← Quay lại trang sách

PHẦN NĂM (C) PHẦN VỀ ARCHIMBOLDI

Suốt ba tháng sau đó Reiter cố thu xếp sao cho dành được hầu hết thời gian của mình để ở bên Ingeborg. Anh mua rau và trái cây ở chợ đen. Anh mua sách cho cô đọc. Anh nấu nướng và quét dọn căn gác xép họ ở chung. Anh đọc sách y khoa và lùng kiếm đủ loại thuốc. Một sáng nọ mẹ cùng hai em gái của Ingeborg xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Bà mẹ ít nói và cư xử đúng mực, nhưng hai cô em, một cô mười tám còn cô kia mười sáu, thì chỉ nghĩ đến chuyện ra ngoài đi thăm những nơi thú nhất trong thành phố. Một hôm Reiter bảo các cô rằng nơi thú vị nhất ở Cologne chính là căn gác xép của anh thế là hai cô em gái của Ingeborg cả cười. Reiter, vốn chỉ cười khi ở cùng với Ingeborg, cũng cả cười. Một đêm nọ anh đưa họ đến chỗ anh làm. Hilde, cô mười tám tuổi, khinh khỉnh nhìn mấy cô gái điếm hay lui tới quán, nhưng đêm đó cô bỏ đi cùng với hai trung úy trẻ người Mỹ và mãi xế chiều hôm sau mới trở về, khiến bà mẹ lo sốt vó và buộc tội Reiter làm nghề ma cô dắt gái.

Mặt khác, tình trạng bệnh tật đã mài sắc thêm cơn khát tình của Ingeborg, nhưng căn gác xép lại nhỏ và tất cả mọi người ngủ chung một phòng, khiến Reiter cảm thấy lúng túng mỗi khi anh đi làm về nhà lúc năm sáu giờ sáng mà Ingeborg lại đòi hai người phải làm tình. Khi anh cố giải thích rằng mẹ cô hoàn toàn có thể nghe thấy, bởi bà không điếc, Ingeborg liền nổi giận nói anh không còn ham muốn cô nữa. Một đêm nọ cô em gái út, Grete, mười sáu tuổi, đi dạo cùng Reiter loanh quanh những đống đổ nát của khu phố và kể với anh rằng hồi ở Berlin đã có nhiều bác sĩ và nhà trị liệu thần kinh đến khám cho chị cô và tất cả đều chẩn đoán cô bị điên.

Reiter nhìn cô: cô giống Ingeborg nhưng đậm người hơn và cao hơn. Thật ra, cô cao và trông dáng thể thao đến độ chẳng khác gì vận động viên ném lao.

“Ba tụi em là người Quốc xã,” Grete nói, “cả chị Ingeborg cũng vậy, hồi đó chị ý là Quốc xã. Anh hỏi chị ấy mà xem. Chị ấy từng ở trong Đoàn Thanh niên Hitler.”

“Vậy là, theo em, cô ấy điên?” Reiter nói.

“Điên toàn tập,” cô em nói.

Ít lâu sau, Hilde cho anh biết Grete đang mê anh.

“Vậy là, theo em, Grete mê anh?”

“Mê đến điên cuồng,” Hilde nói, đảo hai con mắt.

“Thú quá nhỉ,” Reiter nói.

Một sáng nọ, sau khi lặng lẽ vào nhà, cố không làm cho ai trong số bốn người đàn bà đang ngủ kia sực tỉnh, Reiter nằm lên giường, kéo thân thể nóng bừng của Ingeborg áp vào mình và biết ngay cô đang sốt, thế là hai mắt anh trào lệ và anh bắt đầu thấy chóng mặt, nhưng một cách từ từ đến nỗi cảm giác đó không hoàn toàn khó chịu.

Thế rồi anh cảm thấy bàn tay của Ingeborg nắm lấy cái củ của anh và bắt đầu ve vuốt nó thế là anh liền lấy tay trật áo ngủ của Ingeborg lên tới eo lưng cô đoạn tìm âm vật cô và đến lượt mình cũng mơn trớn nó, vừa làm vừa nghĩ đến những chuyện khác, về cuốn tiểu thuyết của mình vốn vẫn đang tiến triển, về những biển của nước Phổ những con sông của nước Nga và về những con quái vật hiền lành sống trong những vùng nước sâu bên bờ bán đảo Crimea, cho đến khi anh cảm thấy bên cạnh bàn tay mình hai ngón tay của Ingeborg lùa vào âm hộ cô rồi sau đó cũng hai ngón ấy vuốt cho ướt cửa hậu môn cô và yêu cầu anh, không, ra lệnh anh thọc vào cô qua hậu môn, bây giờ, ngay lập tức, thế là Reiter làm chẳng hề đắn đo cũng chẳng hề cân đong hậu quả việc mình làm, mặc dù anh biết rất rõ Ingeborg phản ứng ra sao, nhưng đêm đó nỗi thôi thúc của anh giống như thôi thúc của một người đang ngủ, không có khả năng thấy trước một cái gì mà chỉ chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại, và như thế trong khi họ làm tình và Ingeborg rên rỉ, anh thấy từ một góc nhà trồi lên không phải một dáng hình mà là một cặp mắt mèo, cặp mắt ấy bềnh bồng trôi lên và treo lơ lửng trong bóng tối, rồi thì một cặp mắt nữa dâng lên và dừng lại trong sáng tối nhá nhem, và anh nghe Ingeborg bằng giọng khàn đặc ra lệnh cho mấy con mắt ấy ngủ lại đi, thế rồi anh cảm thấy thân thể người đàn bà của mình bắt đầu run lên cả anh cũng bắt đầu run anh liền nghĩ thế này là tốt, sẽ giảm sốt, và anh nhắm mắt lại mà tiếp tục mơn trớn cơ quan sinh dục của Ingeborg bằng tay trái thế rồi khi mở mắt ra anh thấy năm cặp mắt mèo đang trôi trong bóng tối, điều đó anh cảm thấy là dấu hiệu không thể nhầm lẫn rằng anh đang mơ, bởi vì ba cặp mắt, của hai cô em và của bà mẹ Ingeborg thì âu còn hợp lý, nhưng năm cặp mắt thì thật bất nhất về không thời gian, trừ phi mỗi cô trong hai cô em đều đưa một người yêu về nhà trong đêm đó, một chuyện cũng chẳng trong phạm vi những gì có thể, không thể xảy ra cũng không thể tin được.

Hôm sau Ingeborg đâm ra bẳn tính, các cô em hay bà mẹ có làm hay nói gì đi nữa cô cũng đều cảm thấy như là nhằm chọc tức cô. Từ đó trở đi tình hình trở nên căng thẳng đến độ cô không đọc được mà anh cũng không viết được. Đôi khi Reiter có cảm tưởng Ingeborg ghen với Hilde, trong khi cô em mà cô có lý do chính đáng để ghen là Grete mới phải. Thỉnh thoảng, trước khi đi làm, Reiter đứng nơi cửa sổ căn gác xép nhìn cảnh hai tay sĩ quan của Hilde đứng nơi vỉa hè đối diện gọi tên cô và huýt sáo. Hơn một lần anh đưa cô xuống cầu thang và khuyên cô cẩn thận. Hờ hững, Hilde đáp:

“Họ làm gì được em chớ? Ném bom em chắc?”

Đoạn cô cười to và Reiter cũng cười to theo.

“Tệ lắm thì họ cũng chỉ có thể làm với em điều mà anh đã làm với Ingeborg,” có lần cô nói, và Reiter cứ nghiền đi ngẫm lại câu này suốt một thời gian dài.

Mình đã làm gì với Ingeborg. Anh đã làm gì Ingeborg ngoài yêu cô ấy?

Cuối cùng, một ngày kia mẹ và hai em gái của Ingeborg quyết định quay về ngôi làng ở Westerwald nơi gia đình họ đã an cư thế là Reiter và Ingeborg lại được một mình bên nhau. Giờ mình có thể yên ổn mà yêu đương rồi, Ingeborg nói. Reiter nhìn cô: Ingeborg đã trở dậy và đang dọn dẹp nhà cửa chút ít. Chiếc áo ngủ cô mặc có màu ngà và hai bàn chân cô dài, xương xẩu, gần như cùng màu với chiếc áo. Từ hôm đó trở đi sức khỏe của cô khá lên đáng kể và khi đã đến cái ngày định mệnh mà ông bác sĩ người Anh kia tiên báo, cô khỏe hơn bao giờ hết.

