrella Ruiz Sandoval, cô này đã đến cửa hàng gã ba lần. Năm cảnh sát Hermosillo thuộc Biệt đội Chống Bắt cóc của Lực lượng Cảnh sát Sonora lục soát nhà riêng cũng như hai cửa hàng của Haas tại Santa Teresa để tìm bằng chứng buộc tội, đặc biệt chú ý đến tầng hầm cửa hàng ở khu trung tâm, và tìm thấy vết máu trên một trong mấy tấm ga giường ở phòng dưới tầng hầm cũng như trên sàn. Gia đình Estrella Ruiz Sandoval được mời đến để kiểm tra ADN, nhưng mẫu máu lại bị thất lạc trên đường đến Hermosillo, theo kế hoạch thì đáng lẽ từ Hermosillo chúng sẽ được gửi đến một phòng xét nghiệm ở San Diego. Khi bị hỏi về các vết máu, Haas nói chắc là của một trong mấy người phụ nữ gã quan hệ trong lúc cô ta đang có kinh. Khi Haas đưa thông tin này ra, thanh tra Ortiz Rebolledo hỏi gã nghĩ mình là loại đàn ông nào. Bình thường, Haas đáp. Đàn ông bình thường thì không làm tình với phụ nữ khi cô ta đang chảy máu, Ortiz Rebolledo nói. Tôi thì có, Haas nói. Chỉ có heo mới làm vậy, thanh tra nói. Ở châu Âu chúng tôi là heo tuốt, Haas đáp. Thế là thanh tra Ortiz Rebolledo sửng cồ lên và phải rời khỏi phòng thẩm vấn, thế chỗ là Ángel Fernández và một viên cảnh sát Santa Teresa là Epifanio Galindo. Các kỹ thuật viên hiện trường của Biệt đội Chống Bắt cóc không tìm thấy dấu tay trong phòng dưới tầng hầm, nhưng ở trong ga ra nhà Haas họ tìm thấy nhiều dụng cụ sắc bén, trong đó có một cây rìu lưỡi dài bảy lăm phân, đã cũ nhưng được bảo quản hoàn hảo, và hai con dao săn to. Các vũ khí này đều sạch, không dính vết máu hay vải. Trong quá trình thẩm vấn, người ta phải đưa Klaus Haas vào bệnh viện General Sepúlveda hai lần, một lần vì bệnh cúm của gã trở nặng và gã bị sốt cao, lần thứ hai thì để chữa các vết rách vết bầm ở mắt và lông mày bên phải gã đã bị khi trên đường từ phòng thẩm vấn về xà lim. Đến ngày tạm giam thứ ba, theo đề xuất của chính cảnh sát Santa Teresa, Haas đồng ý gọi điện cho lãnh sự Mỹ ở Santa Teresa, Abraham Mitchell, vốn lúc đó đang không biết ở chốn nào. Một nhân viên tòa lãnh sự, Kurt A. Banks, nghe điện và ngày hôm sau đến đồn cảnh sát, nói chuyện mười phút với người đồng bào của mình, sau đó ra về chẳng làm một đơn kiện nào. Ít lâu sau đó, nghi phạm Klaus Haas được cho vào xe tải chở đến nhà tù thành phố.

♣ ♣ ♣

Trong thời gian Haas ở đồn cảnh sát, mấy cảnh sát đã đến ngó mặt gã. Hầu hết đứng bên ngoài xà lim, nhưng Haas toàn ngủ hoặc làm bộ ngủ, chăn phủ kín mặt, cho nên họ chỉ biết ồ à trước hai bàn chân xương xẩu to đùng của gã. Thỉnh thoảng gã hạ cố nói chuyện với tay cảnh sát mang đồ ăn vào cho gã. Họ nói về đồ ăn. Tay cảnh sát hỏi gã có thích món ăn Mexico không và Haas nói cũng không tồi sau đó im lặng. Epifanio Galindo đem Lalo Cura tới nhìn Haas giữa một cuộc thẩm vấn. Lalo nghĩ gã là người sắc sảo. Gã không có vẻ sắc sảo, nhưng Lalo đoán gã là người sắc sảo dựa trên cung cách gã trả lời câu hỏi của các thanh tra. Và gã dường như có nguồn nội lực bất tận, khiến những người bị giam cùng gã trong căn phòng cách âm phải toát mồ hôi và mất hết kiên nhẫn, những người thề thốt mình là bạn gã hoặc thề thốt là mình cảm thông với gã và bảo gã cứ nói đi, cứ trút hết tâm tư đi, ở Mexico không có án tử hình đâu, cứ dốc hết những thứ trong lòng đang giày vò mày đi, sau đó thì đánh gã và chửi rủa gã. Nhưng Haas không bao giờ biết mệt và tựa hồ đã thoát khỏi thực tại (hoặc cố giằng cái thực tại ấy ra khỏi các thanh tra cảnh sát) với những câu trả lời bất ngờ và những câu hỏi không đầu không đuôi. Lalo Cura quan sát cuộc thẩm vấn trong nửa tiếng, và lẽ ra còn có thể ở đấy thêm hai ba tiếng nữa, nhưng Epifanio bảo cậu phải đi đi vì sếp cùng một nhân vật quan trọng khác sắp đến rồi và họ không muốn cuộc thẩm vấn này biến thành một tấn trò.

♣ ♣ ♣

Ở nhà tù Santa Teresa, Haas được đưa vào một xà lim biệt giam cho đến khi hạ sốt. Chỉ có bốn xà lim biệt giam. Một trong số đó đang giam một tay trùm ma túy bị kết tội giết hai cảnh sát Mỹ, một cái khác giam một luật sư thương mại bị buộc tội lừa đảo, cái thứ ba dành cho hai vệ sĩ của tay trùm ma túy, cái thứ tư thì cho một trại chủ ở Alamillo đã siết cổ vợ và bắn chết hai đứa con mình. Để có chỗ cho Haas, người ta chuyển hai vệ sĩ của tay trùm ma túy sang khu xà lim số 3, vào một xà lim đã có sẵn năm người. Xà lim biệt giam chỉ được trang bị một cái giường bắt vít xuống sàn, và khi người ta để Haas lại trong nhà mới của gã thì, qua cái mùi, gã biết được lúc trước đã có hai người ở đó, một người ngủ trên giường còn người kia ngủ trên tấm ván đặt giữa sàn. Đêm đầu tiên trong tù gã không ngủ được. Gã đi tới đi lui trong xà lim, chốc chốc lại vỗ vỗ lên hai cánh tay. Tay chủ trại, vốn khó ngủ, gọi to bảo gã đừng làm ồn nữa, đi ngủ đi. Haas hỏi, trong bóng tối, ai vừa nói vậy. Tay chủ trại không đáp và trong một phút Haas đứng im, lặng thinh, chờ ai đó nói gì đấy. Khi nhận ra sẽ chẳng ai đáp lại mình, gã tiếp tục đi quanh xà lim, chốc chốc lại vỗ lên hai cánh tay, làm như đập muỗi, mặc dù ở đây không có muỗi, cho đến khi tay chủ trại lại nói thôi đừng làm ồn nữa. Lần này Haas không dừng lại, cũng không hỏi ai đã nói. Đêm là để ngủ, đồ Mẽo chó chết, gã nghe thấy tay chủ trại nói. Sau đó gã nghe thấy tiếng tay kia trăn qua trở lại trên giường và hình dung tay kia đang trùm gối lên đầu, khiến gã đâm khoái chí vô cùng. Đừng có trùm đầu, gã nói lớn giọng oang oang như sấm, mày sắp chết rồi. Ai giết tao mới được chớ, mày chắc, hả thằng Mẽo? Tao thì không, đồ chó đẻ, Haas nói, một tên khổng lồ sẽ tới đây và tên khổng lồ sẽ giết mày. Tên khổng lồ? tay chủ trại nói. Mày nghe chuẩn đó, thằng khốn nạn, Haas nói. Một tên khổng lồ. Một thằng rất bự, bự ghê gớm, nó sẽ giết mày và tất cả những người khác. Mày điên rồi thằng Mẽo, tay chủ trại nói. Hồi lâu sau chẳng ai nói gì nữa và có vẻ tay chủ trại đã ngủ lại. Tuy nhiên lát sau Haas bảo gã nghe có tiếng bước chân. Tên khổng lồ đang đến. Từ đầu đến chân hắn toàn máu và hắn sắp tới đây. Ông luật sư thương mại thức giấc hỏi họ đang nói gì vậy. Giọng ông ta ngọt xớt, the thé và sợ hãi. Ông bạn chúng ta đây điên rồi, giọng tay chủ trại nói.

