PHẦN NĂM (D) PHẦN VỀ ARCHIMBOLDI
Bốn năm sau khi Archimboldi biến mất, Bubis nhận được bản thảo đồ sộ có nhan đề Di sản, một tiểu thuyết hơn năm trăm trang, đầy những chỗ gạch đi, những chỗ thêm vào và những ghi chú chân trang dài thường là không đọc nổi.
Bưu phẩm được gửi từ Venice, nơi Archimboldi đang sống bằng nghề làm vườn, đấy là theo lời anh ta trong một bức thư ngắn kèm theo phong bì, điều này Bubis nghĩ ắt chỉ là chuyện đùa thôi, bởi khó mà kiếm được công việc làm vườn ở bất cứ thành phố nào của Ý, ở Venice lại càng không. Dù thế nào đi nữa, ông chủ nhà xuất bản hồi âm lập tức. Ngay hôm đó ông viết thư hỏi Archimboldi muốn tạm ứng bao nhiêu và yêu cầu cho một địa chỉ ít nhiều tin cậy để có thể gửi tiền cho anh, tiền của anh, mà trong bốn năm qua đã dần dần tích lại. Câu trả lời của Archimboldi còn ngắn hơn. Anh cho một địa chỉ ở Cannaregio và kết thư bằng những lời chúc như thường lệ, chúc Bubis cùng phu nhân một năm mới an khang vì lúc ấy đã sắp cuối tháng Mười hai rồi. Trong mấy ngày sau đó, những ngày rất giá lạnh trên khắp châu Âu, Bubis đọc bản thảo Di sản và tuy văn bản thật rối rắm ấn tượng sau cùng của ông là vô cùng thỏa mãn, vì Archimboldi đã đáp lại mọi kỳ vọng ông gửi gắm vào anh. Những kỳ vọng đó là gì? Bubis không biết, cũng chả muốn biết. Nhất định không phải là kỳ vọng rằng Archimboldi sẽ viết đều đều, đó là việc mà bất cứ tay thợ viết văn nào cũng có thể làm, cũng không phải là kỳ vọng về năng lực kể chuyện của anh, điều mà Bubis không còn hồ nghi gì nữa kể từ khi Đóa hồng bất tận ra đời, cũng không phải là kỳ vọng rằng anh sẽ bơm dòng máu mới vào ngôn ngữ Đức cứng quèo, việc mà, theo đánh giá của Bubis, chỉ cần hai nhà thơ và ba bốn người viết văn là đạt được, trong số đó có Archimboldi. Không phải kỳ vọng ấy. Vậy, kỳ vọng gì? Bubis không biết, tuy rằng ông cảm thấy nó, và việc không biết điều đó tuyệt không hề khiến ông bứt rứt, một trong số những lý do ấy là biết chỉ tổ phiền phức, ông là nhà xuất bản trong khi đường đi nước bước của Thượng đế thì nhất định là bất khả tư nghị.
♣ ♣ ♣Do bà nam tước lúc ấy đang ở Ý, nơi bà có tình nhân, nên Bubis gọi điện nhờ bà đến thăm Archimboldi.
Lẽ ra ông đã rất sẵn lòng đích thân đi, tuy nhiên năm tháng qua đi chẳng phải là không để lại gì: ông Bubis nay không còn khả năng đi đây đi đó như trước nữa. Thế nên chính nữ nam tước mới là người một buổi sáng kia xuất hiện ở Venice, được tháp tùng bởi một kỹ sư người Rumani trẻ hơn bà, một anh chàng đẹp trai mảnh dẻ có nước da như đồng mà đôi khi người ta gọi là kiến trúc sư còn khi khác lại gọi là tiến sĩ, mặc dù chàng ta chỉ là kỹ sư, kỹ sư cầu đường, và là độc giả nhiệt thành của Moravia, anh ta là người đã tháp tùng bà nam tước đến thăm Moravia, và giới thiệu bà với nhà văn tại một bữa tiệc do nhà văn tổ chức trong căn hộ khổng lồ của ông, từ chỗ căn hộ ấy, khi đêm xuống và dưới ánh sáng hàng chục ngọn đèn, người ta có thể thấy di tích đổ nát của một gánh xiếc, hoặc có thể đấy là một ngôi đền, những gò mộ táng và những tảng đá ngời tỏ mà chính ánh sáng dường như làm cho rối rắm tối tăm đi và chư khách của Moravia đứng ngắm cảnh ấy cười ha hả hoặc chực ứa nước mắt từ trên sân thượng thênh thang của nhà văn. Nhà văn chẳng mấy gây ấn tượng với bà nam tước hoặc ít nhất không gây ấn tượng với bà được như tình nhân của bà chờ đợi, bởi vì đối với chàng ta mỗi từ Moravia viết ra đều là vàng ròng, tuy nhiên bà nam tước không thể thôi nghĩ đến ông suốt mấy ngày sau, nhất là sau khi bà đã nhận được thư chồng và lên đường, được chàng kỹ sư môn đồ của Moravia hộ tống, đến Venice đang giữa mùa đông, nơi họ nhận một phòng tại Khách sạn Danieli, và bà nam tước, sau khi tắm rửa và thay quần áo nhung chưa ăn sáng, liền ra ngoài một mình, mái tóc đẹp của bà bù rối, bị thôi thúc bởi một cơn nôn nả khó bề lý giải.
Địa chỉ của Archimboldi là trên phố Turlona ở Cannaregio, và bà namtước đã đoán đúng, phố ấy không thể quá xa ga xe lửa hoặc nếu không thì không thể quá xa nhà thờ Madonna dell’Orto, nơi Tintoretto* từng làm việc suốt đời. Thế là bà đáp một chiếc buýt đường thủy - gọi là vaporetto - ở San Zaccaria và, chìm trong suy tưởng, để mặc con tàu đưa bà đi dọc theo Kênh Lớn rồi sau đó bà lên bờ phía trước nhà ga, đi đến đâu hỏi đường đến đấy, vừa đi bà vừa nghĩ đến đôi mắt của Moravia, đôi mắt thật là cuốn hút, rồi nghĩ đến đôi mắt của Archimboldi, đôi mắt mà bỗng bà nhận ra mình không còn nhớ nữa, rồi bà lại nghĩ đến cuộc đời của Moravia và của Archimboldi sao lại khác nhau đến thế, một người tư sản, thực tế và thức thời song bên cạnh đó chẳng phải là người không sẵn sàng dọn lối cho những chuyện đùa tinh tế và phi thời gian (không phải cho ông ta, mà là cho cử tọa của ông ta), trong khi đó người kia, nhất là nếu so sánh với người thứ nhất, về cơ bản là một người thuộc lớp hạ lưu, một nghệ sĩ thường xuyên nóng rực như Bubis nói, một người sẽ chẳng bao giờ đứng trên sân thượng nhà Moravia mà nhìn thấy cảnh di tích hoang tàn phủ trong ánh sáng, cũng chẳng bao giờ nghe những đĩa nhạc của Moravia hay đi dạo đêm khắp thành Roma cùng với bạn bè, các nhà thơ và nhà làm phim, dịch giả và sinh viên, quý tộc và nhà mác-xít, giống như Moravia đi dạo cùng với bạn bè ông, luôn luôn với một lời tử tế, một nhận xét thông minh, một lời bình hợp lẽ, trong khi Archimboldi thì độc thoại miên man với bản thân mình, bà nam tước nghĩ vậy trong khi đi dọc phố Lista di Spagna đến Campo San Geremia rồi sau đó băng qua cầu Guglie và bước vài bậc thang xuống đến Fondamenta Pescaria, những lời lảm nhảm một mình không ai hiểu nổi của đứa con một chị giúp việc hay một anh lính chân đất lang thang giữa đất Nga, một địa ngục toàn là succubus*, bà nam tước nghĩ, thế rồi, chẳng vì lý do gì, bà nhớ lại rằng ở Berlin hồi bà còn niên thiếu, một số người, nhất là các cô giúp việc từ quê lên, thường gọi những người đồng dâm nam là succubus, vừa nói vừa mở mắt thật to và làm bộ khiếp đảm, những cô giúp việc bé nhỏ rời xa gia đình đi tới những ngôi nhà đồ sộ ở khu người giàu, những cô gái cứ độc thoại miên man để có thể sinh tồn.