Ít lâu sau cô tìm được chỗ làm tại một hiệu may chuyên biến đồ cũ thành đồ mới và đồ lỗi mốt thành đồ hợp mốt. Hiệu may chỉ có mỗi ba máy may, song nhờ sự tháo vát của bà chủ, một phụ nữ táo bạo và bi quan tin chắc rằng Thế chiến thứ ba muộn nhất sẽ khởi đầu vào năm 1950, mà việc làm ăn của hiệu rất phát đạt. Ban đầu việc của Ingeborg là khâu lại với nhau các mẫu vải mà bà Raab đã cắt đúng theo số đo của khách, nhưng chẳng bao lâu sau do cửa hiệu thì nhỏ mà lượng hàng lại quá nhiều nên nhiệm vụ của cô là đến các hiệu quần áo dành cho phụ nữ mà nhận đơn đặt hàng rồi sau đó chính cô thực hiện các đơn hàng ấy.

Vào dạo ấy Reiter hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay. Anh đặt tên cho nó là Lüdicke và anh phải lang thang khắp các con phố heo hút của Cologne tìm ai đó có thể cho anh thuê máy đánh chữ, bởi anh đã quyết định sẽ không mượn hoặc thuê máy chữ của bất cứ ai quen biết, nói cách khác là của một người biết tên anh là Hans Reiter. Cuối cùng anh gặp một ông già có một cái máy chữ của Pháp, ông này vốn dĩ không hay cho thuê máy song với các nhà văn thì thỉnh thoảng cũng có ngoại lệ.

Ông già đòi giá cao nên lúc đầu Reiter nghĩ tốt hơn nên đi tìm kiếm tiếp, nhưng khi nhìn thấy cái máy chữ, được bảo quản tuyệt vời, tịnh không hạt bụi, tất cả các con chữ đều đang sẵn sàng để lại dấu ấn của mình trên giấy, anh liền quyết định mình có thể tự cho mình chơi sang mà thuê nó. Ông già đòi đưa tiền trước nên ngay đêm ấy, ở quán bar, Reiter hỏi mượn được tiền của mấy cô gái điếm. Hôm sau anh quay lại đưa tiền cho ông già, thế là ông lấy nơi bàn giấy ra một cuốn sổ và hỏi tên anh. Reiter nói ra cái tên đầu tiên nảy ra trong trí.

“Tên tôi là Benno von Archimboldi.”

Ông già nhìn vào mắt anh mà nói đừng có giỡn với tôi, tên thật của anh là gì.

“Tên tôi là Benno von Archimboldi, thưa ông,” Reiter nói, “còn nếu ông nghĩ tôi đang giỡn thì tốt nhất tôi nên đi thôi.”

Hai bên im lặng một chặp. Mắt ông già màu nâu sẫm, tuy nhiên dưới ánh sáng tù mù của căn phòng cặp mắt ấy trông như đen. Mắt Archimboldi màu xanh lơ và ông già cảm thấy nó như mắt một nhà thơ trẻ, một cặp mắt mỏi mệt, bơ thờ, ngầu đỏ, tuy nhiên trẻ và theo nghĩa nào đó là thuần khiết, dẫu đã từ lâu ông già thôi không tin vào sự thuần khiết nữa.

“Đất nước này,” ông nói với Reiter, người mà chiều hôm đó đã trở thành Archimboldi, hẳn vậy, “đã cố hất xuống vực thẳm nhiều đất nước khác nhân danh sự thuần khiết và ý chí. Với tôi, hẳn anh có thể hiểu được, sự thuần khiết và ý chí chỉ là cứt đái, không hơn. Nhờ sự thuần khiết và ý chí mà tất cả chúng ta, tất cả không trừ ai, anh đã nghe chưa, đều trở thành lũ hèn nhát và tội phạm, những thứ mà rốt cuộc thì cũng chỉ là một. Giờ thì chúng ta thút thít kêu rên mà nói chúng tôi không biết! chúng tôi có biết gì đâu! là bọn Quốc xã mà! nếu là chúng tôi thì chúng tôi đã chẳng đời nào làm vậy! Chúng ta biết cách than van. Chúng ta biết cách khêu gợi lòng thương. Người ta lăng nhục chúng ta cũng chả làm sao hết miễn người ta thương hại chúng ta và tha thứ chúng ta. Sẽ có ối thời gian để chúng ta khởi đầu cả một kỳ nghỉ dài của lãng quên. Anh có hiểu tôi không?”

“Tôi hiểu,” Archimboldi nói.

“Tôi từng là nhà văn,” ông già nói.

♣ ♣ ♣

“Nhưng tôi bỏ viết rồi. Máy chữ này là quà của ba tôi tặng tôi. Một người cha có văn hóa và đầy tình cảm sống đến tận tuổi chín mươi ba. Một người về cơ bản là tử tế. Một người tin ở sự tiến bộ, còn phải nói. Tội nghiệp ba tôi. Ông tin vào sự tiến bộ và bởi vậy tin vào tính thiện bản nguyên của giống người. Tôi cũng tin ở tính thiện bản nguyên của giống người, nhưng điều đó chả có ý nghĩa gì. Một kẻ giết người, trong sâu thẳm, là người tốt. Điều đó người Đức chúng ta biết rõ. Rồi sao? Tôi có thể uống rượu cả đêm với một kẻ giết người, hai chúng tôi ngắm mặt trời lên, có thể chúng tôi sẽ buột mồm hát hoặc âm ư một bài của Beethoven. Rồi sao? Rồi có thể kẻ giết người sẽ khóc trên vai tôi. Bình thường. Làm kẻ giết người không dễ. Điều đó anh và tôi biết rõ. Chẳng có gì dễ hết. Nó đòi ta phải có sự thuần khiết và ý chí, ý chí và sự thuần khiết. Sự thuần khiết như pha lê và ý chí thép. Và kể cả tôi cũng có thể khóc trên vai kẻ giết người và thì thầm với y những từ ngọt ngào như ‘người anh em’, ‘bạn thân thiết’, ‘bằng hữu chung cảnh ngộ’. Vào khoảnh khắc đó kẻ giết người là người tốt, bởi tự trong bản chất y tốt, còn tôi là thằng ngốc, bởi tự trong bản chất tôi ngốc, và cả hai chúng tồi đều đa cảm, bởi nền văn hóa của chúng ta có xu hướng không thể lay chuyển là thiên về đa cảm. Nhưng khi màn diễn đã dứt và tôi còn lại một mình, kẻ giết người sẽ mở cửa sổ phòng tôi, bước vào rón rén như một anh y tá mà cắt họng tôi cho đến khi máu tôi chảy kiệt hết.

“Tội nghiệp ba tôi. Tôi từng là nhà văn, từng là nhà văn, nhưng bộ não lười biếng tham lam của tôi ngốn ngấu chính ruột tôi. Là con kền kền của cái ngã Prometheus của tôi hay Prometheus của cái ngã kền kền của tôi, một ngày kia tôi hiểu ra rằng mình có thể đi xa đến mức cho in những bài báo kiệt xuất trên báo trên tạp chí và kể cả cho in những cuốn sách thậm chí còn không xứng với chỗ giấy được dùng để in ra chúng. Nhưng tôi cũng hiểu mình sẽ chẳng bao giờ đến gần được hoặc dấn đến được cái người ta gọi là kiệt tác. Tôi có thể nói rằng văn chương không phải chỉ gồm toàn kiệt tác, mà đúng hơn nó đầy những cái người ta gọi là tác phẩm tầm tầm. Tôi từng tin cả như thế nữa. Văn chương là một khu rừng bao la và các kiệt tác là những cái hồ, những cây cao ngất hoặc những cây cực lạ, những kỳ hoa dị thảo hay những hang động khuất mắt con người, nhưng một khu rừng còn bao gồm cả những loài cây thường, những vạt cỏ, những vũng nước, những dây leo, những loài nấm, những loài hoa dại con con. Tôi đã lầm. Trên thực tế, chẳng hề có những tác phẩm tầm tầm. Ý tôi muốn nói, tác giả một tác phẩm tầm tầm không phải là một ông X bà Y. Ông X và bà Y nào đó có thì có đấy, hiển nhiên rồi, họ vật vã họ cày cục và họ cho in trên báo in trong tạp chí và kể cả thi thoảng cho in một cuốn sách chẳng xứng với chỗ giấy dùng để in nó, nhưng mấy cuốn sách ấy hay mấy bài báo ấy, nếu nhìn kỹ anh sẽ thấy, nó đâu phải là do họ viết ra.