♣ ♣ ♣

Khi Epifanio đến gặp Haas, một cai ngục cho anh biết tên Mẽo không chịu cho các gã tù khác ngủ yên. Gã nói về một con quái vật và suốt đêm không ngủ. Epifanio muốn biết tên Mẽo nói về thứ quái vật gì thì cai ngục bảo là về một tên khổng lồ, chắc là một tay bạn của Haas, sẽ tới cứu gã và giết sạch những ai đã dám động tới gã. Vì không ngủ được nên gã cũng không cho ai ngủ, cai ngục nói, và gã tỏ ra chẳng hề tôn trọng người Mexico, gọi họ là tụi da đỏ hoặc bọn nhớp. Epifanio muốn biết sao lại là nhớp, thì cai ngục, rất nghiêm trang, liền đáp rằng, theo Haas, dân Mexico không bao giờ rửa ráy, không bao giờ tắm. Anh ta nói thêm là, theo Haas, dân Mexico có một tuyến khiến bọn họ tiết ra một thứ mồ hôi dầu, ít nhiều giống như dân da đen, cái mồ hôi mà, theo Haas, bốc ra một thứ mùi đặc biệt chả lẫn vào đâu được. Tuy nhiên, thực ra, kẻ duy nhất không tắm rửa bao giờ là Haas, bởi ban quản trị nhà tù không muốn cho gã đến nhà tắm chừng nào họ chưa nhận được lệnh từ đích thân thẩm phán hoặc giám thị nhà tù, vốn có vẻ đang xử lý vụ này bằng thái độ hết sức dè giữ. Khi Epifanio mặt đối mặt với Haas, Haas không nhận ra anh. Gã có quầng thâm quanh mắt và có vẻ gầy hơn nhiều so với lần đầu anh gặp, tuy nhiên các tổn thương gã đã bị trong cuộc thẩm vấn thì không còn dấu vết gì. Epifanio mời gã hút thuốc, nhưng Hass bảo gã không hút. Rồi Epifanio nói về nhà tù Hermosillo, mới xây, xà lim rộng rãi và sân rộng mênh mông trang bị dụng cụ thể dục. Nếu Haas nhận tội, anh nói, anh sẽ lo liệu chuyển gã đến Hermosillo, rồi gã sẽ có xà lim riêng, tốt hơn chỗ này nhiều. Đến đó Haas mới nhìn thẳng vào mắt anh nói đừng có bỡn với tôi. Epifanio biết là Haas đã nhận ra anh, liền mỉm cười. Haas không cười đáp lại. Vẻ mặt gã, Epifanio nghĩ, thật lạ, mình chả biết nữa, có vẻ bị xúc phạm. Bị xúc phạm về mặt đạo đức. Anh hỏi gã về con quái vật, tên khổng lồ, anh hỏi tên khổng lồ có phải chính là Haas không thế là Haas bèn cười ha hả. Tôi á? Anh chả biết cái cóc gì, gã nhổ nước bọt. Đi mà đụ con đĩ mẹ nhà anh ấy.

♣ ♣ ♣

Tù nhân ở các xà lim biệt giam có thể đi ra sân khu xà lim hoặc ở cả ngày trong xà lim và chỉ ra ngoài lúc sáng tinh mơ, từ sáu rưỡi đến bảy rưỡi sáng, khi khoảnh sân vẫn còn là chỗ cấm đối với các tù nhân khác, hay là sau chín giờ tối, trên lý thuyết là sau khi đã điểm danh tối xong xuôi và tù nhân đã về lại xà lim. Tay chủ trại giết vợ con cùng ông luật sư thương mại thường đi riêng với nhau lúc đêm, sau bữa tối. Họ tản bộ quanh sân, bàn luận về kinh doanh và chính trị rồi quay về xà lim. Tay trùm ma túy theo cùng lịch trình như các tù nhân khác và có thể hàng giờ liền tựa lưng vào tường, vừa hút thuốc vừa ngắm trời, trong khi hai gã vệ sĩ, chẳng bao giờ ở quá xa, vạch một vòng ranh giới vô hình quanh chủ họ bằng sự hiện diện của họ. Klaus Haas, khi đã bớt sốt, quyết định ra ngoài vào “giờ bình thường”, theo như cai ngục giải thích cho gã. Khi cai ngục hỏi gã không sợ bị giết trên sân sao, Haas phác một cử chỉ ra chiều khinh miệt và nói gì đó về bộ mặt xanh rớt như chết rồi của tay chủ trại và ông luật sư, những bộ mặt chẳng bao giờ biết nắng là gì. Lần đầu tiên gã ra sân, tay trùm ma túy, trước lúc đó chưa hề tỏ ra quan tâm tới gã, liền hỏi gã là ai. Haas nói tên và tự giới thiệu là chuyên gia vi tính. Tay trùm ma túy nhìn gã từ đầu tới chân rồi đi tiếp làm như sự tò mò của y đã cạn kiệt trong tức khắc. Một số tù khác, chỉ vài người, mặc những món vốn là tàn dư của cái từng là đồng phục tù nhân, trong khi hầu hết tù nhân khác thích gì mặc nấy. Có người bán nước ngọt đựng trong các thùng giữ lạnh được họ xách bằng một tay rồi để xuống đất cạnh nơi người ta chơi bóng đá bốn người hoặc chơi bóng rổ. Có người bán thuốc lá và ảnh khiêu dâm. Những người kín đáo nhất thì bán ma túy. Khoảnh sân có hình chữ V. Một nửa nền xi măng còn nửa kia là đất, bao quanh bởi hai bức tường có tháp canh, trên có lính gác vừa hút thuốc phiện vừa nhìn ra với vẻ chán chường. Ở đầu hẹp của chữ V là cửa sổ của mấy ô xà lim, dây phơi quần áo chăng giữa các thanh chấn song. Dọc suốt phần mở rộng của chữ V là một hàng rào kim loại cao tầm mười mét, đằng sau có một đường nhựa dẫn tới các khu khác của nhà tù, đằng sau đấy lại thêm một hàng rào nữa, không cao bằng song bên trên tua tủa cuộn kẽm gai, một hàng rào tựa như dựng thẳng từ sa mạc. Lần đầu tiên ra sân, trong vài phút, Haas cảm thấy như mình đang đi dọc một công viên ở một thành phố nước ngoài nơi không ai biết gã là ai. Trong thoáng chốc gã thấy tự do. Nhưng ở đây thiên hạ đều cái gì cũng biết, gã tự nhủ, nên gã kiên nhẫn chờ người tù đầu tiên lại gần. Trong vòng một tiếng đồng hồ gã được mời chào thuốc phiện và thuốc lá, nhưng gã chỉ mua soda. Trong khi gã vừa uống vừa xem bóng rổ, vài người tù lại gần hỏi có đúng là gã đã giết tất cả các phụ nữ đó không. Gã bảo không. Mấy người tù liền hỏi gã làm nghề gì và bán máy vi tính có kiếm được khá không. Haas nói lúc lên lúc xuống. Và doanh nhân thì đâu bao giờ biết chắc được chuyện gì. Vậy ra chú mày là doanh nhân, mấy người tù nói. Không, Haas nói, tôi là một chuyên gia vi tính đã gầy dựng được cơ nghiệp riêng. Gã nói một cách nghiêm trang và đầy thuyết phục đến nỗi vài người tù gật gù. Sau đó Haas muốn biết mấy người kia hồi còn ở ngoài thì làm gì thế là phần lớn đám kia phá lên cười. Lượn lờ, ấy là câu duy nhất gã hiểu. Gã cũng cười và mua soda mời năm sáu người tù đang vây quanh.