Nhưng có thật là Archimboldi lải nhải với chính mình không? bà nam tước tự hỏi trong khi rẽ qua phố Ghetto Vecchio, hay là anh nói với một người nào khác? Và nếu vậy, người khác này là ai? Một người chết chăng? Một con quỷ Đức chăng? Một con quái vật mà anh phát hiện được trong khi làm việc nơi dinh thất miền quê của bà ở Phổ chăng? Một con quái vật sống trong buồng áp mái nhà bà hồi Archimboldi đến đấy làm việc cùng với mẹ chăng? Một con quái vật ẩn náu trong khu rừng thuộc sở hữu của gia tộc Von Zumpe chăng? Những hồn ma từ những bãi than bùn chăng? Linh hồn của những bờ đá hai bên con đường gồ ghề nối liền hai làng chài chăng?
Toàn linh tinh bá láp mà thôi, bà nam tước, người chẳng bao giờ tin cả hồn ma lẫn các ý thức hệ mà chỉ tin ở thân thể bà và thân thể người khác, đã nghĩ như vậy trong khi đi qua quảng trường Ghetto Nuovo rồi sau đó băng qua cây cầu dẫn đến Fondamenta degli Ormesini, đoạn rẽ trái đến phố Turlona, toàn nhà xửa xưa, những tòa nhà chống đỡ cho nhau như những bệnh nhân Alzheimer già nua nhỏ bé, một mớ bòng bong những nhà và những ngõ ngách chằng chịt tựa mê cung nơi ta có thể nghe những giọng nói ở xa xa, những giọng âu lo đặt câu hỏi và những giọng trả lời đầy chững chạc đường hoàng, cho tới khi bà đến cửa căn hộ Archimboldi, trong một căn nhà mà cả bên trong lẫn bên ngoài chả ở đâu ghi rõ anh sống ở tầng nào, ở tầng ba hay tầng bốn, hay có khi là tầng ba rưỡi.
Archimboldi ra mở cửa. Tóc anh dài thượt rối bù và râu che kín cổ. Anh mặc áo len chui đầu và quần rộng đầy vết bùn đất, một điều không thường thấy ở Venice nơi chỉ có nước và đá. Anh nhận ra bà ngay tức thì và khi đi vào bà nhận ra rằng hai lỗ mũi anh phập phồng, tuồng như anh muốn ngửi bà. Căn nhà gồm hai phòng nhỏ ngăn cách nhau bằng một tấm vách nhựa, và một buồng tắm cũng nhỏ xíu và chỉ mới lắp đặt gần đây. Cửa sổ duy nhất là ở căn phòng dùng làm nhà bếp kiêm phòng ăn, cửa sổ này nhìn ra một con kênh chảy vào Rio della Sensa. Trong nhà mọi thứ đều cùng một màu hoa cà sẫm, sang đến phòng thứ hai có giường và tủ quần áo của Archimboldi thì ngả sang đen, một màu đen tỉnh lẻ, bà nam tước nghĩ.
Họ làm gì ngày hôm đó và ngày hôm sau? Có lẽ họ nói chuyện và làm tình, làm tình nhiều hơn nói chuyện, bởi vì đêm đó bà nam tước không quay lại Danieli, khiến tay kỹ sư của bà lo sốt vó, anh ta từng đọc những cuốn tiểu thuyết nói về những vụ mất tích bí ẩn ở Venice, trên hết là các khách du lịch thuộc phái yếu, những phụ nữ bị rù quến bởi xác thịt, bị thôi miên bởi năng lượng dục tình của các anh điếm đực Venice, những phụ nữ nô lệ sống chung một nhà với các bà vợ hợp pháp của chủ nhân mình, những bà vợ béo hú có ria mép nói bằng tiếng địa phương và chỉ chui ra khỏi hang để mua cá và rau, những đàn bà Cro-Magnon lấy đàn ông Neanderthal và những nữ nông nô học ở Oxford hay ở trường nội trú Thụy Sĩ bị cột một chân vào giường đợi chờ Bóng tối.
Dẫu sao, đêm đó bà nam tước không về và chàng kỹ sư âm thầm uống đến say mềm nơi quán bar Khách sạn Danieli và không đi báo cảnh sát, phần vì anh ta sợ tự biến mình thành trò cười và phần bởi anh ta cảm thấy ả nhân tình Đức của mình là típ đàn bà dù có chuyện gì đi nữa cũng luôn bình an vô sự mà chẳng cần xin xỏ một ai. Và đêm đó chẳng có Bóng tối nào, cho dù bà nam tước hỏi Archimboldi câu này câu nọ, không nhiều lắm, và tỏ ra sẵn sàng trả lời những câu hỏi mà Archimboldi cảm thấy có thể đặt cho bà.
Họ nói về công việc làm vườn của Archimboldi, đúng là anh có làm việc ấy thật, hoặc làm cho thành phố Venice, trong những công viên ít ỏi nhưng được chăm nom cẩn thận, hoặc cho một số tư nhân (hay hãng luật) có vườn riêng, một số rất hoành tráng, nằm sau tường tư dinh của họ. Sau đó họ nói về cái lạnh mùa này ở Venice, về cái lạnh Archimboldi phải quấn mình trong chăn hòng chống đỡ. Sau đó họ hôn nhau thật lâu và bà nam tước quyết định không hỏi đã bao lâu rồi anh không làm tình với đàn bà. Rồi họ nói về một số nhà văn Mỹ mà Bubis có xuất bản tác phẩm, những người này thường xuyên tới Venice, song Archimboldi không biết họ, cũng chưa bao giờ đọc gì của họ. Và sau đó họ nói về người anh họ đã mất tích của bà nam tước, chàng Hugo Halder bất hạnh, và về gia đình của Archimboldi mà cuối cùng anh cũng đã tìm được.
Và khi bà nam tước đang dợm hỏi anh đã tìm được gia đình của mình ở đâu và trong tình huống nào và như thế nào, Archimboldi đứng dậy khỏi giường mà nói: nghe đi. Bà nam tước cố lắng nghe, nhưng chẳng nghe thấy gì, chỉ có im lặng, im lặng tuyệt đối. Chừng đó Archimboldi nói với bà: nó là vậy đó, im lặng, mình có nghe không? Bà nam tước đã toan nói rằng người ta không thể nghe thấy im lặng được, chỉ có thể nghe thấy tiếng động thôi, nhưng lại cảm thấy nói như vậy nghe rởm rít quá nên bà chẳng nói gì. Rồi Archimboldi, trần truồng như nhộng, đi về phía cửa sổ, mở cửa rồi nhô nửa người ra ngoài, tuồng như muốn đâm đầu xuống kênh, nhưng anh không định làm như vậy. Và khi thu người vào lại anh bảo bà nam tước lại mà xem. Bà nam tước trở dậy, cũng trần truồng như anh, lại gần cửa sổ mà nhìn, trong khi tuyết đang rơi trên Venice.
♣ ♣ ♣Lần cuối Archimboldi đến gặp nhà xuất bản của mình là để soát lại bản in thử cuốn Di sản cùng với người đọc morát và bổ sung thêm gần một trăm trang vào bản thảo ban đầu. Đó là lần cuối cùng anh gặp Bubis, ông này qua đời mấy năm sau đó, nhưng trước khi mất ông vẫn kịp in thêm bốn tiểu thuyết của Archimboldi, và đó cũng là lần cuối anh gặp bà nam tước, ít nhất là ở Hamburg.
