← Quay lại trang sách

⚝ 9 ⚝ Tình yêu

Trong tất cả các câu chuyện tình yêu thì truyền thuyết dân gian Celtic về chàng Tristan và nàng Isolde có lẽ là chuyện tình đam mê nhất. Mặc dù Isolde khăng khăng muốn trả thù Tristan thật tàn bạo vì đã giết hôn phu của nàng, nhưng ánh mắt nhìn đắm đuối của Tristan đã làm nàng mềm lòng và cơm hận thù của nàng biến thành lòng quyến luyến. Khi người hầu gái vô tình rót cho hai người một liều tình dược, thì cả hai không thể cưỡng lại niềm đam mê của mình thêm nữa. Trên đời không có gì quan trọng hơn việc họ được ở bên nhau. Trong cơn cuồng si, họ thậm chí sẵn lòng phản bội lại chồng của Isolde (và là chú của Tristan), vua Mark tốt bụng. Khi chuyện tình bị phát hiện, họ chọn chết bên nhau.

Tại sao họ hành động dữ dội như vậy? “Cháu không thể trả lời chú điều này được,” Tristan trả lời khi vua Mark run rẩy hỏi trong vở opera của Wagner 28 . Chàng không hiểu sức mạnh nào đã kiểm soát mình. Nhưng âm nhạc mà Wagner sáng tạo cho cảnh này đã cho biết nhiều hơn: một khao khát không thể diễn tả bằng lời, một cảm giác vừa đau đớn vừa để mê.

Đây là trải nghiệm quen thuộc với tất cả mọi người, ngay cả nếu nỗi khao khát, may thay, hiếm khi trở thành tuyệt đối như trong câu chuyện của Tristan và Isolde. Chúng ta cảm thấy tình yêu bỏ bùa mê mình và chúng ta bị nó ám ảnh. Nhưng cái gì biến đổi chúng ta, và tại sao lại là người này, người đã trở nên quá ư quan trọng..., đơn giản là chúng ta không biết. Vì vậy, không nên ngạc nhiên khi, trong quá khứ, một quyền lực khuynh đảo như vậy - thứ quyền lực khiến những người yêu nhau bất chấp tiếng gọi của lý trí - chỉ có thể được giải thích là số phận hay ma thuật.

Thần dược của tình yêu

Nhưng quả thật có tồn tại những loại tình dược, và khi đổ lỗi cho sức mạnh của sự cuốn hút đối với họ, các thi sĩ Celtic đã tiến gần đến sự thật hơn là họ biết.

Ví dụ, có một hoóc môn là luliberin thường được tạo ra ở vùng dưới đồi kiểm soát việc giải phóng những hoóc môn tình dục. Thậm chí khi có một lượng luliberin nhỏ nhất xuất hiện ở não giữa, nó sẽ tạo ra ham muốn không có gì ngăn cản được. Khi tiêm chất này vào những con chuột lang đực để thí nghiệm, ngay lập tức chúng liền lao vào trò chơi tình dục mãnh liệt với bất kỳ con chuột lang cái nào xuất hiện gần chúng. Và những con chuột lang cái dưới tác dụng của chất này cũng trở thành đối tác hào hứng. Chất luliberin cũng có tác dụng y như vậy với người, mặc dù nó không có tác dụng đặc biệt kiểu như thuốc kích dục, vì sẽ phải tiêm một liều lớn trực tiếp vào não bộ.

Những thí nghiệm như vậy có thể ghê sợ, vì chúng biến tình dục dường như hoàn toàn thành cơ học. Nhưng những thần dược tình yêu còn làm được nhiều hơn là kích thích hứng thú tình dục - chúng có thể giúp hai người phát triển sự dâng hiến cho nhau kéo dài suốt cả cuộc đời. Hiện tượng này đã được Tom Insel của Đại học Emory nghiên cứu trên chuột đồng thảo nguyên, loài động vật nhỏ nhiều lông sinh sôi ở vùng Bắc Mỹ. Ông đã tiêm vào chúng hoóc môn vasopressin. Kết quả là từ sau đó chúng không bao giờ rời bạn tình của chúng nửa bước. Những con cái cũng đạt kỳ công tương tự khi được tiêm một chất có liên quan gần gũi là oxytocin.