♣ ♣ ♣

Lần đầu tiên gã đến chỗ buồng tắm, một người tù được gọi là El Anillo toan hãm hiếp gã. Thằng này to con, nhưng so với Haas thì vẫn là nhỏ, và qua vẻ mặt hắn thì có thể thấy rõ hắn làm vậy chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc hắn đóng cái vai ấy. Vẻ mặt hắn như muốn nói, giá như mọi chuyện chỉ tùy thuộc vào mình hắn thôi thì hắn đã tự sục lấy một mình trong xà lim, yên lành chẳng phiền ai. Haas nhìn chằm chằm vào mặt hắn hỏi làm sao một người lớn lại có thể làm chuyện ấy được. El Anillo chẳng hiểu gã nói gì bèn cười rộ. Hắn có bộ mặt bè bè da nhẵn thín và tiếng cười không dễ nghe. Mấy người tù xung quanh hắn cũng cười. Bạn của El Anillo, một người tù trẻ hơn được gọi là El Guajolote, rút một con dao tự chế từ dưới một cái khăn tắm ra rồi bảo Haas câm mồm đi theo tụi nó vào một góc. Một góc? Haas nói. Mẹ nó, vào một góc? Hai trong số mấy người bạn Haas đã làm quen trong sân liền tiến tới đằng sau El Guajolote túm hai tay thằng này. Mặt Haas phừng phừng lửa giận. El Anillo lại cười nói có chuyện gì to tát đâu. Vào một góc mà không có chuyện gì to tát? Haas hét. Vào một góc giống như con chó mà chẳng có chuyện gì to tát? Một người bạn khác của Haas tiến tới đứng gần cửa nên không ai ra vào buồng tắm được. Bắt nó thổi kèn cho mày đi, thằng Mẽo, một người tù hét. Bảo cái thằng mặt lờ đó thổi kèn cho mày đi, thằng Mẽo. Làm liền đi. Cho nó nhừ tử đi. Giọng mấy người tù to vống lên. Haas giật lấy con dao trong tay El Guajolote rồi bảo El Anillo quỳ xuống chống cả hai chân hai tay. Nếu mày không nhúc nhích thì chả có chuyện gì xảy ra hết, đồ chó đẻ. Nếu mày nhúc nhích hay sợ hãi thì mày sẽ có hai cái lỗ để mà ỉa đấy. El Anillo cởi khăn tắm ra rồi sụp tứ chi xuống sàn. Không, không phải ở đấy, lại dưới vòi hoa sen kìa. El Anillo dửng dưng đứng dậy rồi lại dưới vòi tắm. Tóc hắn, lượn sóng và chải ngược ra sau, xõa xuống che mắt. Kỷ luật, đồ chó đẻ, tao chỉ đòi hỏi chút kỷ luật và tôn trọng, Haas nói lúc bước vào dãy vòi hoa sen. Sau đó gã quỳ xuống đằng sau El Anillo, thì thầm bảo thằng này giạng hai chân ra, rồi từ từ thọc dao vào lút tới cán. Một số người có thể thấy thỉnh thoảng El Anillo cố nén tiếng thét. Những người khác có thể thấy những giọt máu đen sì chảy ra từ hậu môn El Anillo, hòa tan vào nước chỉ trong mấy giây.

♣ ♣ ♣

Mấy thằng bạn của Haas được gọi là El Tormenta, El Tequila và El Tutanramón. El Tormenta hăm hai tuổi và đang bóc lịch vì đã giết tay vệ sĩ của một tên trùm ma túy muốn lợi dụng em gái gã. Hai lần có người trong tù toan giết gã. El Tequila ba mươi tuổi và nhiễm HIV, mặc dù ít người biết chuyện ấy vì gã chưa phát bệnh. El Tutanramón mười tám tuổi và có biệt danh này từ một bộ phim. Tên thật của nó là Ramón, nhưng nó đã ba lần đi xem Xác ướp báo thù, bộ phim nó ưa nhất, thế nên bạn bè cải danh cho nó thành Tutanramón, mà cũng có khi, Haas tin thế, tự nó cải danh cho mình. Haas thỏa mãn tụi này bằng cách mua cho chúng đồ ăn đóng hộp và thuốc phiện. Tụi nó chạy việc vặt hoặc làm vệ sĩ cho gã. Thỉnh thoảng Haas nghe tụi nó kể về những chuyện quan trọng với tụi nó, công việc làm ăn, cuộc sống gia đình, những gì tụi nó mong muốn nhất và sợ nhất, và gã chả hiểu gì. Tụi nó cứ như người hành tinh khác. Những lần khác thì tự Haas nói và ba thằng bạn lắng nghe trong im lặng đầy cảm khái. Haas nói về tự chủ, về sự chí thú làm ăn, tự mình giúp mình, số phận của mỗi cá nhân là nằm trong tay mỗi cá nhân, nếu quyết tâm thì ai cũng có thể trở thành Lee Giacoca. Tụi nó chả hề biết Lee Giacoca là ai. Tụi nó đoán chắc là một trùm mafia. Nhưng tụi nó không hỏi gì vì sợ làm Haas mất mạch tư duy.