Dạo ấy Bubis đang đắm mình trong những cuộc tranh luận to tát và thường là tào lao giữa các nhà văn Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức, với các nhà trí thức và các thư từ điện tín ồ ạt tuôn qua văn phòng của ông suốt cả ngày còn ban đêm thì là những cú điện thoại khẩn cấp mà thường chẳng dẫn tới đâu. Không khí ở nhà xuất bản cứ sốt xình xịch lên cả. Tuy nhiên, thỉnh thoảng mọi thứ chững lại, cô đọc morát pha cà phê cho mình cùng với Archimboldi và một ly trà cho cô bé mới đến chuyên về thiết kế, bởi dạo này nhà xuất bản đã mở rộng và đội ngũ nhân viên tăng lên, và đôi khi, nơi bàn bên cạnh, có một tay đọc morát người Thụy Sĩ, một anh chàng có trời biết tại sao lại đến sống ở Hamburg, bà nam tước ra khỏi phòng làm việc, trưởng phòng quan hệ công chúng cũng vậy và đôi khi cả cô thư ký cũng ra luôn, và họ chuyện vãn về mọi thứ, về bộ phim mới nhất họ xem hay về diễn viên Dirk Bogarde, thế rồi cô hành chính kế toán và ngay cả Marianne Gottlieb cũng thi thoảng đáo qua với một nụ cười, và nếu trong căn phòng rộng nơi các biên tập viên làm việc mọi người cười to quá thì đến cả Bubis cũng thân hành qua luôn, với tách trà trong tay, và họ chuyện trò không chỉ về Dirk Bogarde mà còn về chính trị và về những trò kinh doanh bẩn mà đám cầm quyền mới ở Hamburg nhúng tay vào, hoặc nói về một số nhà văn không còn biết thế nào là đạo đức, những phường đạo văn tự thú hớn hở đeo một cái mặt nạ tươi vui để che một khuôn mặt pha lẫn giữa sợ hãi và càn rỡ, những nhà văn sẵn sàng bám dính lấy bất cứ uy danh nào, với niềm tin rằng bằng cách đó họ sẽ sống mãi trong hậu thế, bất kỳ hậu thế nào, khiến cho các biên tập viên và các nhân viên khác cười ha hả và thậm chí làm ngay cả Bubis cũng nở nụ cười dè dặt, bởi vì không ai biết rõ hơn họ rằng hậu thế là một chuyện đùa trong một vở kịch vui mà duy chỉ những ai ngồi hàng ghế đầu mới nghe được mà thôi, rồi sau đó họ chuyện trò về các lỗi biên tập, nhiều lỗi trong số đó được sưu tầm lại trong một cuốn sách xuất bản ở Paris đã lâu rồi và mang cái nhan đề rất chi thích hợp là Le Musée des erreurs, Bảo tàng lầm lỗi, cũng như những lỗi khác do Max Sengen, chuyên gia săn lùng lỗi sai, tuyển chọn. Rồi cái này dẫn tới cái kia và chẳng bao lâu sau các biên tập viên lấy ra cuốn sách (không phải Bảo tàng lầm lỗi mà cũng chẳng phải cuốn của Sengen), nhan đề của nó Archimboldi không nhìn thấy, và họ bắt đầu đọc to lên bộ sưu tập những viên ngọc văn hóa ấy:
“Tội nghiệp Maria! Cứ mỗi khi nghe tiếng một con ngựa lại gần, nàng lại tin chắc đó là tớ.” La vie de Rancé, Chateaubriand.
“Thủy thủ đoàn của con tàu bị sóng nuốt chửng ấy gồm có hai mươi lăm người, bỏ lại hàng trăm người vợ góa từ nay chịu cảnh khốn cùng,” Les Cages flottantes, Gaston Leroux.
“Nhờ ơn Chúa giúp, mặt trời sẽ lại sáng trên đất nước Ba Lan.” Nạn hồng thủy, Sienkiewicz.
“Đi thôi!” Peter vừa nói vừa tìm chiếc mũ để lau khô nước mắt mình. Lourdes, Zola.
“Công tước xuất hiện, theo sau là đoàn tùy tùng đi phía trước ngài.” Thư gửi từ cối xay gió của tôi, Alphonse Daudet.
“Hai tay chắp sau lưng, Enrique tản bộ trong vườn, vừa đi vừa đọc cuốn tiểu thuyết của bạn mình.” Le Cataclysme, Rosny.
“Bằng một mắt này chàng đọc, bằng một mắt kia chàng viết.” Trên bờ sông Rhine, Auback.
“Tử thi im lặng chờ được mổ pháp y.” Luck’s Favorite, Octave Feuillet.
“William không thể hình dung trái tim phục vụ cho việc gì khác ngoài việc thở.” Cái chết, Argibachev.
“Thanh gươm danh dự này là ngày đẹp nhất của đời tôi.” Danh dự người nghệ sĩ, Octave Feuillet.
“Tôi không còn thấy gì nữa, người đàn bà mù đáng thương nói.” Beatrix, Balzac.
“Sau khi chặt đầu y, họ chôn sống y.” Cái chết của Mongomer, Henri Zvedan.
“Gã có bàn tay lạnh như tay rắn.” Ponson du Terrail. Ở đây không ghi rõ lỗi này là từ nguồn nào.
Trong bộ sưu tập của Max Sengen đáng chú ý nhất là các câu sau, đều không ghi rõ tên tác phẩm lẫn tên tác giả:
“Xác chết nhìn một cách đầy trách móc những người vây quanh mình.”
“Một người đã bị một viên đạn chết người giết chết thì còn làm được gì?”
“Ở ngoại vi thành phố có hàng đàn những con gấu đơn độc.”
“Tiếc thay, đám cưới bị hoãn lại mười lăm ngày, trong thời gian đó cô dâu chạy trốn cùng với đại úy và cho ra đời tám đứa con.”
“Những chuyến đi ba bốn ngày đối với họ là chuyện diễn ra hằng ngày.”
Sau đó đến phần bình phẩm. Đầu tiên, cậu người Thụy Sĩ tuyên bố rằng câu trích của Chateaubriand hoàn toàn bất ngờ, nhất là vì ta cảm thấy trong đó có một lớp ngầm tình dục.
“Tình dục cao độ,” bà nam tước nói.
“Thật khó tin câu như thế lại là của Chateaubriand,” cô chữa morát nói.
“Ồ, ám chỉ con ngựa là đủ biết rồi,” cậu Thụy Sĩ nói.
“Tội nghiệp Maria!” trưởng phòng quan hệ công chúng kết luận.
Sau đó họ nói về Henri, về Ngày định mệnh của Rosny, một văn bản lập thể, theo Bubis. Hay biểu hiện hoàn hảo của hoạt động thần kinh và hành động đọc, theo tay họa sĩ thiết kế, vì Henri không chỉ đọc sách khi chắp hai tay sau lưng mà còn đọc trong khi tản bộ trong vườn. Làm vậy đôi khi có thể rất dễ chịu, theo cậu người Thụy Sĩ, bởi vì té ra cậu là người duy nhất trong số những người có mặt thỉnh thoảng vừa tản bộ vừa đọc sách.
“Cũng có khả năng anh bạn Henri này đã phát minh ra một thiết bị cho phép anh ta đọc mà không phải dùng tay giữ sách,” cô đọc morát nói.
“Nhưng làm sao anh ta lật trang được?” bà nam tước hỏi.
“Rất đơn giản,” cậu chàng Thụy Sĩ nói, “với một cái que nhỏ hay cây gậy kim loại mà anh ta điều khiển bằng miệng, dĩ nhiên nó là một phần của cái thiết bị đọc sách này, thiết bị ấy có lẽ dưới dạng một cái khay gấp được. Ta cũng phải nhớ rằng Henri là một nhà phát minh, tức là anh ta thuộc típ người bản tính khách quan, anh ta đang đọc cuốn tiểu thuyết của một người bạn, đấy là cả một trách nhiệm to tát, bởi người bạn đó muốn biết anh ta có thích cuốn sách hay không, nếu thích thì người ấy muốn biết anh ta có thích nhiều không, và nếu anh ta thích nhiều thì người bạn muốn biết liệu Henri có coi cuốn tiểu thuyết là một kiệt tác hay không, và nếu Henri thừa nhận anh ta nghĩ đó là một kiệt tác thì người bạn muốn biết có phải y đã viết một trong những tác phẩm vĩ đại của văn chương Pháp hay không, cứ vậy cho đến khi anh chàng Henri tội nghiệp kiệt hết lòng kiên nhẫn, bởi nhất định là anh ta có những việc hay hơn để làm ngoài việc đeo cái thiết bị lố lăng kia quanh cổ mà đi ngược đi xuôi khu vườn.”
“Dù thế nào đi nữa, câu văn cho ta thấy Henri không thích cái anh ta đang đọc,” trưởng phòng quan hệ công chúng nói. “Anh ta chẳng yên tâm, anh ta sợ cuốn sách của bạn mình không cất cánh bay cao nổi, anh ta miễn cưỡng phải thừa nhận điều hiển nhiên: bạn anh ta đã viết ra một thứ bỏ đi.”
“Làm sao anh rút ra được như thế?” cô chữa morát muốn biết.