“Mỗi tác phẩm tầm tầm đều có một tác giả bí ẩn và mỗi tác giả bí ẩn, theo định nghĩa, là một nhà văn viết ra kiệt tác. Ai viết ra tác phẩm tầm tầm? Một nhà văn tầm tầm, hoặc có vẻ vậy. Vợ tay nhà văn tầm tầm tội nghiệp có thể làm chứng, chị ta đã thấy anh ta ngồi nơi bàn, gò lưng trên mớ trang trắng, bứt ra bứt rứt cựa mình, ngòi bút chạy trên mặt giấy. Có vẻ là một bằng chứng không thể bác bỏ. Song những gì ta thấy được chỉ là bề ngoài. Cái vỏ ngoài của văn chương. Một giả hình,” ông già nói và Archimboldi liền nhớ đến Ansky. “Kẻ thực sự đang viết cái tác phẩm tầm tầm ấy là một nhà văn bí ẩn vốn chỉ chấp nhận những gì mà một kiệt tác đọc cho anh ta chép lại.

“Anh thợ cừ của chúng ta viết. Anh ta đắm vào cái đang hình thành dù hay dù dở trên trang giấy. Vợ anh ta quan sát anh ta dù anh ta không hay biết. Quả thật anh ta chính là người viết. Nhưng nếu vợ anh ta có con mắt nhìn được như tia X thì chị ta sẽ biết mình không phải đang có mặt tại một phiên sáng tạo văn chương, mà là đang chứng kiến một cuộc thôi miên. Bên trong cái con người đang ngồi viết đó chả có gì ráo. Chả có gì là chính anh ta, tôi muốn nói vậy. Giá anh ta hiến mình cho việc đọc thì sẽ hay hơn cho anh ta biết bao nhiêu. Việc đọc là khoái lạc và niềm vui được sống hoặc nỗi buồn phải sống và trên tất cả nó là hiểu biết và những câu hỏi. Trong khi đó, sự viết hầu như luôn luôn trống rỗng. Trong lòng người đang ngồi viết chẳng có gì. Ý tôi là chẳng có thứ gì mà vợ anh ta, vào một thời điểm nhất định, có thể nhận ra. Anh ta viết như được ai đó đọc cho mà viết. Cuốn tiểu thuyết hay mấy bài thơ của anh ta, đường được, tàm tạm, nảy sinh ra không phải từ sự trui rèn phong cách hay ý chí như anh chàng bất hạnh đáng thương vẫn tin, mà là kết quả của một sự trui rèn thuật che giấu. Cần phải có nhiều sách, nhiều cây thông đẹp tuyệt, để giấu đi để những cặp mắt đói khát khỏi nhìn thấy được cuốn sách thực sự quan trọng, cái hang khốn kiếp của bất hạnh của chúng ta, đóa hoa mê hoặc của mùa đông!

“Tôi dùng ẩn dụ nọ kia anh bỏ quá cho nhé. Đôi khi hứng lên tôi đâm ra lãng mạn. Nhưng nghe này. Bất cứ tác phẩm nào không phải kiệt tác thì theo nghĩa nào đó đều là một phần của một lớp ngụy trang to lớn mênh mông. Anh từng là lính, chắc anh biết ý tôi muốn nói gì. Bất cứ cuốn sách nào không phải kiệt tác đều là cái bia hứng đạn, thứ bộ binh đi hàng đầu thí mạng, bởi vì nó bắt chước theo nhiều cách cái sườn cốt của một kiệt tác. Khi tôi ngộ ra được điều này, tôi bỏ viết. Tuy nhiên, tâm trí tôi không thôi hoạt động. Ngược lại, khi tôi không viết thì nó còn hoạt động mạnh mẽ hơn. Tôi tự hỏi: tại sao một kiệt tác lại cần phải bị giấu kín? những lực bí ẩn nào lôi nó về phía sự bí ẩn và sự u huyền?

“Nay thì tôi biết viết văn là vô ích. Hoặc viết văn chỉ đáng nếu như ta muốn và đã sẵn sàng viết một kiệt tác. Hầu hết các nhà văn đều lầm lạc hoặc đều đóng trò. Có lẽ lầm lạc và đóng trò là cùng một thứ, hai mặt của một đồng tiền. Trên thực tế chúng ta chẳng bao giờ thôi là lũ trẻ nít, những đứa trẻ nít quái gở lở loét gân xanh đầy bướu đầy u đầy đốm đồi mồi song nói gì thì nói vẫn là trẻ nít, nói cách khác chúng ta chẳng bao giờ chịu thôi bám víu vào cuộc sống bởi chúng ta là cuộc sống. Cũng có thể nói: chúng ta là sân khấu, chúng ta là âm nhạc. Cũng vậy, ít có nhà văn nào bỏ cuộc. Chúng ta chơi trò tin mình bất tử. Chúng ta tự dối mình trong sự đánh giá tác phẩm của chính mình và trong sự đánh giá luôn luôn sai lạc tác phẩm của những người khác. Hẹn gặp nhau ở giải Nobel, các nhà văn nói, giống như người ta nói: hẹn gặp nhau ở địa ngục.

“Có lần tôi xem một phim găngtơ của Mỹ. Trong một cảnh nọ một tay thám tử giết một thằng tội phạm và trước khi nổ súng tay này nói: hẹn gặp nhau ở địa ngục. Tay này đang diễn trò. Tay thám tử đang diễn trò và đang lầm lạc. Thằng tội phạm đang nhìn anh ta và chửi rủa anh ta trước khi chết, thằng ấy cũng đang diễn trò và cũng bị lừa, cho dù sân diễn và sân lầm lạc của hắn đã bị thu nhỏ lại gần như bằng không, bởi vì sang cảnh tiếp là hắn đã sắp chết rồi. Đạo diễn phim ấy cũng diễn trò. Tác giả kịch bản cũng vậy. Hẹn gặp nhau ở Nobel. Chúng ta sẽ đi vào lịch sử. Nhân dân Đức sẽ nhớ ơn chúng ta. Một trận chiến hào hùng sẽ được các thế hệ mai sau ghi nhớ. Một tình yêu bất tử. Một cái tên khắc vào đá hoa cương. Giờ của những nữ thần Muse. Kể cả một câu có vẻ vô hại đến vậy cũng dường như nói: những tiếng vang của văn chương Hy Lạp cũng chẳng là gì hơn lầm lạc với diễn trò.

“Diễn trò và lầm lạc là thứ che mắt và thứ thúc giục các nhà văn tầm tầm. Và cũng là lời hứa hẹn tương lai hạnh phúc của họ. Một khu rừng cứ lớn lên lớn lên với tốc độ chóng mặt, một khu rừng chẳng ai có thể quây rào, kể cả các viện hàn lâm, ngược lại là khác, các viện hàn lâm lo liệu sao cho nó lớn lên không bị gì ngăn trở, cả các doanh nhân các trường đại học (nơi ươm mầm những tên càn rỡ) cả các cơ quan nhà nước các nhà bảo trợ các hiệp hội văn hóa và những kẻ bình thơ, tất thảy góp phần làm cho khu rừng cứ lớn mãi lên và che giấu những thứ cần phải che giấu, tất thảy góp phần làm cho khu rừng tái sản sinh những thứ cần phải tái sản sinh, mặc dù chẳng bao giờ có ai được thấy chính xác ra cái gì đang được tái sản sinh, cái gì đang được phản chiếu lại một cách mơ hồ.

“Đạo văn, anh nói vậy chớ gì? Ừ phải, đạo văn, theo nghĩa là mọi tác phẩm tầm tầm, mọi tác phẩm từ ngòi bút của một tác gia tầm tầm, chẳng thể là gì hơn ngoài cái thứ đạo lại từ một kiệt tác. Khác biệt nhỏ ở đây là ta đang nói về một sự đạo văn được chuẩn thuận. Sự đạo văn nó là một thứ ngụy trang, nó là một phông cảnh bằng gỗ và vải bạt trên sân khấu, nó là một tuồng giả trá ắt rồi sẽ dẫn chúng ta đến hư vô.

“Nói gọn: kinh nghiệm là tốt nhất. Tôi sẽ không nói rằng anh không thể có được kinh nghiệm bằng cách thường xuyên lui tới thư viện, tuy nhiên thư viện vẫn đứng sau kinh nghiệm. Kinh nghiệm là mẹ của khoa học, người ta hay nói vậy. Hồi tôi còn trẻ và còn đang nghĩ mình sẽ làm nên sự nghiệp trong văn giới, tôi đã gặp một nhà văn lớn. Một nhà văn lớn có lẽ đã viết một kiệt tác duy nhất, mặc dù theo nhận định của tôi mọi thứ ông ấy viết đều là kiệt tác.