♣ ♣ ♣

Khi Haas được chuyển tới khu xà lim cùng các tù nhân khác, tay trùm ma túy lại chào tạm biệt, một nghĩa cử khiến Haas cảm ơn và lấy làm cảm kích. Nếu chú mày có chuyện gì cứ cho tao biết, tay trùm ma túy nói, nhưng chỉ chuyện lớn thôi nhé, nếu là ba cái thứ tẹp nhẹp thì đừng quấy rầy tao. Tôi sẽ cố gắng không quấy rầy ông, Haas nói. Tao ghi nhận rồi đó, tay trùm ma túy nói. Hôm sau, khi đến thăm gã, luật sư của Haas hỏi gã có muốn làm thủ tục xin về lại phòng biệt giam không. Haas nói thế này là được rồi, chẳng mấy mà gã cũng phải rời khỏi cái xà lim ấy thôi và gã chấp nhận thực tế càng sớm bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Tôi có thể làm gì cho anh? luật sư của gã hỏi. Đem cho tôi một cái di động, Haas nói. Không dễ gì xin họ cho anh cầm điện thoại trong tù đâu, luật sư của gã nói. Ô dễ mà, dễ mà, Haas nói. Cứ đem cho tôi đi.

♣ ♣ ♣

Một tuần sau gã bảo luật sư lấy cho một cái di động nữa, và chẳng bao lâu sau lại thêm cái nữa. Cái đầu tiên gã bán cho một thằng cha ngồi tù vì giết ba người. Thằng chả trông bình thường, hơi lùn, hay được bên ngoài gửi tiền vào cho, chắc để thằng chả ngậm miệng. Haas bảo thằng chả rằng cách làm ăn hiệu quả nhất là dùng di động, thế là thằng chả trả cho Haas số tiền gấp ba lần giá trị cái di động. Cái thứ hai gã bán cho một tay hàng thịt đã dùng dao pha giết một trong mấy người làm công của hắn, một thằng nhóc mười lăm tuổi. Khi người ta hỏi tay hàng thịt, nửa thật nửa giễu, tại sao lại giết thằng nhóc, thì hắn nói thằng nhóc là đồ ăn cắp đã lợi dụng lòng tin của hắn. Nghe vậy mấy người tù cười rộ hỏi có phải thật ra là vì thằng nhóc không cho hắn phịch không. Thế là tay hàng thịt cúi đầu lắc lắc, nhưng chả thốt ra một lời nào đặng bác lại lời vu khống. Hắn muốn làm sao để ngồi tù mà vẫn điều hành được hai cửa hàng thịt, bởi hắn cho rằng bà chị gái, hiện giờ đang đứng mũi chịu sào ở đấy, toàn ăn cắp của hắn. Haas bán cái di động cho hắn và chỉ cách dùng danh bạ, cách gửi tin nhắn. Gã bắt tay kia phải trả cho cái di động này số tiền gấp năm lần giá gốc.

♣ ♣ ♣

Haas ở chung xà lim với năm tù nhân nữa. Trùm ở đó là một tay tên Farfán. Y chừng bốn chục và Haas chưa từng gặp người nào xấu xí hơn. Tóc y mọc xuống tới ấn đường và y có cặp mắt của loài chim săn mồi, bị gắn được chăng hay chớ vào giữa một khuôn mặt lợn. Y bụng phệ và bốc mùi khó ngửi. Y có bộ ria mép tua tủa chẳng ra hàng lối gì, thường xuyên dính thức ăn. Vào những lần hiếm hoi y cười thành tiếng, giọng y như giọng lừa và chỉ khi đó cái bản mặt y mới có vẻ khiến người ta chịu được. Khi Haas chuyển vào xà lim gã cứ nghĩ chẳng mấy chốc tay Farfán này sẽ cà khịa với gã, nhưng Farfán chẳng những không cà khịa mà còn có vẻ như đã lạc trong một thứ mê cung và mọi tù nhân đều là những hình hài không thực. Y có bạn bè ở khu xà lim này, những tay đầu gấu muốn y để ý canh chừng cho họ, nhưng y chỉ muốn bầu bạn với một người tù cũng xấu xí như y, một gã tên Gómez, người gầy gò dài ngoẵng, má trái có một cái bớt to bằng nắm tay còn mắt lờ đờ như thường xuyên phê thuốc. Hai thằng thường gặp nhau trên sân và ở nhà ăn. Ở sân, hai thằng gật đầu chào nhau và cho dù có nhập vào nhóm đông thì cuối cùng thể nào cả hai cũng lại tách ra, tựa lưng vào tường tắm nắng hoặc trầm ngâm tản bộ từ sân bóng rổ đến hàng rào. Hai bên không nói nhiều với nhau, có lẽ vì chẳng có mấy chuyện để nói. Farfán hồi mới vào tù nghèo rớt mồng tơi đến nỗi ngay cả luật sư do tòa chỉ định cũng chẳng thèm đến gặp y. Gómez, vào tù vì tội cướp xe tải, thì có luật sư, và sau khi quen nhau thì Gómez bảo luật sư của y lo luôn giấy tờ cho cả Farfán. Lần đầu hai thằng phịch nhau là ở một trong mấy khu bếp. Thật ra Farfán đã hãm hiếp Gómez. Y đánh hắn, đẩy hắn ngã xuống mấy cái bao tải rồi hiếp hắn hai lần. Gómez phẫn nộ đến nỗi toan giết Farfán. Một chiều nọ hắn chờ y trong bếp, nơi Farfán làm công việc rửa bát và khuân các bao tải đậu, rồi cố đâm y bằng con dao tự chế, nhưng chẳng khó để Farfán quật ngã hắn. Farfán lại hiếp hắn, và sau đó, trong khi vẫn đang cưỡi trên người Gómez, Farfán bảo tình hình như này cần phải chấm dứt bằng cách này hay cách khác. Để đền bù, y cho Gómez phịch y. Chưa hết, y còn trả hắn con dao tự chế để tỏ lòng tin cậy, sau đó y tụt quần và phủ phục xuống tấm pallet. Nằm đó chổng mông lên trời, Farfán trông giống con heo, tuy nhiên Gómez vẫn phịch y và sau đó hai thằng lại bầu bạn với nhau.