“Qua cái cách Rosny mô tả anh chàng với chúng ta. Hai tay chắp sau lưng: tập trung, tâm trạng chẳng an. Anh ta vừa đi vừa đọc, không dừng lại: cố cưỡng lại sự đã rồi, bứt rứt.”
“Nhưng hành vi sử dụng máy đọc sách đã cứu anh ta,” họa sĩ thiết kế nói.
Rồi họ nói với nhau về câu trích của Daudet, câu này, theo Bubis, không phải một lỗi sai mà là do óc khôi hài của nhà văn, và về Luck’s Favorite của Octave Feuillet (Saint-Lô 1821-Paris 1890), một tác giả rất thành công vào thời ông, kẻ thù của tiểu thuyết hiện thực và tự nhiên chủ nghĩa, tác phẩm của ông giờ đã bị rơi vào sự lãng quên đau thương nhất, vào sự lãng quên đích đáng nhất, và lỗi của ông, “Tử thi im lặng chờ được mổ pháp y,” theo nghĩa nào đó đã vẽ ra từ trước số phận những cuốn sách của chính ông, cậu người Thụy Sĩ nói.
“Có phải cái ông Feuillet này có liên quan đến từ feuilleton trong tiếng Pháp không?” bà Marianne Gottlieb nói. “Tôi nhớ đâu như từ này vừa có nghĩa là phụ trương văn chương của một tờ báo lại vừa có nghĩa là các tiểu thuyết nhiều kỳ được đăng trong đó.”
“Chắc chỉ là một mà thôi,” tay Thụy Sĩ nói với vẻ bí hiểm.
“Từ feuilleton chắc chắn là từ cái tên Feuillet mà ra, ông ấy là ông hoàng của tiểu thuyết nhiều kỳ,” Bubis nói, làm bộ chắc như đinh đóng cột, tuy rằng ông không chắc lắm.
“Nhưng tôi thích nhất là câu của Auback,” cô đọc morát nói.
“Ông này ắt là người Đức,” cô thư ký nói.
“Câu hay thật: ‘Bằng một mắt này chàng đọc, bằng một mắt kia chàng viết’, cho vào một cuốn tiểu sử về Goethe nghe cũng chẳng chỏi đâu,” tay Thụy Sĩ nói.
“Để cho ông Goethe được yên đi,” trưởng phòng quan hệ công chúng nói.
“Ông Auback đó cũng có thể là người Pháp,” cô chữa morát nói, cô đã sống nhiều năm ở Pháp.
“Hoặc người Thụy Sĩ,” bà nam tước nói.
“Còn câu ‘Gã có bàn tay lạnh như tay rắn’ thì các vị thấy sao?” cô hành chính kế toán hỏi.
“Tôi thích Henri Zvedan hơn. ‘Sau khi chặt đầu y, họ chôn sống y,’ ” tay Thụy Sĩ nói.
“Ở đấy có một logic nhất định đấy chứ,” cô chữa morát nói. “Đầu tiên họ chặt đầu y. Những kẻ giết người nghĩ nạn nhân đã chết, nhưng họ vội vội vàng vàng thủ tiêu cái xác. Họ đào một cái huyệt, ném xác vào, lấp đất lên. Nhưng nạn nhân chưa chết. Nạn nhân đã không bị chặt đầu. Họ chặt đầu y, trong trường hợp này có thể có nghĩa là họ đã cắt họng y. Họ đã cố cắt họng y. Máu chảy nhiều. Nạn nhân bất tỉnh. Các hung thủ nghĩ là y đã chết. Lát sau, nạn nhân tỉnh lại. Đất đã giúp cầm máu. Y bị chôn sống. Có vậy thôi. Hết chuyện,” cô chữa morát nói. “Nghe có hợp lý không?”
“Không, chẳng hợp lý gì cả,” trưởng phòng quan hệ công chúng nói.
“Đúng vậy, chẳng hợp lý gì cả,” cô chữa morát công nhận.
“Nghe cũng có chút hợp lý đó cưng à,” Marianne Gottlieb nói, “lịch sử đầy những chuyện khác thường.”
“Nhưng chuyện này thì chẳng hợp lý gì cả,” cô chữa morát nói. “Đừng cố làm tôi thấy dễ chịu hơn, bà Marianne ơi.”
“Tôi nghĩ là chuyện nghe có chút hợp lý,” Archimboldi nói, vẫn chưa ngớt nổi cười, “dù đây không phải câu tôi thích nhất.”
“Thế câu anh thích nhất là gì?” Bubis hỏi.
“Câu của Balzac,” Archimboldi nói.
“Ái, câu ấy thì hay tuyệt,” cô chữa morát nói.
Và tay Thụy Sĩ nhắc lại:
“Tôi không còn thấy gì nữa, người đàn bà mù đáng thương nói.”
♣ ♣ ♣Sau Di sản, bản thảo kế tiếp Archimboldi gửi cho Bubis là Thánh Thomas, tiểu sử ngụy thư của một nhà viết tiểu sử lấy chủ đề là một nhà văn lớn của chế độ Quốc xã mà một số nhà phê bình muốn coi là giống Ernst Jünger như tạc, tuy rằng rõ ràng đấy không phải Jünger mà là một nhân vật hư cấu. Dạo ấy Archimboldi vẫn đang sống ở Venice theo như Bubis biết, và có lẽ anh vẫn sống bằng nghề làm vườn, dẫu rằng các khoản tạm ứng và ngân phiếu mà nhà xuất bản đều đặn gửi anh có thể cho phép anh dành hết thì giờ viết lách.
Tuy nhiên, bản thảo kế tiếp thì đến từ một hòn đảo của Hy Lạp, đảo Icaria, nơi Archimboldi thuê một căn nhà nhỏ giữa mấy ngọn đồi đá, xa xa là biển. Hệt như quang cảnh cuối cùng của Sisyphus, Bubis nghĩ, và ông nói với Archimboldi như vậy trong một lá thư mà ở đó ông thông báo cho anh biết, như thường lệ, rằng nhà xuất bản đã nhận được bản thảo và đã đọc, sau đó ông đề xuất ba hình thức thanh toán để Archimboldi có thể chọn cách nào tiện nhất cho anh.
Thư hồi âm của Archimboldi làm Bubis ngạc nhiên. Trong đó anh nói rằng Sisyphus, khi chết đi rồi, đã thoát khỏi địa ngục nhờ một mưu mẹo lách luật. Trước khi Zeus thả tự do cho Thần Chết Thanatos, Sisyphus bảo vợ đừng tiến hành nghi thức tang lễ như thường lệ, biết rằng việc đầu tiên Thần Chết sẽ làm là tới mang anh ta đi. Thế là khi anh ta xuống tới địa ngục, Hades khiển trách anh ta và tất thảy chư vị chúa tể chốn âm ty, theo lẽ tự nhiên, liền gào thét vang thấu tận trời hoặc thấu tận vòm địa ngục, vò đầu bứt tóc lấy làm bị xúc phạm. Nhưng Sisyphus nói đó là lỗi của vợ anh ta chứ không phải của anh ta và xin được phép quay về mặt đất đặng trừng phạt ả.
Hades cân nhắc thiệt hơn: đề nghị của Sisyphus chẳng phải không có lý, thế là anh ta được cho tự do với điều kiện chỉ được ở đó ba hoặc bốn ngày, đủ lâu để anh ta thực hiện việc trả thù đầy công chính của mình và tiến hành nghi thức tang lễ đâu ra đấy, cho dù muộn đến đâu. Cố nhiên, Sisyphus chẳng đợi nhắc lại thêm lần nữa, nào phải vô cớ mà anh ta là người cơ trí nhất thế gian, anh ta quay lại dương gian sống một đời hạnh phúc cho đến khi đầu bạc răng long và chỉ quay về Địa ngục khi thân xác không mang nổi anh ta nữa.
Theo một số người, hình phạt tảng đá chỉ có một mục đích duy nhất: buộc Sisyphus cứ phải bận rộn hoài chẳng còn thời gian đâu ấp ủ mưu đồ mới nữa. Nhưng vào thời khắc bất ngờ nhất Sisyphus sẽ nảy ra gì đó và sẽ trở lại dương thế, Archimboldi kết thư bằng những lời này.