Thực tế thì Insel chỉ tăng tốc một quá trình mà đằng nào cũng sẽ xảy ra, vì những con chuột đồng có một cuộc sống yêu đương hết sức bất bình thường. Ngay khi những sinh vật dài bằng ngón tay này đến tuổi trưởng thành, chúng lao đi tìm bạn tình đầu tiên của mình. Chúng quên bản thân mình để yêu đương cả ngày, con đực phủ bạn tình của nó đến hàng chục lần. Từ đó, hai con quấn lấy nhau mãi mãi. Chúng chuyển đến một cái tổ chung, con đực trở thành ông bố chu đáo với lũ con, và khi có kẻ xâm phạm thì cả hai đều bảo vệ nhau và bảo vệ tổ ấm của mình. Bị chia tách cũng không ảnh hưởng gì đến sự gắn kết của chúng, bởi thậm chí hàng tháng sau chúng vẫn nhận ra và ham muốn nhau. Lòng chung thủy này vượt qua cả cái chết: khi một trong hai con chết đi, con còn lại sẽ ở vậy một mình.

Làm thế nào mà sự gắn bó mạnh mẽ như vậy có thể xảy ra? Trong khi giao phối, con đực đã sản xuất ra chất vasopressin, còn con cái sản xuất ra chất oxytocin, những hoóc môn này tác động lên não bộ theo cách khiến cho hai đối tác phát triển sự thích thú lẫn nhau. Tình dục dọn đường cho tình yêu đến.

Đây chính là quá trình mà Insel đã can thiệp. Khi ông tiêm vào con chuột đực và cái một lượng hoóc môn vừa đủ, chúng đã trở thành bạn đời của nhau ngay cả khi chưa có một đêm nào đam mê giao phối cùng nhau. Chỉ một chất hóa học cũng đủ để tạo ra một mối liên kết suốt đời chúng. Và cuộc thí nghiệm cũng có hiệu quả theo hướng ngược lại. Khi, sau một đêm giao phối mãnh liệt, hoóc môn tình yêu của những con vật này bị chặn lại, những con chuột đồng thảo nguyên này không còn duy trì tinh thần một vợ một chồng đặc trưng của chúng nữa.

Sự thiếu chung thủy này rõ ràng là do các đối tác đã quên nhau gây ra, hoặc thậm chí không còn một ấn tượng nào về lần đầu tiên. Trong bất kỳ trường hợp nào, khi một con chuột đồng thảo nguyên không còn hệ thống vasopressin hoạt động nữa đối diện với một con chuột cái nó đã thường xuyên giao phối, thì nó hành động như thể chưa từng gặp con cái này, mỗi lần gặp nó đều hít lấy hít để con cái như thể gặp lần đầu tiên. Các cuộc kiểm tra cho thấy, vấn đề không phải con đực trở nên ngớ ngẩn đi mà là nó mất hết ký ức về những sinh vật khác. Tình thân nằm phần ký ức xã hội, mà não bộ rõ ràng đã dành ra những mạch thần kinh riêng cho nó, những mạch chịu tác động của oxytocin và vasopressin. Khi chúng ta tha thiết nghĩ về người ta yêu, thì đây là những chất hóa học mà chúng ta đang cảm thấy tác động của chúng. (2)

Vasopressin và oxytocin thậm chí còn tạo ra quan hệ tình thân giữa những con vật mà đối với chúng mối quan hệ kiểu như vậy là hoàn toàn xa lạ. Ví dụ, chuột nhà thường chỉ quan tâm đến bạn tình của nó trong suốt thời gian giao phối, và chỉ thế thôi. Áp dụng biện pháp can thiệp gien, Insel đã dạy cho chúng biết về chế độ một vợ một chồng. Cấy một gien duy nhất của chuột đồng thảo nguyên vào vật liệu di truyền của chuột nhà, và do vậy, cấp cho não bộ của chúng những thụ thể tiếp nhận vasopressin và oxytocin, ông đã tạo ra những đôi chuột chung tình giữa lũ chuột nhà. Chuột nhà cũng sản xuất ra lượng lớn những hoóc môn này trong quá trình giao phối, nhưng bởi vì không có các thụ thể phù hợp trong não bộ nên các hoóc môn này không gây ra tác động lâu dài. Tuy nhiên, sau khi tái cấu trúc lại gien một chút xíu, vasopressin và oxytocin đã làm cho những con vật này có khả năng hưởng thụ đời sống đôi lứa bền lâu. Chỉ cần duy nhất một gien để biến một con vật có tập tính đa thê thành con theo tập tính một vợ một chồng, và để thiết lập bối cảnh cho tất cả các mẫu hành vi phức tạp mà một mối quan hệ hợp tác suốt đời đòi hỏi.(3)