♣ ♣ ♣

Do Farfán là người mạnh nhất, thỉnh thoảng y buộc những người khác rời xà lim. Ngay sau đó, Gómez đến và hai thằng sẽ phịch nhau rồi, khi đã xong xuôi, hai thằng hút thuốc nói chuyện hoặc lặng thinh, Farfán trên giường y còn Gómez trên giường một tù khác, nhìn chăm chăm lên trần hoặc nhìn những làn khói trôi dạt ra ngoài cửa sổ để mở. Đôi khi Farfán cảm thấy khói mang những hình thù kỳ dị: rắn, cánh tay, chân gập, thắt lưng rạn nứt giữa không trung, tàu ngầm từ một chiều kích khác. Y nheo mắt nói: đã quá, cú này đã quá. Gómez, vốn là người thực tế hơn, liền hỏi cái gì đã quá, y nói gì vậy, và Farfán không biết giải thích ra sao. Thế rồi Gómez trở dậy nhìn quanh, như muốn tìm những con ma của bạn hắn, và cuối cùng hắn nói: mày toàn thấy linh tinh.

♣ ♣ ♣

Haas không hiểu làm sao một con cu lại có thể cứng lên được trước cái lỗ nhị giống như của Farfán hay Gómez. Gã có thể hiểu rằng một thằng đàn ông có thể cương lên trước một thằng choai choai, một cậu trẻ, gã nghĩ, nhưng không thể hiểu sao một thằng đàn ông hay bộ não một thằng đàn ông lại có thể phát tín hiệu cho máu lần lượt lấp đầy các mô xốp của dương vật, nào có dễ đâu, khi chỉ có độc sự khêu gợi của một cái lỗ nhị như của Farfán hay Gómez. Thú vật, gã nghĩ. Bọn thú vật bẩn thỉu bị thu hút bởi những thứ bẩn thỉu. Trong mơ gã thấy mình đi dọc các hành lang nhà tù, những khu xà lim khác nhau, và có thể thấy mắt mình như mắt diều hâu trong khi gã vững vàng bước dọc cái mê cung những tiếng ngáy và ác mộng, biết rõ có chuyện gì xảy ra trong mỗi xà lim, cho đến khi bỗng dưng gã không tiến tới được nữa mà khựng lại bên mép một vực thẳm (vì cái nhà tù trong giấc mơ của gã giống như một lâu đài dựng bên mép một vực thẳm không đáy). Đến đó, không lùi được, gã giơ hai tay lên, như muốn kêu van thấu trời (vốn cũng tối thui như vực), và sau đó cố nói gì đó, nói chuyện, cảnh tỉnh, khuyên nhủ cả một đoàn Klaus Haas thu nhỏ, nhưng rồi gã nhận ra, hoặc trong khoảnh khắc gã có ấn tượng, rằng ai đó đã khâu môi gã. Tuy nhiên, trong miệng, gã nhận thấy có gì đó. Không phải lưỡi, không phải răng. Một cục thịt gã cố không nuốt vào trong khi dùng một tay dứt đứt các sợi chỉ. Máu chảy xuống cằm gã. Gã cảm thấy lợi mình tê cứng. Khi cuối cùng cũng mở miệng được thì gã khạc cục thịt đó ra ngoài rồi quỳ xuống trong bóng tối để tìm nó. Khi đã tìm thấy nó, sờ kỹ nó, gã nhận ra đó là một cái dương vật. Thất kinh, gã thò tay xuống dưới bẹn, sợ sẽ không thấy dương vật của mình, nhưng nó vẫn đang ở đấy, thế tức là cái dương vật gã đang cầm trong tay là của người khác. Của ai? gã nghĩ trong khi môi gã vẫn không ngừng rỉ máu. Rồi gã thấy buồn ngủ quá bèn cuộn người ngủ bên mép vực. Sau đó thường thì gã còn mơ nhiều giấc mơ khác nữa.

♣ ♣ ♣

Hãm hiếp rồi giết phụ nữ đối với gã là việc hấp dẫn hơn, sexy hơn, so với thọc cu vào cái lỗ rỉ mủ của Farfán hay cái lỗ đầy phân của Gómez. Nếu tụi nó vẫn cứ phịch nhau thì mình sẽ giết tụi nó, đôi lần gã nghĩ. Đầu tiên mình sẽ giết Farfán, sau đó giết Gómez, ba thằng T sẽ giúp mình, chúng sẽ cho mình vũ khí và bằng chứng ngoại phạm, phương tiện hậu cần, sau đó mình sẽ quăng mấy cái xác xuống vực và sẽ chẳng còn ai nhớ tới tụi nó.

♣ ♣ ♣

Mười lăm ngày sau khi đến nhà tù Santa Teresa, Haas tổ chức cái có thể gọi là cuộc họp báo đầu tiên của gã, với sự góp mặt của bốn nhà báo từ thủ đô và hầu hết các tờ báo giấy ở bang Sonora. Trong cuộc hỏi đáp Haas khẳng định lần nữa rằng gã vô tội. Gã bảo lúc thẩm vấn người ta đã tống cho gã những “chất lạ” nhằm bẻ gãy ý chí gã. Gã không nhớ mình đã ký bất kỳ thứ gì, không có bản nhận tội nào, nhưng gã nói rõ nếu gã có ký gì thì đấy cũng là kết quả của bốn ngày tra tấn về thể xác, tâm lý và bằng “y học”. Gã cảnh báo các phóng viên rằng ở Santa Teresa đang diễn ra những “vụ việc” mà rồi sẽ chứng minh gã không phải kẻ giết những phụ nữ đó. Gã bóng gió rằng trong tù người ta vẫn biết được nhiều thông tin. Trong số các nhà báo từ thủ đô tới có Sergio González. Không như lần trước, lần này anh có mặt không phải do cần tiền và do mong muốn kiếm việc làm thêm. Khi biết Haas đã bị bắt, anh liền nói chuyện với trưởng ban tội phạm, đề nghị ông đặc cách cho anh theo vụ này. Trưởng ban không phản đối và khi biết Haas định nói chuyện với báo giới, ông liền gọi điện cho Sergio bên ban văn hóa bảo anh nếu muốn đi thì đi đi. Chuyện này xong rồi, ông nói, tôi không hiểu sao anh lại quan tâm tới nó thế. Chính Sergio González cũng chẳng hiểu lắm. Đấy chẳng qua là sở thích bệnh hoạn hay vì anh tin ở Mexico chẳng có gì là chuyện đã xong? Khi cuộc họp báo đầy tính ứng biến đã kết thúc, luật sư của Haas bắt tay chào mọi nhà báo. Khi đến lượt Sergio, anh để ý thấy luật sư kín đáo tuồn cho anh một mẩu giấy. Anh đút tay vào túi quần bỏ mẩu giấy vào đấy. Ra khỏi xà lim, trong khi đợi taxi, anh xem mẩu giấy. Trên đó chỉ có mỗi một số điện thoại.

♣ ♣ ♣

Cuộc họp báo của Haas là một scandal nho nhỏ. Trong một số giới, người ta hỏi nhau, từ khi nào mà một tên tù có thể mời báo chí tới nói chuyện cứ như hắn đang thoải mái ở nhà chứ không phải ở cái nơi mà nhà nước và hệ thống pháp luật đã tống hắn tới để trả giá cho tội ác của hắn hoặc, như được nhắc đến trong hồ sơ hợp pháp, để thi hành án. Nghe nói Haas đã đút tiền cho cai tù. Nghe nói Haas là người thừa kế, người thừa kế độc nhất của một gia đình giàu nứt đố đổ vách bên châu Âu. Theo nguồn này thì Haas bơi giữa tiền và nắm cả nhà tù Santa Teresa trong tay.