“Tôi không cho anh biết tên ông ấy đâu. Anh mà biết cái tên ấy thì chẳng hay gì, với lại chẳng nhất thiết anh phải biết thì mới nghe câu chuyện được. Chỉ cần nói rằng ông ấy là người Đức và một hôm ông ấy đến Cologne diễn thuyết. Dĩ nhiên tôi chẳng bỏ lỡ buổi nào trong ba buổi diễn thuyết của ông ấy ở trường đại học. Tại buổi cuối tôi giành được ghế ở hàng đầu, và thay vì nghe (thật ra ông ấy chỉ lặp lại những gì đã nói tại buổi đầu và buổi thứ hai), tôi quan sát từng chi tiết nơi ông, hai bàn tay ông chẳng hạn, xương xẩu và đầy khí lực, cái cổ của ông già, giống như cổ con gà tây hay con gà trống trụi lông, cặp xương hàm phảng phất nét Xlavơ, cặp môi không sinh khí, đôi môi mà người ta có thể lấy dao rạch đứt nhưng rồi cầm chắc sẽ không có giọt máu nào từ đó chảy ra, hai bên thái dương màu xám giống như biển đang dậy sóng, và trên hết là cặp mắt, cặp mắt sâu, cặp mắt mà, tùy theo những cử động nhỏ nhất của đầu ông, đôi lúc trông như hai đường hầm vô tận, hai đường hầm bị bỏ phế và sắp sụp tới nơi.

“Dĩ nhiên, bài diễn thuyết vừa kết thúc là ông ta liền bị đám có máu mặt của thành phố cuỗm đi nên tôi thậm chí còn không thể bắt tay ông ấy mà nói tôi ngưỡng mộ ông ấy biết bao. Thời gian trôi qua. Nhà văn ấy chết và tôi cứ đọc tới đọc lui ông ấy, âu cũng dễ hiểu. Rồi đến cái ngày tôi quyết định bỏ văn chương. Tôi bỏ. Cái bước ấy hoàn toàn chẳng đau đớn gì, nó giải phóng tôi thì có. Giữa hai ta với nhau, tôi thú nhận với anh rằng nó giống như mình quyết định mất trinh. Nhẹ người biết bao, bỏ văn chương, thôi không viết nữa mà chỉ đọc!

“Nhưng đó là chuyện khác. Ta sẽ nói đến chuyện đó khi anh đem trả máy cho tôi. Nhưng dù gì thì ký ức về chuyến thăm của nhà văn lớn ấy đến thành phố của tôi vẫn không chịu rời tôi. Dạo đó tôi bắt đầu đi làm ở một nhà máy làm dụng cụ quang học. Tôi kiếm sống khá. Tôi độc thân, tôi có tiền, tuần nào tôi cũng đi xem phim, xem kịch, xem triển lãm, còn học cả tiếng Anh và tiếng Pháp, và đến nhà sách, gặp cuốn nào thấy thích là mua.

“Một cuộc sống dễ dàng thoải mái. Nhưng tôi không sao rũ bỏ được hồi ức về chuyến thăm của nhà văn lớn, mà không chỉ vậy, tôi chợt nhận ra mình chỉ nhớ có mỗi bài diễn thuyết thứ ba, và ký ức tôi cứ xoay quanh khuôn mặt ông, như thể khuôn mặt ông đã cố nói với tôi điều gì đó song rốt cuộc không nói. Nhưng điều gì? Một hôm, vì những lý do không liên quan, tôi đi cùng một anh bạn làm bác sĩ đến nhà xác của bệnh viện. Chắc anh chưa đến đó bao giờ. Nhà xác nằm ở tầng hầm, là một phòng dài tường lát gạch men trắng, trần bằng gỗ. Chính giữa có một bục cao lên ở đó người ta làm giải phẫu pháp y, mổ xác và những trò khoa học quái gở khác. Phía sau có hai phòng làm việc nhỏ, phòng của trưởng khoa pháp y và phòng của ông giáo sư khác. Ở hai đầu phòng là các phòng lạnh trữ xác, xác những kẻ bần cùng khố rách áo ôm hoặc của những người không giấy tờ tùy thân đang trọ trong mấy khách sạn rẻ tiền thì bị Thần Chết đến mang đi.

“Dạo đó tôi thể hiện một mối quan tâm rõ là bệnh hoạn đối với những chỗ như thế và anh bạn làm bác sĩ của tôi xăng xái tự mình đảm trách nhiệm vụ thuyết minh chi tiết cho tôi, thậm chí chúng tôi còn đến dự cuộc mổ pháp y cuối cùng trong ngày. Rồi thì bạn tôi vào phòng trưởng khoa thế là tôi còn lại một mình ngoài hành lang đợi anh ta, trong khi sinh viên thì cũng đi khỏi và một thứ lờ đờ mụ mị của giờ khắc chạng vạng bò qua khe cửa chui vào giống như hơi độc. Sau khi đợi mười phút tôi nghe một âm thanh từ phía một trong mấy phòng lạnh làm tôi giật thót. Tôi cam đoan với anh rằng hồi đó chừng ấy thôi là đủ làm bở vía bất cứ ai, tuy nhiên tôi chưa bao giờ là một tên quá ư chết nhát thế nên tôi bèn tiến về phía đó.

“Khi tôi mở cửa một luồng khí lạnh ập vào mặt tôi. Cuối phòng, cạnh một chiếc cáng, một người đang cố mở một ngăn lạnh để cất vào đó một cái xác, nhưng dù ông ta đã cố hết sức bình sinh, cửa cái ngăn hay cái hộc ấy vẫn không nhúc nhích. Vẫn không rời ngưỡng cửa, tôi hỏi ông ta có cần tôi giúp không. Người kia thẳng mình lên, ông ta rất cao, nhìn tôi với vẻ mà tôi thấy là đầy tuyệt vọng. Có lẽ chính vì cảm nhận được nỗi tuyệt vọng trong mắt ông ta mà tôi mới đủ gan tiến đến chỗ ông ta. Vừa tiến đến ông ta, hai bên là hai dãy xác chết, tôi vừa châm một điếu thuốc để trấn tĩnh và khi đã lại gần ông ta việc đầu tiên tôi làm là mời ông ta một điếu thuốc khác, có lẽ để gượng khơi ra một tình bằng hữu vốn không có thật.

“Chỉ khi đó nhân viên nhà xác mới nhìn tôi và như thể tôi đã đi ngược thời gian. Mắt ông ta giống hệt mắt của nhà văn lớn từng diễn thuyết ở Cologne và tôi đã đến nghe không sót buổi nào như một con chiên ngoan đạo. Tôi thú nhận rằng lúc đó, trong vài giây, thậm chí tôi ngỡ đâu mình đã phát điên. Chính giọng nói của nhân viên nhà xác, chả giống tí nào với giọng nồng ấm của nhà văn vĩ đại, chính nó đã cứu tôi khỏi cơn hoảng loạn. Ông ta nói: Ở đây cấm hút thuốc.

“Tôi không biết trả lời sao. Ông ta nói thêm: khói thuốc có hại cho người chết. Tôi cười rộ. Ông ta cho thêm một lời giải thích: khói thuốc ảnh hưởng đến quá trình bảo quản. Tôi phác một cử chỉ bất hợp tác. Ông ta cố một lần cuối: ông ta nói về những bộ lọc, ông ta nói về các mức ẩm, ông ta phát ra từ ‘thuần khiết’. Tôi lại mời ông ta điếu thuốc và ông ta tuyên bố với vẻ đầy cam chịu rằng ông ta không hút thuốc. Tôi hỏi ông ta làm việc ở đây đã lâu chưa. Bằng giọng vô cảm và có phần the thé ông ta bảo ông ta làm việc ở trường đại học từ lâu rồi, trước cả cuộc chiến năm 1914.

” ‘Lúc nào cũng ở nhà xác?’ tôi hỏi.

” ‘Tôi không biết chỗ nào khác,’ ông ta đáp.

” ‘Lạ nhỉ,’ tôi nói, ‘nhưng mặt ông, mà nhất là mắt ông, khiến tôi nhớ lại mắt một nhà văn Đức lớn.’ Đến đây tôi nhắc tên nhà văn kia.

” ‘Tôi chưa bao giờ nghe nói đến ông ta,’ ông kia đáp.