♣ ♣ ♣Cuốn tiểu thuyết anh gửi từ Icaria cho Bubis có tên Người đàn bà mù. Như người ta có thể chờ đợi, cuốn tiểu thuyết nói về một người đàn bà mù không biết mình mù và về một vài nhà thám tử có khả năng thấu thị song không biết rằng mình thấu thị. Chẳng bao lâu sau từ hòn đảo ấy lại có thêm những cuốn sách khác được gửi đến Hamburg. Biển Đen, một vở kịch hay một cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng kịch, trong đó Biển Đen đối thoại với Đại Tây Dương một giờ trước lúc bình minh. Lethea, cuốn tiểu thuyết mang chất tính dục lộ liễu nhất của anh, trong đó anh chuyển đến nước Đức dưới thời Đệ tam Đế chế câu chuyện về Lethea, cô nàng tin mình đẹp hơn bất kỳ vị nữ thần nào và rốt cuộc, cùng với chồng là Oleno, bị biến thành một pho tượng đá (cuốn tiểu thuyết này được dán nhãn là khiêu dâm và sau khi thắng một phiên tòa nó trở thành cuốn đầu tiên của Archimboldi được in tới năm lần). Người bán vé số, về cuộc đời một người Đức què bán vé số ở New York. Và Người cha, trong đó một người con trai nhớ lại những hoạt động của cha mình trong tư cách một sát thủ loạn thần kinh, bắt đầu từ năm 1938, khi người con hai mươi tuổi, và kết thúc một cách bí ẩn vào năm 1948.
♣ ♣ ♣Archimboldi sống ở Icaria một thời gian. Sau đó ông sống ở Amargos. Sau đó ở Santorini. Sau đó ở Sifnos, Syros và Mykonos. Sau đó ông sống trên một hòn đảo nhỏ tí, mà ông gọi là Hecatombe hay Superego, gần đảo Naxos, nhưng ông không bao giờ sống trên Naxos. Sau đó ông rời vùng đảo mà quay về lục địa. Dạo đó ông ăn nho và ô liu, những trái ô liu to khô queo, mùi vị và độ chắc giống như những cục đất. Ông ăn pho mát trắng và pho mát dê ướp muối mà người ta gói trong lá nho để bán, cách ba trăm mét vẫn nghe mùi. Ông ăn bánh mì đen cứng ngắc phải nhúng vào rượu cho mềm. Ông ăn cá và cà chua. Chà là. Nước. Nước lấy từ giếng lên. Ông có một cái xô và một cái bi đông giống như người ta dùng trong quân đội, ông đổ đầy nước vào đấy. Ông bơi, nhưng đứa trẻ rong biển đã chết rồi. Tuy nhiên ông vẫn là tay bơi cừ. Đôi khi ông lặn. Đôi khi ông ngồi một mình trên triền đồi đầy cây bụi, cho đến khi hoàng hôn xuống hay cho đến khi bình minh lên, ông nói ông ngồi đó suy nghĩ nhưng thật ra là ông chẳng nghĩ gì.
♣ ♣ ♣Sau khi về lại lục địa, ngồi nơi bàn ngoài trời của một nhà hàng ở Missolonghi, ông đọc được trong một tờ báo Đức về cái chết của Bubis.
Thần Chết đã đến Hamburg, một thành phố mà ngài biết rõ như lòng bàn tay mình, giữa khi Bubis đang ngồi trong phòng làm việc đọc cuốn sách của một nhà văn trẻ ở Dresden, một cuốn sách hài hước kinh người khiến ông cười đến nỗi đột quỵ. Theo lời trưởng phòng quan hệ công chúng, tiếng cười sằng sặc của ông có thể nghe rõ mồn một ở phòng chờ ngoài, ở phòng hành chính kế toán, cả ở phòng đọc morát và phòng biên tập, phòng hợp, buồng vệ sinh và căn phòng vừa dùng làm nhà bếp vừa làm chỗ để đồ ăn và vang đến tận phòng bà chủ, là phòng xa hơn hết thảy.
Đột nhiên, tiếng cười dứt. Tất cả mọi người trong nhà xuất bản, vì lý do này khác, đều nhớ như in thời điểm đó, mười một giờ hai lăm phút sáng. Một lát sau, cô thư ký gõ cửa phòng Bubis. Không ai trả lời. Sợ mình quấy rầy ông, cô quyết định chờ. Chặp sau cô cố gắng chuyển một cuộc gọi điện thoại cho ông. Không ai nhấc ống nghe trong phòng của Bubis. Cuộc gọi lần này là khẩn cấp nên cô thư ký, sau khi gõ cửa mấy lần, liền mở cửa. Bubis đổ gục người xuống, giữa những cuốn sách vương vãi một cách đầy nghệ thuật trên sàn, và ông đã chết dẫu rằng vẻ mặt ông hạnh phúc.
♣ ♣ ♣Thi hài ông được đem thiêu, tro rải trên sông Alster. Vợ góa của ông, bà nam tước, đứng ra lèo lái nhà xuất bản và tuyên bố bà tuyệt không có ý định mang công ty ra bán. Chẳng ai nói năng gì về bản thảo của nhà văn trẻ ở Dresden, anh này vốn đã gặp nhiều mắc mứu với cơ quan kiểm duyệt của Cộng hòa Dân chủ Đức.
Khi đọc xong mẩu báo, Archimboldi đọc lại toàn bộ câu chuyện thêm lần nữa rồi lại thêm lần thứ ba, sau đó ông đứng dậy toàn thân run rẩy và bắt đầu đi dạo quanh Missolonghi, cái nơi đầy ký ức về Byron, tuồng như Byron đã chẳng làm gì khác ở Missolonghi ngoài tản bộ từ đầu này tới đầu kia, từ tửu quán này đến nhà trọ nọ, từ ngõ nhỏ đến quảng trường con, trong khi ai cũng biết rằng ông bệnh quá chẳng đi đâu được và chính Thần Chết mới là người đi đó đi đây nhìn ngó và ghi chép, Thần Chết đến thăm không chỉ để tìm Byron mà còn để làm khách du lịch, bởi vì Thần Chết là du khách lớn nhất trên trái đất.
Rồi Archimboldi ngẫm nghĩ không biết có nên gửi điện chia buồn cho nhà xuất bản hay không. Thậm chí ông còn hình dung sẽ viết gì trong bức điện. Nhưng rồi ông quyết định rằng làm thế thật vô nghĩa, nên ông chẳng viết gì cũng chẳng gửi gì.
♣ ♣ ♣Hơn một năm sau khi Bubis mất, khi Archimboldi lại đang sống ở Ý, bản thảo cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông, nhan đề Trở về, đến tay nhà xuất bản. Bà nam tước Von Zumpe chẳng thiết đọc nó. Bà đưa bản thảo cho cô đọc morát và bảo cô ta chuẩn bị để ba tháng nữa đem in.
Sau đó bà gửi một bức điện tới địa chỉ hồi đáp ghi trên phong bì đựng bản thảo và ngày hôm sau bà đáp máy bay đến Milano. Từ sân bay bà đến ga tàu vừa kịp để bắt tàu đến Venice. Chiều hôm ấy, trong một nhà hàng ở quận Cannaregio, bà gặp Archimboldi và đưa cho ông một ngân phiếu tiền tạm ứng cho cuốn tiểu thuyết mới và nhuận bút mới phát sinh từ các cuốn trước của ông.
Đó là số tiền không nhỏ, nhưng Archimboldi đút ngân phiếu vào túi chẳng nói chẳng rằng. Rồi họ bắt đầu trò chuyện. Họ ăn cá sardine Venice có kèm những lát semolina mỏng và uống một chai vang trắng. Họ đứng dậy tản bộ quanh một Venice rất khác với Venice mùa đông tuyết giá mà họ đã cùng nhau hân thưởng vào lần gặp cuối trước đây. Bà nam tước thú nhận từ đó đến giờ bà không trở lại chốn này.
“Tôi cũng mới chỉ quay lại đây thôi,” Archimboldi nói.
Họ giống như hai người bạn cũ không cần phải nói gì nhiều với nhau. Đang mới đầu thu, tiết trời mát dịu, chỉ cần mặc áo len mỏng là đủ ấm. Bà nam tước muốn biết có phải Archimboldi vẫn đang sống ở Cannaregio hay không. Đúng vậy, Archimboldi nói, nhưng không phải trên phố Turlona.