♣ ♣ ♣

Đêm đó, sau cuộc họp báo, Sergio González gọi đến số điện thoại luật sư đã cho anh. Haas trả lời. Sergio chả biết nói gì. A lô? Haas nói. Anh có điện thoại à, Sergio nói. Ai đấy? Haas nói. Tôi là một trong các nhà báo đã gặp anh hôm nay. Người ở thủ đô tới, Haas nói. Đúng vậy, Sergio nói. Anh tưởng ai sẽ nghe máy? Haas hỏi. Luật sư của anh, Sergio thừa nhận. Chà chà chà, Haas nói. Trong một thoáng cả hai im lặng. Anh có muốn tôi kể cho nghe không? Haas nói. Ở trong tù đây, mấy ngày đầu tôi thấy sợ. Tôi cứ nghĩ hễ gặp tôi là các tù nhân khác sẽ xông tới để trả thù cho cái chết của tất cả những cô gái đó. Với tôi, ở tù chẳng khác gì giữa trưa Chủ nhật mà bị vứt vào một khu như quận Kino, quận San Damían, quận Las Flores. Cả đám đông xúm lại thịt mình. Bị xé thành từng mảnh. Anh có hiểu không? Đám đông nhổ nước bọt lên tôi đá đạp tôi và xé tôi thành từng mảnh. Không thể nói năng giải thích gì ráo. Nhưng rồi tôi sớm hiểu ra là trong tù sẽ chẳng ai xé tôi thành từng mảnh cả. Ít nhất là không phải vì cái tội người ta buộc cho tôi. Vậy nghĩa là gì? tôi tự hỏi. Là cái lũ đầu đất này vô cảm trước tội giết người chăng? Không. Ở đây, không nhiều thì ít, ai cũng nhạy cảm với những gì xảy ra bên ngoài, với nhịp đập của thành phố, có thể nói vậy. Nếu vậy thì là sao? tôi hỏi một người tù. Tôi hỏi hắn nghĩ gì về những người phụ nữ chết ấy, những cô gái chết ấy. Hắn nhìn tôi nói tụi nó là điếm mà. Vậy nói cách khác họ đáng chết? tôi hỏi. Không, thằng tù nói. Tụi nó đáng bị người ta muốn chơi bao nhiêu lần thì cứ việc chơi, nhưng chết thì không. Rồi tôi hỏi hắn có tin là tôi đã giết họ không thì thằng chó đẻ đó bảo không, mày thì chắc chắn là không, thằng Mẽo ạ, cứ như tôi là một thằng Mẽo đặc sệt nào ấy, mà có lẽ trong bản chất con người tôi thì đúng như vậy thật, mặc dù càng ngày tôi càng ít Mẽo hơn. Anh muốn nói gì với tôi? Sergio González hỏi. Rằng trong tù người ta biết tôi vô tội, Haas nói. Làm sao họ biết? Haas tự hỏi. Tôi phải nghĩ mãi mới ra. Giống như tiếng động ta nghe thấy trong mơ vậy. Giấc mơ này, cũng như mọi giấc mơ người ta mơ trong các không gian kín, có tính lây truyền. Đột nhiên có người mơ thấy nó và ít lâu sau phân nửa tù nhân cũng mơ thấy nó. Nhưng tiếng động ta nghe thấy không phải một phần của giấc mơ, nó là thực. Tiếng động này thuộc về một trật tự khác của vạn vật. Anh có hiểu không? Đầu tiên là ai đó rồi sau đấy tất tật mọi người nghe thấy một tiếng động trong một giấc mơ, nhưng tiếng động ấy không thuộc giấc mơ mà từ thực tại, tiếng động là thực. Anh có hiểu không? Nói thế có rõ không, ông phóng viên? Chắc là rõ, Sergio González nói. Có lẽ tôi hiểu điều anh nói. Anh có chắc là hiểu không, hiểu thật không? Haas hỏi. Ý anh là có ai đấy trong tù biết rõ mười mươi rằng ai chứ anh thì không thể gây ra các vụ giết người đó, Sergio nói. Chính xác, Haas nói. Anh biết cái con người đó là ai không? Tôi có ngờ ngợ, Hass nói, nhưng tôi cần thời gian, mà trong trường hợp của tôi thì thế thật ngược đời, anh có thấy vậy không? Tại sao? Sergio hỏi. Bởi vì ở đây thứ duy nhất tôi có ê hề là thời gian. Nhưng tôi cần nhiều thời gian hơn, rất nhiều, Haas nói. Sau đó Sergio muốn hỏi Haas về lời thú nhận của gã, về ngày mở phiên tòa, về cách cư xử của cảnh sát, nhưng Haas bảo anh để nói chuyện đó sau.

♣ ♣ ♣

Cũng đêm đó, thanh tra José Márquez kể cho thanh tra Juan de Dios Martínez về một cuộc trò chuyện anh vô tình nghe lỏm được ở một đồn cảnh sát Santa Teresa. Những người có mặt là Pedro Negrete, thanh tra Ortiz Rebolledo, thanh tra Ángel Fernández và Epifanio Galindo, cánh tay phải của Negrete, mặc dù trên thực tế từ đầu đến cuối Epifanio Galindo là người duy nhất không hé răng. Chủ đề cuộc trò chuyện là cuộc họp báo của Klaus Haas. Ortiz Rebolledo tin đó là lỗi của giám thị. Ắt hẳn Haas đã đút tiền cho y. Ángel Fernández tán đồng. Pedro Negrete thì nói chắc còn có gì đó nữa. Thêm một hai peso để uốn lão giám thị theo hướng này hay hướng nọ. Rồi tên của Enrique Hernández được nêu ra. Tôi tin là cái gã Enriquito Hernández này đã thuyết phục được giám thị, Negrete nói. Có thể, Ortiz Rebolledo nói. Đồ chó đẻ, Ángel Fernández nói. Và chỉ có thế. Sau đó José Márquez vào phòng, chào mọi người, đã dạm ngồi xuống nhưng Ortiz Rebolledo phẩy tay, ý bảo anh nên biến đi, và khi José đi ra rồi thì Ortiz Rebolledo liền tự mình đứng dậy đóng cửa để không ai còn quấy rầy họ nữa…