“Giá như ngày trước thì câu trả lời này hẳn đã làm tôi nổi xung, nhưng nhờ ơn Chúa tôi đang sống một cuộc đời mới. Tôi nhận xét với ông ta rằng làm việc ở nhà xác ắt hẳn sẽ khiến ta có những suy tưởng hiền minh hay ít nhất là độc đáo về thân phận con người. Ông ta nhìn tôi tuồng như tôi đang nhạo báng ông ta hoặc tôi đang nói tiếng Pháp. Tôi cứ dấn tới. Chốn này, tôi nói, kèm một cử chỉ ôm trọn toàn bộ nhà xác, theo cách nào đó là nơi lý tưởng để chiêm nghiệm về sự ngắn ngủi của cuộc đời, về cái thứ khôn dò là thân phận con người, về sự phù phiếm của mọi lo toan trần thế.

“Với một cái rùng mình kinh sợ, tôi đột ngột nhận ra mình đang nói chuyện với ông ta như thể ông ta là nhà văn Đức vĩ đại kia và đây là cuộc chuyện trò mà tôi với ông đã chưa bao giờ có trong thực tế. Tôi không có nhiều thì giờ, ông kia nói. Tôi lại nhìn vào mắt ông ta. Không thể nghi ngờ gì nữa: là đôi mắt của thần tượng của tôi. Và câu đáp của ông ta: Tôi không có nhiều thì giờ. Biết bao cánh cửa được câu đáp ấy mở ra! Biết bao con đường đột nhiên trở nên quang đãng, bày ra lồ lộ cho tôi, nhờ câu đáp ấy!

“Tôi không có nhiều thì giờ, tôi còn bận lôi xác chết. Tôi không có nhiều thì giờ, tôi còn bận thở, bận ăn, bận uống, bận ngủ. Tôi không có nhiều thì giờ, tôi còn bận giữ cho các bánh răng trong cỗ máy chạy đều. Tôi không có nhiều thì giờ, tôi còn bận sống. Tôi không có nhiều thì giờ, tôi còn bận chết. Chắc anh cũng thấy, tôi chẳng còn câu hỏi nào nữa. Tôi giúp ông ta mở cái ngăn ra. Tôi toan giúp ông ta nhét cái xác vào nhưng tôi hậu đậu vụng về đến nỗi làm cái chăn đắp xác tuột ra khiến tôi nhìn thấy mặt của xác chết thế là tôi nhắm mắt lại cúi đầu và để yên cho ông ấy làm.

“Khi bạn tôi đi ra, anh ta đứng nơi cửa im lặng nhìn tôi. Mọi chuyện ổn chớ? anh ta hỏi. Tôi không thể trả lời, hoặc không biết trả lời sao. Chắc tôi đã nói: Mọi chuyện không ổn. Nhưng đó không phải điều tôi muốn nói.”

♣ ♣ ♣

Trước khi Archimboldi ra về, sau khi uống với nhau một tách trà, người đàn ông cho anh thuê chiếc máy chữ nói:

“Giêsu là kiệt tác. Mấy tên cướp là tác phẩm tầm tầm. Chúng có đó làm gì? Không phải để làm khung cho thập giá, như một số người ngây thơ nhẹ dạ vẫn tin, mà để che khuất nó đi.”

♣ ♣ ♣

Giữa một trong bao chuyến ngược xuôi của Archimboldi khắp thành phố tìm ai đó có thể cho anh thuê máy chữ, anh gặp lại hai gã cầu bơ cầu bất mà anh đã cùng chung sống trong căn hầm trước khi chuyển đến căn gác xép.

Có vẻ chẳng có gì thay đổi mấy nơi hai người bạn cũ cùng chung hoạn nạn. Tay cựu nhà báo đã cố tìm việc ở tờ nhật báo mới của Cologne, nhưng người ta không chịu nhận ông bởi ông từng là Quốc xã. Tính tình vui vẻ dễ mến của ông cứ biến mất dần bởi đận khó khăn nghịch cảnh của ông cứ kéo dài không dứt và ông bắt đầu phải chịu những chứng đau nhức nọ kia của tuổi già. Tay cựu lính tăng thì ngược lại, nay làm việc tại một xưởng sửa xe máy và đã gia nhập đảng Cộng sản.

Khi hai người còn ở cùng nhau trong căn hầm, họ không thôi cãi nhau. Anh lính tăng kết tội ông nhà báo là hèn nhát và có tinh thần quân phiệt Quốc xã. Ông cựu nhà báo liền quỳ xuống thề thốt to đến lủng phổi rằng đúng, ông là tên hèn nhát, nhưng còn Quốc xã thì không đời nào, Quốc xã đích thực thì không đời nào. Chúng tôi viết những gì người ta bảo. Nếu không muốn bị sa thải, chúng tôi phải viết những gì người ta bảo, ông rên rỉ trước sự dửng dung của anh cựu lính tăng, anh này bổ sung thêm vào những lời kết tội của mình cái sự thật hiển nhiên rằng trong khi anh và những người như anh chiến đấu trong những chiếc tăng bị bắn cháy thì ông nhà báo và những kẻ như ông ta cam tâm viết ra những tuyên truyền dối trá, không đếm xỉa gì đến tình cảm của các lính tăng của các bà mẹ sinh ra các lính tăng và kể cả của hôn thê của các lính tăng.

“Vì chuyện đó tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ông đâu, Otto,” anh ta bảo ông.

“Nhưng có phải lỗi của tôi đâu,” ông nhà báo rên rỉ.

“Giả nhân giả nghĩa,” anh lính tăng nói.

“Chúng tôi đã cố làm thơ,” ông nhà báo nói, “chúng tôi cố đà đận cho qua ngày đoạn tháng và cố sống tiếp để xem chuyện gì sẽ đến.”

“Giờ thì ông đã thấy chuyện gì đến rồi đó, đồ heo bẩn thỉu,” anh lính tăng đáp.

Đôi khi, ông nhà báo nói về chuyện tự sát.

“Tôi chẳng thấy lối thoát nào khác,” ông nói khi Archimboldi đến thăm họ. “Với tư cách nhà báo, tôi xong rồi. với tư cách công nhân nhà máy, tôi tuyệt không có khả năng nào. Với tư cách nhân viên nhà nước, tôi mãi mãi mang vết nhơ quá khứ của tôi. Với tư cách lao động tự do, tôi chẳng biết làm gì ra hồn. Vậy thì kéo dài thống khổ để làm gì chớ?”

“Để trả món nợ của ông với xã hội, để sám hối những lời dối trá của ông,” anh lính tăng thét lớn, anh ta đang ngồi nơi bàn, làm bộ mê mải đọc báo nhưng kỳ thực đang lắng nghe ông.

“Anh chả biết mình nói gì đâu, Gustav,” nhà báo trả lời. “Tôi nói với anh cả triệu lần rồi, tội duy nhất của tôi là hèn nhát và vì nó tôi đã trả giá đắt rồi.”

“Ông sẽ còn phải trả đắt hơn nữa, Otto, đắt hơn nữa kìa.”

Trong lần viếng thăm này Archimboldi gợi ý với nhà báo rằng có lẽ vận mệnh của ông sẽ thay đổi nếu ông chuyển đến một thành phố khác, một thành phố đỡ tan hoang hơn Cologne, một thành phố nhỏ hơn nơi chẳng ai biết ông, một khả năng mà ông nhà báo chưa bao giờ nghĩ tới song từ phút ấy trở đi ông bắt đầu cân nhắc một cách nghiêm túc.

♣ ♣ ♣

Archimboldi mất hai mươi ngày mới gõ xong bản thảo. Anh làm một bản sao bằng giấy than và rồi, tại thư viện công cộng vừa mở cửa lại, anh tìm tên của hai nhà xuất bản mà anh có thể gửi bản thảo đến. Sau một hồi lâu tìm hiểu anh vỡ lẽ rằng các nhà xuất bản từng ấn hành nhiều cuốn sách mà anh ưa thích đã thôi tồn tại từ lâu, một số vì khó khăn tài chính hoặc vì chủ sở hữu thờ ơ hay thiếu quan tâm, số khác là do bị bọn Quốc xã đóng cửa hoặc các biên tập viên bị bỏ tù, số khác nữa do bị những trận bom của phe Đồng minh quét sạch.