Một trong những kế hoạch của ông là đi về phương Nam.
Suốt nhiều năm trời, nhà của Archimboldi, những vật sở hữu duy nhất của ông là chiếc vali đựng quần áo cùng một xấp giấy và hai ba quyển sách ông đang đọc, và chiếc máy đánh chữ mà Bubis tặng ông. Ông xách vali bằng tay phải. Máy đánh chữ ông ôm trong tay trái. Khi quần áo cũ thì ông quẳng đi. Khi đọc xong một cuốn sách, ông đem cho hoặc để nó lại trên cái bàn nào đấy. Suốt một thời gian dài ông không chịu mua máy vi tính. Thỉnh thoảng ông vào mấy cửa hàng bán máy vi tính hỏi người bán rằng máy vi tính vận hành ra làm sao. Nhưng lần nào cũng như lần nào, đến phút cuối ông lùi lại, như bác nông dân miễn cưỡng không muốn lìa xa khoản tiền tiết kiệm của mình. Cho đến khi máy tính xách tay xuất hiện. Chừng đó ông mua một cái và chỉ ít lâu sau ông dùng nó rất thiện nghệ. Khi máy tính xách tay bắt đầu có modem đi kèm, Archimboldi đổi máy cũ mua máy mới và thỉnh thoảng dành hàng giờ trên Internet, tìm những mẩu thông tin hiếm lạ, những cái tên chẳng ai nhớ, những vụ việc bị lãng quên. Ông đã làm gì với cái máy đánh chữ Bubis tặng? Ông quẳng nó từ mép vực xuống những tảng đá sâu bên dưới!
♣ ♣ ♣Một hôm, đang chu du trên Internet, ông bắt gặp mẩu tin về một người tên là Hermes Popescu, kẻ ông nhanh chóng nhận ra là thư ký của tướng Entrescu, ông tướng bị bêu xác trên thập giá mà ông đã có dịp chứng kiến vào năm 1944, khi quân Đức đang rút lui khỏi biên giới Rumani. Trên một công cụ tìm kiếm của Mỹ ông tìm ra được tiểu sử người này. Sau chiến tranh Popescu di cư sang Pháp. Ở Paris y năng lui tới gặp gỡ cộng đồng lưu vong Rumani, đặc biệt là giao du với những trí thức mà vì lý do này hay khác sinh sống trên tả ngạn sông Seine. Tuy nhiên, dần dần Popescu nhận ra rằng toàn bộ chuyện này là một trò hề như chính y gọi. Những người Rumani này chống cộng kịch liệt, viết bằng tiếng Rumani và triển vọng cuộc đời họ chả ra gì, có chăng chỉ được soi tỏ bởi vài tia yếu ớt nhá nhem của ánh sáng tính dục hoặc tôn giáo mà thôi.
Chẳng bao lâu sau Popescu tìm ra một giải pháp thiết thực. Bằng vài động thái khéo léo (những động thái nhuốm đậm cái phi lý) y len lỏi được vào những vụ làm ăn mờ ám mà trong đó thế giới ngầm, mật thám, nhà thờ và giấy phép hòa với nhau làm một. Tiền vô như nước. Cả đống tiền. Nhưng y vẫn tiếp tục làm. Y quản lý hàng đội nhân công người Rumani không có giấy tờ. Rồi người Hungary và người Séc. Rồi người Bắc Phi. Thỉnh thoảng, mặc áo choàng lông thú, như một bóng ma, y đến thăm họ ở những cái chuồng lợn nơi họ ở. Mùi của người da đen làm y chóng mặt, nhưng y thích. Mấy thằng trời đánh này mới đúng là người chứ, y hay nói vậy. Trong thâm tâm y mong cái mùi ấy nhuốm sâu vào áo choàng của y, vào cái khăn quấn cổ bằng xa tanh của y. Y mỉm cười như một người cha. Thỉnh thoảng thậm chí y còn khóc. Khi xử việc với đám găng tơ thì y khác. Tỉnh rụi là nét nổi bật của y. Không nhẫn, không dây chuyền, không có gì lấp lánh, tuyệt không có dấu vết nào dù nhỏ nhất của vàng.
Y kiếm ra tiền rồi lại kiếm ra nhiều tiền hơn nữa. Các trí thức Rumani đến gặp y vay tiền, họ cần tiền, sữa cho đám nhỏ, tiền thuê nhà, một ca giải phẫu thủy tinh thể cho bà vợ. Popescu lắng nghe họ mà cứ như đang ngủ, đang mơ. Họ xin gì y đều cho tất, nhưng với một điều kiện, là những kể lể ỉ ôi dông dài của họ họ phải thôi không viết bằng tiếng Rumani nữa mà viết bằng tiếng Pháp. Một lần khách đến gặp y là một đại úy cụt chân trước đây thuộc quân đoàn 4 của Rumani, dưới quyền tướng Entrescu.
Thấy ông đại úy bước vào, Popescu nhảy từ ghế này sang ghế kia như một chú bé con. Y đứng dậy khỏi bàn mà múa một điệu múa dân gian vùng Cácpát. Y làm bộ đái vào một góc và vài giọt nhểu ra ngoài. Điều duy nhất y không làm là lăn lộn trên tấm thảm. Ông đại úy cụt chân cố bắt chước Popescu, nhưng sự tàn phế của ông (ông mất một tay một chân) và sự yếu ớt của ông (ông bị thiếu máu) khiến ông không làm được.
“Ôi những đêm Bucarest,” Popescu nói. “Ôi, những sáng Pitesti. Ôi, những bầu trời Cluj vừa giành lại được. Ôi, những văn phòng vắng vẻ ở Turnu Severin. Ôi, những nàng vắt sữa xứ Bacau. Ôi, những nàng gái góa vùng Constanta.”
Rồi tay trong tay họ đi về căn hộ của Popescu, trên phố Verneuil, rất gần trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia, ở đó họ nói chuyện nữa và uống nữa và ông đại úy tàn tật có dịp kể tỉ mỉ cho Popescu nghe về cuộc đời ông, một đời anh dũng, hẳn rồi, song đầy nghịch cảnh. Cho tới khi Popescu, đưa tay gạt lệ, ngắt ngang mà hỏi ông ta có phải cũng là một chứng nhân cho vụ Entrescu bị đóng đinh trên thập giá hay không.
“Tôi có mặt ở đó,” đại úy tàn tật nói, “lúc ấy tụi tôi đang chạy trốn xe tăng Nga, chúng tôi mất hết pháo, chúng tôi đang sắp cạn hết đạn.”
“Vậy là mấy anh sắp cạn hết đạn,” Popescu nói, “và ông có mặt ở đó chứ?”
“Tôi có mặt ở đó,” đại úy tàn tật nói, “chiến đấu trên mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc tôi, chỉ huy vài ba lính tả tơi rách rưới, quân đoàn 4 rút lại chỉ còn một cỡ trung đoàn và không có sĩ quan hậu cần không trinh sát không bác sĩ không y tá không có bất cứ cái gì giống như một cuộc chiến tranh của thế giới văn minh, chỉ có những con người mệt lử và một lũ những thằng điên mỗi ngày một đông thêm.”
“Vậy là một lũ những thằng điên,” Popescu nói, “mà ông có mặt ở đó chứ?”
“Tôi có mặt ở đó,” đại úy tàn tật nói, “và tất cả chúng tôi đi theo tướng Entrescu, tất cả chúng tôi chờ một ý tưởng, một lời quở mắng, một ngọn núi, một cái hang rực sáng, một tia chớp chói lòa trên bầu trời không mây, một lằn sét bất ngờ, một lời tử tế.”
“Vậy, một lời tử tế,” Popescu nói, “và các anh ở đó chờ lời tử tế này?”
“Giống như một người chờ lộc thánh tự trên trời,” đại úy tàn tật nói. “Tôi chờ, mấy ông đại úy chờ, mấy ông tướng vẫn còn lại với chúng tôi chờ, mấy tay thiếu úy non nớt chờ và lũ điên cũng chờ, mấy tay trung sĩ và lũ điên, cái lũ mà nửa tiếng nữa sẽ đào ngũ và cái lũ đang trên đường đào ngũ, kéo lê súng trường trên mặt đất cháy khô, cái lũ đào ngũ mà chẳng biết mình đang đi về phía Tây hay phía Đông, phía Nam hay phía Bắc, và cái lũ còn lại phía sau, viết những bài thơ tuyệt mệnh bằng thứ tiếng Rumani rõ hay, những bức thư gửi mẹ, những mẩu thư ẩm sịt nước mắt gửi cho mấy nường con gái mà chúng sẽ không bao giờ còn gặp nữa.”