♣ ♣ ♣

Enrique Hernández ba mươi sáu tuổi. Có một dạo y làm việc cho Pedro Rengifo rồi sau đó cho Estanislao Campuzano. Y sinh ở Cananea và khi có đủ tiền y mua một nông trại gần đó, nuôi gia súc ở đấy, và một ngôi nhà, ngôi nhà đẹp nhất y đủ sức mua, ở trung tâm thành phố, chỉ cách quảng trường chợ có mấy bước. Toàn bộ tâm phúc của y cũng là dân Cananea. Người ta cho là y đảm trách việc vận chuyển ma túy - được đưa bằng đường biển tới Sonora, thả xuống đâu đó giữa Guaymas và Cabo Tepoca - bằng một đội xe gồm năm xe tải và ba chiếc Suburban. Sứ mệnh của y là giao hàng an toàn đến Santa Teresa, sau đó một người khác chịu trách nhiệm chở hàng sang Mỹ. Nhưng một hôm Enriquito Hernández gặp một tay El Salvador cũng là dân trong nghề và, cũng như y, muốn làm ăn độc lập, tay này liền giới thiệu y với một người Colombia, thế là bỗng dưng Estanislao Campuzano thấy không còn ai đảm nhận việc vận chuyển qua Mexico cho mình nữa và Enriquito đã trở thành đối thủ cạnh tranh. Song dù thế nào, khối lượng giao dịch giữa hai đằng là không thể so sánh được. Tính trung bình ra Enriquito vận chuyển được một ký thì Campuzano được hai mươi ký, tuy nhiên oán thù thì không phân biệt mức độ, thế nên Campuzano, nhẫn nại và không hấp tấp, chờ thời cơ của mình. Dĩ nhiên, tố giác Enriquito thì không tiện vì những lý do liên quan tới nghề buôn ma túy, thay vì vậy hắn muốn đẩy Enriquito ra khỏi cuộc chơi bằng những cách hợp pháp, rồi êm thắm giành tuyến đường về lại tay mình. Khi thời điểm đến (một vụ ẩu đả vì phụ nữ dẫn đến việc Enriquito quá tay giết chết bốn người trong cùng một gia đình), Campuzano liền trình báo với Viện Công tố Sonora, cung cấp nhỏ giọt tiền và manh mối, thế là cuối cùng Enriquito vào khám. Trong hai tuần đầu không có chuyện gì xảy ra, nhưng sang tuần thứ ba bốn tay súng xuất hiện tại một nhà kho ở ngoại ô San Blas, phía Bắc bang Sinaloa, giết hai bảo vệ và chở đi một lô hàng trăm ký cocain. Nhà kho này từng thuộc về một nông dân ở Guaymas, phía Nam Sonora, đã chết từ hơn năm năm trước. Campezano cử một tay chân thân tín đến điều tra vụ việc, tay này tên là Sergio Cansino (còn được biết đến là Sergio Carlos, còn được biết đến là Sergio Camargo, còn được biết đến là Sergio Carrizo), và sau khi dò hỏi ở trạm xăng lẫn xung quanh nhà kho thì y biết được rằng trong thời gian vụ cướp xảy ra, không chỉ một người đã nhìn thấy một chiếc Suburban màu đen ở khu vực đó, giống như chiếc mà người của Enriquito Hernández sử dụng. Vậy là Sergio đi loanh quanh các nông trại trong vùng, hy vọng biết đâu lại tìm ra được chủ nhân chiếc Suburban. Y đi đến tận El Fuerte, nhưng cả ở đó lẫn trong dúm vài trại chủ y gặp, chẳng ai có đủ tiền mua một chiếc Suburban. Sự thật này chẳng làm ai yên tâm được, nhưng nó chỉ là thế mà thôi, Estanislao Campuzano nghĩ, một sự thật cần được xét trong bối cảnh. Chiếc Suburban đó rất có thể là của một khách du lịch Mỹ bị lạc trong bụi bặm bốc mù hoặc là một xe cảnh sát đi ngang qua, không thì là của một quan chức cao cấp đi nghỉ cùng gia đình. Ít lâu sau, đang trên con đường đất từ La Discordia đến El Sasabe, gần biên giới với Hoa Kỳ, một chiếc xe tải chở hai mươi ký cocain cho Estanislao Campuzano đã bị tấn công, tài xế và người đi cùng bị giết, hai người này không mang theo vũ khí, vì định tối hôm đó sẽ qua biên giới vào Arizona, mà đã chở ma túy qua biên giới thì chẳng ai lại mang vũ khí. Hoặc chở vũ khí hoặc chở ma túy, chứ không đồng thời chở hai thứ. Chẳng ai biết gì thêm về những người trên chiếc xe tải ấy. Chỗ ma túy trên xe cũng vậy. Hai tháng sau chiếc xe xuất hiện ở một bãi phế liệu tại Hermosillo. Theo Sergio Cansino thì chủ bãi phế liệu đã mua chiếc xe, trong tình trạng thảm hại, từ ba thằng nghiện chuyên phạm tội vặt và làm chỉ điểm cho cảnh sát Hermosillo. Y nói chuyện với một trong ba thằng này, tên là El Elvis, và được biết nó đã mua lại chiếc xe từ một tay chơi người Sinaloa với giá bốn peso. Khi Sergio hỏi làm sao nó biết thằng cha đó là dân Sinaloa, El Elvis nói do cách hắn nói chuyện. Khi Sergio hỏi làm sao nó biết thằng cha đó là một tay chơi, El Elvis đáp là nhìn mắt hắn. Nhìn thẳng vào mình, phóng khoáng, chả sợ thằng nào, tay chơi thứ thiệt hẳn hoi, loại người có thể nã cho mình một viên kẹo đồng mà cũng có thể đổi chiếc xe tải của hắn cho mình lấy một điếu Marlboro hay một điếu cần sa. Vậy hắn đổi chiếc xe cho chú mày lấy một tép? Sergio cười rộ hỏi. Nửa điếu, El Elvis nói. Lần này thì đúng là Campuzano nổi cơn tam bành.

♣ ♣ ♣

Tại sao Enriquito Hernández, theo cách của mình, dĩ nhiên, lại bảo vệ Haas? thanh tra Juan de Dios Martínez tự hỏi. Hắn được lợi gì? Hắn làm hại cho ai khi bảo vệ Haas? Và anh cũng tự hỏi: hắn định bảo vệ Haas đến bao giờ? Một tháng, hai tháng, chừng nào hắn còn thấy cần? Và sao lại loại trừ lý do lòng thương cảm, tình bạn? Không thể có chuyện Enriquito đã kết bạn với Haas sao? Chẳng lẽ không thể có chuyện đấy là một quyết định chỉ xuất phát từ tình bạn hay sao? Nhưng không, Juan de Dios Martínez tự nhủ, Enriquito Hernández không có bạn.

♣ ♣ ♣

Tháng Mười năm 1995, không xuất hiện trường hợp phụ nữ chết nào ở Santa Teresa hay khu lân cận. Từ giữa cuối tháng Chín, như người ta nói, thành phố thở trong yên bình. Tuy nhiên, vào tháng Mười một, xác một cô gái xuất hiện ở hẻm núi El Ojito, về sau được xác định là Adela García Estrada, mười lăm tuổi, công nhân nhà máy EastWest, mất tích từ một tuần trước. Theo giám định pháp y, nguyên nhân tử vong là bị gãy xương móng. Cô mặc áo nỉ màu xám in hình một ban nhạc rock, bên dưới mặc xu chiêng màu trắng. Tuy nhiên vú phải của cô bị xẻo mất còn núm vú trái bị cắn đứt. Vụ này được giao cho thanh tra Lino Rivera, sau đó là thanh tra Ortiz Rebolledo và thanh tra Carlos Marín.