Một trong các thủ thư, có quen biết anh và biết anh đang viết lách, hỏi xem anh cần giúp gì không, thế là Archimboldi liền nói anh đang tìm những nhà xuất bản văn chương nào còn đang hoạt động. Cô thủ thư nói việc đó cô có thể giúp anh. Cô lục lọi giấy tờ gì đó một chặp rồi gọi một cuộc điện thoại. Khi quay lại cô đưa cho Archimboldi một danh sách hai mươi nhà xuất bản, con số vừa đúng bằng số ngày anh phải bỏ ra để gõ bản thảo vào máy chữ, đây rõ ràng là một điềm lành. Nhưng vấn đề là anh chỉ có mỗi một bản gốc cùng một bản than, tức là anh chỉ có thể gửi cho hai nhà mà thôi. Đêm đó, đứng nơi cửa quán bar, chốc chốc anh lại rút tờ danh sách ra nghiền ngẫm. Chưa bao giờ anh thấy những cái tên các nhà xuất bản lại đẹp đến thế, đặc sắc đến thế, đầy hứa hẹn đầy hy vọng đầy ước mơ đến thế. Dẫu vậy, anh quyết định sẽ thận trọng, sẽ không để bị cơn hứng chí lôi đi. Bản đánh máy gốc, anh thân hành mang đến đưa cho một nhà xuất bản ở Cologne. Làm thế có cái lợi là nếu người ta từ chối bản thảo thì chính Archimboldi có thể đến lấy lại đem gửi ngay cho nhà khác. Bản giấy than thì anh gửi cho một nhà ở Hamburg từng xuất bản sách của cánh tả Đức cho đến năm 1933, khi chính phủ Quốc xã không chỉ đóng cửa nhà xuất bản mà còn toan tống luôn chủ biên là ông Jacob Bubis vào tù, đáng ra họ đã làm vậy rồi nếu như ông Bubis không đi trước họ một bước là chọn kế lưu vong.

Một tháng sau khi hai bản thảo được gửi đi, nhà xuất bản ở Cologne viết thư hồi âm nói rằng tuy tiểu thuyết Lüdicke của anh có những phẩm chất không thể chối cãi song đáng tiếc không phù hợp với kế hoạch xuất bản của họ, tuy nhiên anh hãy gửi cho họ cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Anh quyết định không nói cho Ingeborg biết sự tình và ngay hôm đó anh đi lấy lại bản thảo, phải mất mấy tiếng đồng hồ vì chẳng ai biết bản thảo nằm đâu mà Archimboldi thì tỏ rõ anh tuyệt không có ý định ra về nếu không có bản thảo trong tay. Hôm sau anh thân hành đến nhà xuất bản kia tại Cologne, nhà này từ chối bản thảo sau một tháng rưỡi, cũng bằng những từ ít nhiều giống như nhà xuất bản đầu tiên, có chăng là thêm vào một ít tính từ, có chăng là chúc anh lần sau sẽ gặp may hơn.

Giờ chỉ còn lại một nhà xuất bản ở Cologne thôi, nhà này thỉnh thoảng có in một cuốn tiểu thuyết hay một tập thơ hay một cuốn sử, tuy nhiên danh mục ấn hành chủ yếu bao gồm các sách hướng dẫn chỉ bảo người ta tuốt tuột mọi thứ, từ cách trông nom thích đáng một khu vườn cho đến sơ cấp cứu hoặc dựng lại khung sườn những căn nhà bị phá hủy sao cho đúng cách. Nhà xuất bản này có tên là Người cố vấn và, trái với hai nhà trước, lần này đích thân vị chủ biên ra nhận bản thảo. Mà không phải vì thiếu nhân công, ông này chỉ cho Archimboldi thấy vậy, bởi ông ta có ít nhất năm người làm việc cho ông, mà vì ông thích nhìn thấy khuôn mặt những nhà văn mong được in ở nhà xuất bản của ông. Cuộc trò chuyện giữa hai người, theo Archimboldi nhớ lại, thật lạ. Ông chủ biên có khuôn mặt một gã găngtơ. Ông còn trẻ, chỉ hơn Archimboldi vài tuổi, mặc bộ com lê may cắt không chê vào đâu được tuy nhiên hơi chật, cứ như là ông này chỉ sau một đêm đã lén lút béo lên thêm chục ký lô.

Hồi chiến tranh ông ta phục vụ trong một đơn vị lính dù, mặc dù ông ta chưa nhảy dù bao giờ cả, ông ta vội vàng nói rõ vậy, cho dù ông rất muốn. Hồ sơ quân vụ của ông cho thấy ông đã tham gia nhiều trận đánh tại nhiều chiến trường khác nhau, đặc biệt là ở Ý và Normandie. Ông kể ông từng bị máy bay Mỹ ném bom rải thảm. Và ông tuyên bố mình biết bí quyết để sống sót trong một trận ném bom như thế. Vì Archimboldi phục vụ ở phía Đông suốt cả cuộc chiến tranh nên anh chẳng biết ném bom rải thảm nghĩa là gì và anh bảo vậy. Ông chủ biên, vốn tên là Michael Bittner song lại thích bạn bè gọi mình là Mickey, giống như tên con chuột, liền giải thích rằng ném bom rải thảm là khi một bầy máy bay của kẻ thù, nhưng là cả một bầy thật đông, kìn kìn, đông nghẹt, thả bom xuống một khu vực nào đó, một mảnh đất được chỉ định sẵn, cho đến khi cả một cọng cỏ cũng không còn.

“Tôi không biết tôi giải thích vậy đã đủ rõ chưa, Benno,” ông nói, nhìn đăm đăm vào Archimboldi.

“Ông đã giải thích rõ ràng đến tuyệt vời, Mickey ạ,” Archimboldi nói, trong khi nghĩ bụng người đàn ông này không chỉ rầy rà phiền nhiễu mà còn lố bịch, sự lố bịch chỉ có ở những kẻ tự đóng tấn tuồng cuộc đời mình và những tên ngốc khốn khổ tin chắc mình đã tham gia vào một khoảnh khắc quyết định của lịch sử, trong khi ai cũng biết, Archimboldi nghĩ vậy, rằng lịch sử, vốn chẳng qua là một ả điếm tầm thường, chẳng có khoảnh khắc quyết định nào hết mà chỉ có cơ man những thời khắc, những khoảnh ngắn toen hoẻn tranh đua nhau xem bên nào quái gở hơn.

♣ ♣ ♣

Tuy nhiên Mickey Bittner, cái gã bất hạnh đáng thương bị nhồi vào bộ com lê cắt may tuyệt khéo song quá chật này, ông ta muốn là muốn giải thích cho Archimboldi hiểu ném bom rải thảm gây tác động gì cho binh lính và ông ta nghĩ ra phương sách gì để đương đầu với nó. Tiếng ồn. Trước hết là tiếng ồn. Anh lính đang ở dưới chiến hào hoặc trong cứ điểm được xây quấy quá của anh ta thì chợt nghe thấy tiếng ồn. Tiếng ồn của máy bay. Nhưng không phải tiếng ồn của máy bay chiến đấu hay máy bay chiến đấu kiêm ném bom, kiểu tiếng ồn nhanh, nếu tôi có thể dùng từ ấy, một tiếng ồn bay là là, mà là một tiếng ồn đến từ một điểm cao hơn trên trời, một tiếng ồn gầm rú chát chúa chẳng hứa hẹn gì tốt lành, như thể có bão đang đến gần, như thể các đám mây đang va vào nhau, nhưng vấn đề ở chỗ không có mây cũng chẳng có bão. Dĩ nhiên, anh lính nhìn lên. Ban đầu anh chả thấy gì. Anh pháo thủ nhìn lên. Anh chả thấy gì. Anh xạ thủ súng máy, anh lính vận hành súng cối, anh lính trinh sát nhìn lên và chả thấy gì. Anh lái xe bọc thép hay lái tăng nhìn lên. Anh cũng chả thấy gì. Tuy nhiên, vì cẩn thận, anh ngoặt xe ra khỏi con đường. Anh đậu xe dưới một gốc cây hoặc lấy vải bạt ngụy trang che lại. Ngay khi ấy những máy bay đầu tiên xuất hiện.