“Vậy, thư dài thư ngắn, thư ngắn thư dài,” Popescu nói, “và ông cũng không cưỡng nổi mà đâm ra sến súa bi lụy chớ?”
“Không, tôi không có giấy bút,” đại úy tàn tật nói. “Tôi có nghĩa vụ, tôi có lính dưới quyền và tôi phải làm gì đó nhưng tôi không biết phải làm gì. Quân đoàn 4 bị chựng lại nơi một nhà nghỉ thôn quê. Còn hơn cả nhà, một lâu đài. Tôi phải phân cho đám lính khỏe mạnh ở trong chuồng ngựa còn lính đau lính ốm thì ở trong buồng. Lũ điên thì tôi cho ở trong vựa lúa và tôi chuẩn bị sẵn các biện pháp cần thiết để phóng hỏa đốt vựa nếu chứng điên của lũ điên vượt quá mức điên thường. Tôi phải nói chuyện với tướng chỉ huy đặng cho ổng biết rằng ở cái dinh cơ to vật đó chả có đồ ăn gì ráo trọi. Và tướng chỉ huy của tôi phải nói với một ông tướng, rồi ông tướng này, ổng đang bệnh, ổng phải leo cầu thang lên tầng hai cái lâu đài đó đặng báo cho tướng Entrescu rằng tình hình không ổn rồi, đã có mùi tan rữa rồi, tốt nhất là nhổ trại hành quân cấp tốc về phía Tây thôi. Nhưng tướng Entrescu chỉ thỉnh thoảng mở cửa, những lần còn lại ông ta còn chẳng trả lời.”
“Vậy là đôi lúc ổng trả lời đôi lúc thì không,” Popescu nói, “và ông là chứng nhân cho tất cả chuyện này?”
“Tôi là chứng nhân, nhưng tôi nghe thấy nhiều hơn nhìn thấy,” đại úy tàn tật nói. “Tôi và đám sĩ quan còn lại của cái từng là quân đoàn 4, choáng váng, kinh hồn, hoang mang, vài người khóc tu tu, người khác nuốt nước mắt ngược vào trong, vài người rền rĩ khóc than số phận tàn khốc của nước Rumani, một đất nước mà với ngần ấy đức tính và ngần ấy hy sinh đáng lẽ phải là ngọn đèn soi đường, người khác nữa thì gặm móng tay, tất thảy đều ủ ê, ê ủ, ủ ê, cho đến khi rốt cuộc điều mà số phận đã an bài trở thành sự thật. Tôi đã không nhận ra. Lũ điên trở nên đông hơn lũ tỉnh. Chúng rời vựa lúa. Vài sĩ quan bắt đầu dựng thập giá. Tướng Danilescu đã đi rồi, tẩu về phía Bắc lúc bình minh, chẳng nói với ai một tiếng nào, tì lên gậy, có tám người hộ tống. Tôi không có mặt ở lâu đài khi chuyện đó xảy ra. Tôi đang ở gần đấy cùng với vài lính chuẩn bị những phòng tuyến chả bao giờ dùng tới. Tôi nhớ chúng tôi đào hào và tìm thấy xương. Đấy là xương bò bệnh, một lính nói. Là xác người, một lính khác nói. Là bê bị hiến sinh, lính đầu tiên nói. Không, là xác người. Cứ đào đi, tôi nói, đừng bận tâm, cứ đào đi. Nhưng lại thấy thêm xương. Cái chó gì vậy? tôi rống lên. Cái đất lạ kỳ nào vậy? tôi hét. Lính thôi không đào hào quanh lâu đài nữa. Chúng tôi nghe ồn ào kinh khủng, nhưng chúng tôi mệt quá chả còn đủ sức đi xem chuyện gì đang xảy ra. Một lính nói chắc chiến hữu của tụi mình tìm thấy đồ ăn và đang ăn mừng. Không thì rượu. Là rượu. Các hầm rượu bị khoắng sạch và có đủ rượu cho tất cả. Thế rồi, trong khi ngồi bên chiến hào săm soi một cái sọ, tôi thấy cái thập giá. Một thập giá to đùng mà một nhóm điên đang khênh giễu quanh sân lâu đài. Khi chúng tôi quay lại, với cái tin rằng không thể đào chiến hào vì lâu đài này cứ như một cái nghĩa trang, mọi cái đã xong rồi.”
“Vậy mọi cái đã xong rồi,” Popescu nói, “và ông có thấy xác ông tướng trên cây thập giá không?”
“Tôi có thấy,” đại úy tàn tật nói, “tất cả chúng tôi đều thấy thế rồi ai nấy bắt đầu lục tục đi, tuồng như tướng Entrescu có thể hồi sinh bất cứ lúc nào mà trừng phạt chúng tôi. Trước khi tôi đi, có một đội tuần tra Đức tới, họ cũng đang đào tẩu. Họ bảo chúng tôi tụi Nga chỉ cách hai làng nữa thôi và chúng không bắt tù binh. Thế rồi cánh Đức đi và chẳng bao lâu sau chúng tôi cũng lên đường.”
Lần này Popescu chẳng nói gì.
Hai người lặng thinh một chặp thế rồi Popescu vào bếp làm món bít tết cho ông đại úy tàn tật, vừa làm vừa từ trong bếp hỏi ông này rằng ông muốn bít tết tái hay chín?
“Tái vừa,” đại úy tàn tật nói, vẫn đang chìm đắm trong ký ức về cái ngày kinh khủng đó.
Đoạn Popescu dọn cho ông một đĩa bít tết tướng, kèm xốt tiêu, và đề nghị để mình cắt thịt thành từng miếng nhỏ cho ông. Ông đại úy tàn tật cảm ơn y với vẻ lơ đãng. Trong khi ăn họ không nói gì với nhau. Popescu ra ngoài trong mấy giây, bảo rằng y ta phải gọi một cú điện thoại, và khi y ta quay lại thì ông đại úy đang nhai mẩu bít tết cuối cùng. Popescu mỉm cười hài lòng. Ông đại úy đưa tay lên trán, làm như ông đang cố nhớ lại điều gì hoặc đầu ông bị đau.
“Ợ đi, cứ ợ đi, nếu cơ thể mình đã đòi ợ, bạn của tôi ơi,” Popescu nói.
Ông đại úy tàn tật liền ợ.
“Đã bao lâu rồi ông không được ăn món bít tết như vậy hử?” Popescu hỏi.
“Hàng bao năm rồi,” đại úy tàn tật nói.
“Mùi vị quả là thiên đường chứ?”
“Đúng vị thiên đường,” đại úy tàn tật nói, “nhưng nói chuyện về tướng Entrescu cứ như là mở một cánh cửa đóng chặt từ lâu vậy.”
“Dốc hết khúc nhôi tâm sự ra đi,” Popescu nói, “ông đang ở giữa những đồng bào ruột thịt mà.”
Nghe từ “những” ông đại úy tàn tật liền nhảy dựng lên nhìn về phía cửa, nhưng rõ là trong phòng chỉ có hai người bọn họ mà thôi.
“Tôi đi đặt một đĩa hát đây,” Popescu nói, “ông có muốn nghe vài bản của Gluck không?”
“Tôi chưa bao giờ nghe ông ấy,” đại úy tàn tật nói.
“Bach thì sao?”
“Có, tôi thích Bach,” đại úy tàn tật lim dim đôi mắt nói.
Quay lại bên ông đại úy, Popescu rót cho ông ít cognac Napoléon.
“Có gì khiến ông lo nghĩ không, đại úy, có gì làm ông bứt rứt không yên, có chuyện gì ông muốn kể tôi nghe không, có cách gì tôi giúp ông không?”
Môi đại úy hé ra nhưng rồi khép lại và ông lắc đầu.
“Tôi chả cần gì hết.”
“Chả cần gì hết, chả cần gì hết, chả cần gì hết,” Popescu vừa nói vừa ngồi xuống ghế bành.
“Xương với xẩu, xương với xẩu,” đại úy tàn tật lẩm bẩm, “tại sao tướng Entrescu lại đưa chúng ta tới một lâu đài mà dưới đất toàn xương vậy chớ?”