♣ ♣ ♣

Ngày 20 tháng Mười một, một tuần sau khi phát hiện xác Adela García Estrada, xác một cô gái không rõ danh tính được tìm thấy trên một lô đất trống ở quận La Vistosa. Người này tầm mười chín tuổi, nguyên nhân tử vong là nhiều vết dao đâm vào ngực, tất cả hoặc hầu như tất cả đều là vết thương trí mạng, hung khí là một con dao hai lưỡi. Cô gái mặc áo vét màu xám ngọc trai và quần đen. Khi cởi quần cô trong phòng giám định pháp y, người ta phát hiện ra cô còn mặc bên trong một cái quần nữa màu xám. Hành vi của con người thật bí ẩn, bác sĩ pháp y nói. Vụ này được giao cho thanh tra Juan Dios Martínez. Không ai đến nhận xác.

♣ ♣ ♣

Bốn ngày sau, xác chết tả tơi của Beatriz Concepción Roldán xuất hiện ven xa lộ Santa Teresa-Cananea. Nguyên nhân tử vong là một vết rạch dài sâu hoắm phanh người cô từ rốn đến cằm, có lẽ bằng dao rựa hay một con dao cỡ lớn. Beatriz Concepción Roldán hăm hai tuổi, cao một mét sáu lăm, mảnh mai, da ngăm. Tóc cô dài ngang lưng. Cô làm hầu bàn ở Madero- Norte và sống với Evodio Cifuentes cùng em gái anh ta, Eliana Cifuentes, mặc dù không ai trình báo về việc cô mất tích. Thân thể cô có nhiều vết bầm tím, nhưng vết thương duy nhất bằng dao là nguyên nhân tử vong, qua đó bác sĩ pháp y kết luận nạn nhân đã không tự vệ hoặc đang mất ý thức vào thời điểm bị tử thương. Sau khi ảnh cô được đăng trên La Voz de Sonora, một cú điện thoại nặc danh đã xác nhận cô là Beatriz Concepción Roldán, cư trú ở quận Sur. Bốn ngày sau, khi cảnh sát đến chỗ nạn nhân ở, căn nhà này - bốn mươi mét vuông, hai phòng ngủ nhỏ, phòng khách trang bị bàn ghế bọc nhựa trong suốt - vắng tanh. Theo hàng xóm, người tự xưng là Evodio Ciíuentes và em gái y Eliana đi đã sáu ngày rồi. Một phụ nữ hàng xóm đã thấy họ đi khỏi nhà, mỗi người kéo theo hai cái vali. Khi khám xét nhà, người ta không tìm thấy nhiều dấu ấn cá nhân của anh em Cifuentes. Lúc đầu vụ này được giao cho thanh tra Efraín Bustelo, và người này chẳng mấy chốc đã phát hiện ra anh em Cifuentes chỉ có thực ngang một cặp bóng ma. Chẳng có ảnh nào của họ. Các mô tả ông thu thập được đều mập mờ, nếu không thì là đánh nhau chan chát: Cifuentes thấp bé còn em gái y trông chả có gì nổi bật. Một hàng xóm nghĩ hình như Evodio Cifuentes làm việc ở nhà máy File-Sis, nhưng bảng lương của họ không có cái tên ấy, bây giờ không mà ba tháng gần đây nhất cũng không. Khi Efraín Bustelo yêu cầu cung cấp danh sách công nhân trong vòng sáu tháng trở lại đây, người ta cho biết là, đáng tiếc, do một nhầm lẫn kỹ thuật nên các danh sách đó đều đã mất hoặc đã lộn tùng phèo lên hết cả. Efraín Bustelo chưa kịp hỏi khi nào họ có thể phục hồi các danh sách ấy để ông xem qua thì một ủy viên ban quản trị File-Sis đã đưa ông một phong bì đầy tiền thế là Bustelo quên sạch vụ việc. Kể cả là có các danh sách đó đi nữa, kể cả là chẳng ai đốt chúng, thì nhìn vào đó mình chắc cũng chẳng thể tìm ra dấu vết nào của Evodio Cifuentes, ông nghĩ. Lệnh bắt hai anh em Cifuentes được phát ra, bay khắp các đồn cảnh sát trên cả nước như con muỗi bay quanh ngọn lửa trại. Vụ án mãi vẫn chưa được phá.

♣ ♣ ♣

Trong tháng Mười hai, tại một lô đất trống ở quận Morelos, phía trên phố Colima và phố Fuesanta, không xa trường Dự bị Morelos, người ta thấy xác Michelle Requejo. Nạn nhân mất tích một tuần trước. Phát hiện xác là mấy đứa trẻ thường chơi bóng chày ở lô đất ấy. Michelle Requejo sống ở quận San Damián, phía Nam thành phố, và làm việc ở nhà máy Horizon W&E. Con bé mười bốn tuổi, mảnh mai, dễ mến. Được biết con bé không có bạn trai. Mẹ con bé làm cùng nhà máy và thời gian rảnh bà kiếm thêm vài đồng bằng nghề bói toán và chữa bệnh. Khách hàng của bà hầu hết là chị em lối xóm hay vài đồng nghiệp gặp khó khăn về đường tình duyên. Cha con bé làm ở nhà máy Aguilar&Lennox. Hầu như tuần nào ông cũng làm hai ca. Con bé có hai em gái dưới mười tuổi đang đi học và một anh trai mười sáu tuổi làm việc cùng cha ở Aguilar&Lennox. Michelle Requejo bị đâm nhiều nhát vào hai tay và ngực. Con bé mặc áo cánh màu đen bị rách nhiều chỗ, có lẽ bởi cùng một con dao. Quần nó là kiểu bó sát, bằng vải tổng hợp, bị kéo xuống đến đầu gối. Con bé mang giày tennis Reebok màu đen. Hai tay nó bị trói sau lưng và chỉ sau đó một chút có người để ý thấy thừng được thắt cùng cách với dây thừng trói Estrella Ruiz Sandoval, điều này khiến một số cảnh sát mỉm cười. Vụ này được giao cho José Márquez, anh này thảo luận về những điểm đặc biệt của vụ án với Juan de Dios Martínez. Martínez chỉ ra rằng nút thắt không phải sự trùng hợp kỳ lạ duy nhất, mà trên thực tế, một tội ác khác đã xảy ra trên một cánh đồng bên cạnh trường Dự bị Morelos. Jose Márquez không nhớ vụ ấy. Juan de Dios Martínez cho biết nạn nhân là một phụ nữ chưa từng được nhận dạng. Đêm ấy hai thanh tra ghé lại lô đất trống nơi người ta thấy xác Michelle Requejo. Họ đứng một hồi quan sát những bóng đen chờn vờn nơi lô đất. Đoạn họ xuống xe đi bộ giữa đám cây b