Những người lính nhìn chúng. Có nhiều máy bay, song những người lính nghĩ chúng đang trên đường đi ném bom thành phố nào đó phía sau chiến tuyến. Thành phố hoặc cầu hoặc đường ray xe lửa. Nhiều máy bay, nhiều đến nỗi trời đen kịt lại, tuy nhiên mục tiêu của chúng chắc chắn là khu công nghiệp nào đó của Đức. Nhưng rồi mọi người ngạc nhiên thấy các máy bay kia thả bom và bom rơi xuống một khu vực giới hạn. Và sau đợt đầu là đợt thứ hai. Tiếng ồn trở nên điếc tai. Bom rơi tạo thành hố rồi lại hố trên mặt đất. Rừng cây bùng cháy. Tầng cây bụi thấp, lớp thực vật chính ở Normandie, bắt đầu biến mất. Các hàng giậu nát ra từng mảnh. Nhà cửa thảy đều sụp đổ. Nhiều lính bị điếc tai trong chốc lát. Vài người không chịu nổi liền vùng chạy. Ngay lúc đó, ngay trên vạt đất đã được chọn đó đợt máy bay thứ ba lại đến ném bom. Tiếng ồn lại còn ồn hơn nữa, dẫu điều này tuồng như không thể. Cứ gọi nó là tiếng ồn đi. Có thể gọi nó là tiếng gầm, tiếng rống, tiếng rú chát chúa, tiếng nện đinh tai nhức óc, ống bễ của chư vị thần linh, song tiếng ồn là một từ đơn giản đủ để mô tả một thứ không tên. Xạ thủ súng máy chết. Một trái bom khác rơi ngay trên xác anh. Xương và vụn thịt của anh vương vãi trên những chỗ mà ba chục giây sau sẽ bị những trái bom khác nghiền thành bụi. Anh xạ thủ súng cối bốc hơi. Anh lái xe bọc thép khởi động xe đi tìm chỗ núp tốt hơn, nhưng dọc đường anh bị trúng một quả bom rồi lại thêm hai quả nữa biến cả xe lẫn người thành một thứ độc nhất chẳng ra hình thù gì nằm ngay đường cái giữa những đống đổ nát và dung nham. Rồi đến đợt thứ tư và đợt thứ năm. Mọi thứ phừng phừng cháy. Chẳng còn giống Normandie mà giống mặt trăng. Khi đám máy bay đã thôi không giã khoảnh đất được chỉ định nữa, chẳng còn nghe tiếng một con chim. Sự thực là, kể cả ở những khu lân cận cả bên phải lẫn bên trái khu vực bị tàn phá, những nơi chẳng hề có trái bom nào rơi, cũng chẳng hề nghe thấy tiếng chim nào.

Thế rồi quân địch xuất hiện. Cả với họ nữa, dấn thân vào cái lãnh địa màu xám thép, bốc khói và lỗ chỗ hố bom kia, là một chuyện chẳng phải không có phần kinh rợn. Thi thoảng từ mặt đất bị xáo tung tàn bạo kia có một lính Đức trồi lên với cặp mắt người điên. Vài người vừa đầu hàng vừa khóc. Những người khác, lính dù, các cựu binh Wehrmacht, vài tiểu đoàn bộ binh SS nổ súng, cố khôi phục đội hình và ngăn bước tiến quân thù. Vài người trong số lính đó, những người bất khuất nhất, rõ là có uống rượu. Trong số đó hiển nhiên có anh lính dù Mickey Bittner, bởi công thức của anh hầu chống chịu mọi hình thức ném bom rải thảm là thế này: uống schnaps, uống cô nhắc, uống brandy, uống grappa, uống whiskey, uống bất cứ đồ uống mạnh nào, kể cả rượu vang nếu không có thứ nào khác, để mà thoát khỏi tiếng ồn, hoặc để lẫn lộn tiếng ồn với những cú giật thình thình và xoay mòng mòng của bộ não ta.

♣ ♣ ♣

Thế rồi Mickey Bittner muốn biết cuốn tiểu thuyết của Archimboldi là về cái gì và có phải nó là tiểu thuyết đầu tay của anh hay là anh đã từng có tác phẩm rồi. Archimboldi bảo ông ta nó là tiểu thuyết đầu tay của anh, đoạn mô tả nó bằng vài nét khái quát. Xem ra có tiềm năng, Bittner nói. Nhưng rồi lập tức nói thêm: có điều sẽ không thể in năm nay được. Đoạn ông ta nói: sẽ không có chuyện ứng trước. Đoạn ông nói rõ hơn: chúng tôi sẽ trả anh năm phần trăm giá bìa, thế là quá tốt rồi. Đoạn ông ta thừa nhận: ở Đức bây giờ người ta không đọc như ngày trước nữa, hiện thời người ta có nhiều thứ thiết thực cần phải nghĩ hơn. Đến chừng đó thì Archimboldi biết chắc thằng cha này nói chỉ để mà nói và có lẽ tất tật bọn lính dù cứt đái, lũ chó của tướng Student* đều vậy cả, nói chỉ để mà nói, chỉ để nghe giọng của mình mà tự trấn an rằng đến giờ chưa ai treo cổ mình lên.

♣ ♣ ♣

Suốt mấy ngày Archimboldi nghĩ thứ mà nước Đức thực sự cần là một cuộc nội chiến.

Anh chẳng hề tin rằng Bittner, kẻ chắc chắn chả biết mô tê gì về văn chương, sẽ xuất bản cuốn tiểu thuyết. Anh bồn chồn bất an, ăn mất ngon. Anh gần như chẳng đọc gì và số sách ít ỏi mà anh có đọc, nó làm cho anh nôn nao khó chịu đến nỗi vừa bắt đầu đọc một cuốn là anh phải gấp sách

“Anh đang ở đâu vậy?” Ingeborg hỏi khi chuyện này xảy ra.

Kể cả giọng của người đàn bà anh yêu cũng chỉ đến được anh như thể từ hết sức xa xăm. Sau hai tháng chẳng nhận được hồi âm, ừ cũng không mà hữ cũng không, Archimboldi đến nhà xuất bản nọ yêu cầu được nói chuyện với Mickey Bittner. Thư ký bảo ông Bittner hiện giờ lo chuyện xuất nhập khẩu hàng nhu yếu phẩm và rất hiếm khi có mặt ở nhà xuất bản, dĩ nhiên ông vẫn là chủ nhà xuất bản, mặc dù gần như chẳng bao giờ ghé qua. Nằn nì mãi, Archimboldi mới được người ta chỉ chỗ văn phòng mới của Bittner nằm ở ngoại ô Cologne. Tại một khu xưởng máy cũ từ thế kỷ mười chín, bên trên một nhà kho chất đầy thùng đầy sọt, là văn phòng của Bittner, tuy rằng cả ở đây cũng chả thấy mặt ông ta.