Im lặng.
“Có lẽ vì ông ấy biết ông ấy sắp chết và ông ấy muốn nếu đã vậy thì chết ở nơi toàn cái chết cho nó tiện,” Popescu nói.
“Đào đâu cũng thấy xương,” đại úy tàn tật nói. “Lòng đất đầy ú ụ xương người. Không thể nào đào một cái hào mà không gặp những xương bàn tay, một cánh tay, một cái đầu lâu. Cái chỗ gì vậy chớ? Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Và tại sao cái thập giá của mấy thằng điên nhìn từ xa cứ khẽ gọn như là một lá cờ?”
“Hẳn là ảo giác quang học,” Popescu nói.
“Tôi không biết,” đại úy tàn tật nói. “Tôi mệt.”
“Đúng đó, ông mệt rồi đại úy ơi, nhắm mắt lại đi.” Popescu nói, nhưng mắt ông đại úy đã nhắm được một chặp rồi.
“Tôi mệt,” ông nhắc lại.
“Ông đang giữa chỗ bạn bè,” Popescu nói.
“Đường dài lắm.”
Popescu im lặng gật đầu.
Cửa mở và hai người Hungary bước vào. Popescu thậm chí không nhìn họ. Bằng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa đặt rất gần miệng và mũi, y đang đánh nhịp theo Bach. Hai người Hung đứng nhìn và chờ một dấu hiệu. Ông đại úy ngủ thiếp đi. Khi nhạc dứt Popescu đứng dậy nhón chân đi lại gần ông.
“Con của một thằng Thổ và một con điếm,” y nói bằng tiếng Rumani, tuy giọng y đầy ưu tư hơn là tàn bạo.
Y ra hiệu cho hai người Hung lại gần. Mỗi người một bên, họ nhấc ông đại úy tàn tật lên lôi ra cửa. Ông đại úy bắt đầu ngáy dữ và cái chân giả của ông tuột ra trên thảm. Hai người Hung thả ông xuống sàn rồi cố vặn vít lắp cái chân vào lại nhưng không được.
“Đồ bị thịt hậu đậu,” Popescu nói, “để đó tao.”
Trong một phút, cứ như cả đời y chả làm việc gì khác ngoài việc này, Popescu lắp cái chân vào lại và rồi, thấy dạn dĩ hơn, y kiểm tra cánh tay giả.
“Ráng đừng có để rơi mất cái nào dọc đường đó,” y nói.
“Đừng lo, sếp,” một trong hai người Hung nói.
“Ta đưa hắn đến chỗ mọi khi chứ sếp?”
“Không,” Popescu nói, “tốt hơn tụi mày vứt thằng này xuống sông Seine. Phải chắc là nó ở luôn dưới đó!”
“Dĩ nhiên rồi, sếp,” gã Hung vừa nói ban nãy nói.
Ngay khi đó đại úy tàn tật mở mắt phải ra và nói bằng giọng khản đặc:
“Xương, thập giá, xương.”
Gã Hung kia nhẹ nhàng vuốt cho mi mắt ông nhắm lại.
“Đừng lo,” Popescu cười rộ nói, “hắn ngủ rồi mà.”
♣ ♣ ♣Nhiều năm sau, khi tài sản của Popescu còn hơn cả kếch xù, y phải lòng một nữ nghệ sĩ người Trung Mỹ, Asuncion Reyes, một phụ nữ có nhan sắc phi thường, và lấy cô ta. Sự nghiệp đóng phim của Asuncion Reyes ở châu Âu (phim Pháp hay phim Ý hay phim Tây Ban Nha) ngắn ngủi, nhưng các buổi tiệc mà cô tổ chức và tham dự thì đúng là không đếm xuể. Một hôm Asuncion Reyes nhờ Popescu làm một việc cho một đất nước đang cơn lận đận, bởi vì y có quá nhiều tiền. Ban đầu y nghĩ chắc ý cô là Rumani nhưng rồi y nhận ra cô đang nói về Honduras. Thế là năm đó, dịp Giáng sinh, y cùng vợ đi Tegucigalpa, một thành phố mà đối với Popescu, vốn là người ngưỡng mộ những sự tương phản và quái dị, dường như chia thành ba nhóm hay ba đẳng cấp khác hẳn nhau: người da đỏ và người bệnh, chiếm phần đông cư dân, và nhóm gọi là da trắng, thật ra là dân lai, là thiểu số nhưng nắm quyền lực trong tay.
Thảy đều là người đồi bại và dễ mến, bị tác động bởi cái nóng và thức ăn hoặc sự thiếu ăn, những người nhìn thẳng vào mặt ác mộng.
Cơ hội kinh doanh là có, điều đó y nhìn thấy tức thì, nhưng người Honduras, kể cả những người học trường Harvard, đều có thiên hướng tự nhiên là trộm cắp, trộm cắp thô bạo nếu có thể, cho nên y cố sức từ bỏ ý tưởng ban đầu của mình. Nhưng Asuncion Reyes cứ khăng khăng nằn nì mãi cho nên lần thứ hai sang đó vào dịp Giáng sinh Popescu liên hệ với giới chức sắc tôn giáo cao nhất của nước này, những lãnh tụ duy nhất mà y tin cậy. Người ta bố trí một cuộc gặp và sau khi y gặp vài vị giám mục và vị tổng giám mục Tegucigalpa, Popescu cân nhắc nên đầu tư vốn vào ngành kinh tế nào. Những khu vực duy nhất vận hành và có lãi thì nằm trong tay người Mỹ cả rồi. Tuy nhiên, một buổi chiều kia, nơi một cuộc gặp gỡ mà chủ xị là ngài tổng thống và phu nhân tổng thống, Asuncion Reyes nảy ra một ý thiên tài. Đơn giản là cô chợt nghĩ ra rằng nếu Tegucigalpa có cái gì đó giống như tàu điện ngầm Paris thì thật là hay. Popescu, người không gì có thể làm chùn bước, và có khả năng nhìn ra lợi nhuận nơi những ý tưởng kỳ khôi nhất, bèn nhìn thẳng vào mắt ngài tổng thống Honduras mà nói y có thể làm được. Mọi người đều phấn chấn lên về dự án này. Popescu bắt tay vào việc và hốt bạc. Ngài tổng thống và một vài bộ trưởng cùng thư ký càng hốt nhiều bạc hơn. Giáo hội cũng chẳng ra về tay không. Có những buổi lễ khai trương nhà máy xi măng và hợp đồng với những công ty của Pháp, của Mỹ. Công việc chuẩn bị kéo dài hơn mười lăm năm. Với Asuncion Reyes, Popescu tìm thấy hạnh phúc, nhưng rồi y đánh mất nó thế là họ ly dị. Y quên phứt tàu điện ngầm Tegucigalpa. Cái chết đến với y đột ngột ở một nhà thương Paris, khi y đang ngủ trên một giường toàn những hoa hồng.
♣ ♣ ♣Archimboldi gần như không dính dáng gì tới các nhà văn Đức khác, một phần vì những khách sạn mà các nhà văn kia cư trú khi ra nước ngoài không phải là những khách sạn nơi ông ở. Nhưng ông có dịp biết một nhà văn người Pháp tên tuổi, một nhà văn lớp trước với những tiểu luận văn chương giúp ông được thừa nhận và nổi tiếng, ông này kể với Archimboldi về một ngôi nhà dành cho những nhà văn đã biến mất của châu Âu, một chốn lánh nạn. Bản thân ông người Pháp là một nhà văn biến mất, nên ông biết mình đang nói về cái gì, và Archimboldi đồng ý đến thăm ngôi nhà ấy.
Họ đến lúc ban đêm, trên một chiếc taxi rệu rã cà tàng mà tài xế cứ lảm nhảm một mình. Tài xế tự nhắc lời mình nói, chửi thề, lại tự nhắc lời mình nói, nổi xung với chính mình, cho đến khi Archimboldi mất kiên nhẫn liền bảo anh ta im đi, tập trung mà lái. Ông nhà văn lớn tuổi, tác gia tiểu luận, hình như chẳng thấy phiền bởi màn độc thoại của tay tài xế, nhìn Archimboldi với vẻ trách móc nhẹ nhàng, làm như ông sợ tay tài xế -