Thay vào chỗ ông ta là ba tay cựu lính dù và một cô thư ký tóc bạch kim. Mấy tay lính dù cho anh biết Mickey Bittner đang ở Antwerp để hoàn tất một hợp đồng giao chuối. Đoạn cả bọn phá lên cười và phải mất một hồi Archimboldi mới hiểu ra họ cười là cười vụ chuối chứ không phải cười anh. Kế đó mấy tay lính dù bắt đầu nói về phim, vì họ đều ghiền phim hạng nặng, cô thư ký cũng vậy, rồi họ hỏi Archimboldi anh từng ở mặt trận nào và phục vụ trong binh chủng nào, Archimboldi liền đáp ở phía Đông, luôn luôn ở phía Đông, và trong binh chủng bộ binh nhẹ, cho dù trong mấy năm cuối chiến tranh anh chả thấy một con ngựa hay con lừa nào hết. Mấy tay lính dù kia thì luôn luôn chiến đấu ở phía Tây, ở Ý, ở Pháp, một người ở Crete, và họ có cái phong thái thị thành lịch duyệt của các cựu binh Mặt trận phía Tây, cái phong thái của những tay chơi ru lét, những kẻ chơi bời trác táng thâu đêm, những người nhấp rượu vang ngon, những kẻ bước vào nhà thổ và gọi tên các cô gái điếm, một phong thái chẳng giống gì với dáng điệu của các cựu binh Mặt trận phía Đông, những kẻ trông giống hơn với những xác chết biết đi, thây ma sống dậy, những kẻ sống trong nghĩa địa, những gã lính không mắt không mồm, nhưng lại có dương vật, Archimboldi nghĩ, bởi vì dương vật, dục vọng xác thịt, rủi thay lại là thứ cuối cùng người ta đánh mất trong khi lẽ ra nó phải là thứ đầu tiên, thế nhưng không, giống người vẫn cứ làm tình, làm tình hoặc tự làm tình, đằng nào thì rốt cuộc cũng như nhau, cho đến hơi thở cuối, giống như anh lính bị kẹt dưới một đống xác và ở đó, dưới các xác chết và dưới tuyết, anh ta dùng cái mai thường đào một cái hang nhỏ, và để giết thì giờ anh ta đặt tay lên cái của mình mà sục, mỗi lần một dữ dội hơn, bởi một khi cái sợ và nỗi kinh ngạc của những khoảnh khắc đầu đã biến mất thì những gì còn lại chỉ là niềm sợ chết và nỗi chán, và để diệt đi nỗi chán anh ta bắt đầu thủ dâm, ban đầu e dè, tuồng như anh ta đang tán tỉnh một cô thôn nữ hay một nàng chăn cừu bé nhỏ, rồi sau đó càng lúc càng quyết liệt, cho đến khi anh ta khiến được mình thỏa mãn hoàn toàn, và anh ta cứ ở đấy mười lăm ngày, bị vùi trong cái hố giữa xác chết và giữa tuyết, dè sẻn thức ăn và thả phanh dục vọng, những dục vọng nó chẳng làm anh yếu đi mà ngược lại dường như bồi bổ lại cho anh, tuồng như anh đã uống tinh dịch của chính mình hoặc tuồng như sau khi hóa điên anh đã tìm được một con đường bị lãng quên để về lại một sự tỉnh giác mới, cho tới khi quân Đức phản công và phát hiện ra anh, và đây mới là chi tiết lý thú, Archimboldi nghĩ, bởi một trong mấy người lính đã lôi anh ta ra khỏi đống xác chết bốc mùi hôi thối và những đụn tuyết nói rằng thằng cha có mùi là lạ, nói cách khác không phải mùi cáu ghét hay cứt hay nước đái, không phải như thịt thối hay thịt có giòi, thật ra thằng cha có mùi dễ chịu, có thể là gắt nhưng dễ chịu, giống như nước hoa rẻ tiền, nước hoa Hung hay nước hoa digan, có lẽ thoang thoảng mùi sữa chua, có lẽ phảng phất mùi rễ cây, nhưng cái mùi chủ đạo thì chắc chắn không phải mùi sữa chua hay rễ cây, thứ mùi làm kinh ngạc tất cả những ai có mặt ở đó, những kẻ đang xúc mấy cái xác ra đặng gửi về hậu phương hoặc để chôn cất theo nghi lễ Thiên Chúa giáo, một cái mùi xẻ đôi nước, giống như Moses xẻ đôi Biển Đỏ, để cho người lính này qua, cho dẫu anh ta gần như đi không nổi, nhưng qua rồi đi đâu? ai mà biết, dù gì thì cũng rời xa tiền tuyến, nhất định là về một nhà thương điên ở quê nhà.

♣ ♣ ♣

Mấy tay lính dù, vốn không phải người xấu, mời Archimboldi tham gia một công việc mà họ phải đảm trách ngay đêm đó. Archimboldi hỏi việc ấy khi nào xong, bởi anh không muốn mất chỗ làm ở quán bar, thì bọn họ liền cam đoan muộn nhất là mười một giờ mọi thứ sẽ xong. Họ thỏa thuận tám giờ tối sẽ gặp nhau ở một quán bar gần nhà ga và khi anh ra về thì cô thư ký nháy mắt với anh.

Quán bar tên là Họa Mi Vàng và điều đầu tiên khiến Archimboldi chú ý khi ba tay lính dù vào quán là họ thảy đều mặc áo khoác da màu đen rất giống áo của anh. Việc của họ là dỡ một phần của một toa hàng toàn bếp quân dụng của Mỹ. Gần toa hàng, trên một đường nhánh tách biệt họ gặp một người Mỹ, người này trước tiên đòi họ một số tiền, đếm kỹ cho tới tờ bạc cuối, rồi thì nhắc nhở họ, giống như người ta nhắc lại một mệnh lệnh quen thuộc cho một lũ trẻ con chậm hiểu, rằng họ chỉ được phép dỡ các thùng ở trên toa hàng đó, và chỉ dỡ các thùng có mã hiệu PK mà thôi.

Ông ta nói tiếng Anh và một trong mấy tay lính dù đáp bằng tiếng Anh bảo ông ta đừng có lo. Kế đó ông người Mỹ biến mất vào bóng tối và một người khác trong nhóm lính dù xuất hiện với một chiếc xe tải nhỏ, đèn tắt, và sau khi phá niêm phong lô hàng họ bắt tay vào việc. Một giờ sau họ xong xuôi và hai lính dù chui vào ca bin xe tải còn Archimboldi và lính dù còn lại leo lên thùng xe phía sau, trong khoảng trống nhỏ xíu còn lại giữa các thùng hàng. Họ lái xe dọc những con phố khuất, vài phố chẳng có đèn đường, về lại văn phòng của Mickey Bittner ở ven thành phố. Tại đó cô thư ký đang chờ họ với một phích cà phê nóng và một chai whiskey. Khi đã dỡ xong mọi thứ, họ đi lên văn phòng và bắt đầu trò chuyện về tướng Udet. Trong khi mấy tay lính dù pha whiskey vào cà phê, họ trôi vào hồi tưởng về những sự kiện lịch sử, mà trong trường hợp này cũng là những hồi ức đàn ông cứ bị ngắt quãng luôn luôn vì những tràng cười vỡ mộng, như muốn nói tôi là tôi thấy hết cả rồi, các người không lỡm được tôi đâu, tôi biết rõ bản tính con người, sự xung đột vĩnh viễn giữa những ý chí, hồi ức của tôi được viết bằng những chữ cái rực lửa và chúng là đồng vốn duy nhất của tôi, thế rồi họ bắt đầu khơi lại hình ảnh Udet, tướng Udet, tay phi công ưu tú đã tự sát vì lời vu khống do Goering phát tán.

Archimboldi không chắc Udet là ai, mà cũng không hỏi. Cái tên nghe quen, kiểu như những cái tên khác nghe quen, nhưng chỉ có thế. Hai trong mấy tay lính dù đã từng thoáng thấy Udet và nói về ông ta bằng những lời tuyệt đẹp.

“Một trong những người cừ nhất của Luftwaffe.”

Tay lính dù thứ ba nghe họ mà lắc đầu, chẳng tin mấy vào những gì hai chiến hữu của mình khẳng định, song anh ta hoàn toàn không sẵn bụng dạ mà cãi, còn Archimboldi thì nghe mà lòng kinh sợ, bởi nếu có điều gì mà anh tin chắc thì đó là trong Thế chiến thứ hai người ta có quá đủ lý do để tự sát, nhưng rõ ràng là với một thằng cha vớ vẩn ba láp như Goering thì không.

“Vậy cái ông Udet này tự sát vì những mưu mô phòng khách của Goering?” anh hỏi. “Vậy là ông ấy tự sát không phải vì những trại diệt chủng hay những giết chóc nơi mặt trận hay những thành phố chìm trong lửa, mà vì Goering gọi ông ấy là một tên kém cỏi?”

Ba tay lính dù nhìn anh như thể mới thấy anh lần đầu, mặc dù không có vẻ quá ngạc nhiên.

“Có lẽ Goering có lý,” Archimboldi vừa nói vừa rót cho mình thêm tí whiskey và úp bàn tay lên tách khi cô thư ký toan rót thêm cà phê vào đấy. “Có lẽ Udet tận trong sâu xa là người kém cỏi,” anh nói. “Có lẽ thật ra cái tay Udet này là một nùi dây thần kinh cùn nhụt xác xơ,” anh nói. “Có lẽ ông ta là một tên gà chết, giống như hầu hết đám người Đức đã để cho Hitler phịch mình qua lỗ đít,” anh nói.

“Mày người Áo hả?” một trong mấy tay lính dù hỏi.

“Không, tôi cũng là người Đức,” Archimboldi nói.

Suốt một hồi ba tay lính dù im lặng, tuồng như đang tính xem nên giết anh hay nên dần cho anh một trận nhừ tử. Tuy nhiên Archimboldi bình thản tự tin quá, chốc chốc anh lại ném về phía họ những cái nhìn phẫn nộ ẩn tàng nhiều thứ ngoại trừ sợ hãi, khiến họ quyết định thôi không phản ứng bằng sức mạnh.

“Trả tiền cho nó,” một trong ba người nói với cô thư ký.

Cô này liền đứng dậy mở một cái tủ bằng kim loại, nơi phần dưới tủ là một cái két con. Chỗ tiền cô đưa cho Archimboldi bằng nửa lương tháng của anh ở quán bar trên đường Spengler. Archimboldi cất tiền vào túi trong áo khoác trước cái nhìn thấp thỏm của mấy tay lính dù (họ tin chắc rằng anh giấu ở đó một khẩu súng lục