Với con người, các cơ chế hấp dẫn, tình yêu và lòng chung thủy phức tạp hơn nhiều. Chúng ta cũng có thiên hướng về chế độ một vợ một chồng, mặc dù chúng ta khó có thể khẳng định rằng mỗi đêm nồng nàn đều dẫn đến một mối quan hệ suốt đời. Nhưng sẽ thực sự đáng ngạc nhiên nếu như những “tình dược” không đóng một vai trò quan trọng nào ở con người. Trong năm triệu năm, oxytocin, vasopressin và những chất tương tự đã điều khiển đời sống tình dục của hầu hết các sinh vật, từ loài

đơn giản nhất như con giun đất đến loài họ hàng gần nhất của chúng ta là khỉ.(4)

Cái làm chúng ta khác biệt với những sinh vật này phần nhiều không phải là những cơ chế cơ bản của tình yêu mà là sự tự do chúng ta có để ứng xử với chúng. Con người có thể vứt bỏ bản thân cho thiên hướng của mình, trong những trường hợp cực đoan thậm chí chống lại cả những phán đoán đúng đắn hơn của họ. Như trong đoạn cuối vở nhạc kịch Tristan và Isolde của Wagner, Tristan kiệt sức nguyền rủa “liều thuốc ghê tởm”, và câu nói “Chính ta đã tạo ra chuyện này” gợi ra một sự thật sâu sắc hơn: [mối tình] đó là sản phẩm của trí óc anh ta. Con người thực cũng có thể cưỡng lại tình yêu, dù đấy là vì bị gia đình phản đối, hay vì họ muốn dành trọn thời gian và công sức cho sự nghiệp.

Môi trường sống có ảnh hưởng chính yếu đến việc chúng ta có gắn kết tình cảm với người khác hay không, gắn kết khi nào và như thế nào. Nhưng những cảm xúc mà tất cả điều này dựa vào đều được lập trình sẵn trong chúng ta.(5)

Não bộ của đàn bà và đàn ông

Sự hấp dẫn giới tính bắt đầu trong não bộ, vốn được thiết kế khác nhau giữa nam và nữ để đảm bảo sự cuốn hút lẫn nhau. Giai đoạn ham muốn dục tình được thiết lập từ trong tử cung.

Một thí nghiệm thú vị do chính tự nhiên thực hiện đã cho thấy cực nam hay cực nữ của tình yêu hình thành như thế nào. Nó liên quan đến một nhóm dân làng nhỏ ở nước Cộng hòa Dominica được gọi là gueuedoce, tiếng Tây Ban Nha nghĩa là “tinh hoàn ở tuổi mười hai”. Trong quá trình trưởng thành, các guevedoce dường như trải qua một sự thay đổi giới tính. Lúc mới sinh thì chúng không có dấu hiệu nào của bìu dái hay dương vật, trông như con gái, nên được nuôi dưỡng như con gái. Ngay khi những thay đổi hooc môn ở tuổi dậy thì bắt đầu thì giới tính thực sự của chúng mới thể hiện ra: bìu dái kéo xuống từ cái lúc trước được coi là môi âm hộ và từ âm vật mọc ra một dương vật. Cùng lúc đó, các guevedoce bắt đầu cư xử như những chàng trai trẻ. Từ ngày ấy đến ngày tiếp theo, chúng quảng những con búp bê và thứ quần áo xưa nay chúng vẫn mặc vào góc nhà, mặc áo sơ mi và quần âu, bắt đầu tỏ ra quan tâm đến bóng đá - và đặc biệt là quan tâm đến các cô gái.

Trong thế giới làng truyền thống của họ, nơi cứ năm đứa trẻ thì có một đứa có thể là guevedoce, chuyện chúng được dạy dỗ để [lớn lên thành con gái| bị đàn ông ve vãn chẳng còn là chuyện quan trọng nữa. Giờ đây chúng phản ứng với sự hấp dẫn của phái nữ, và phản ứng khá tốt. Tình yêu đã được lập trình gien quá mạnh còn ảnh hưởng của quá trình dưỡng dục là quá nhỏ. Những người đàn ông mới toanh này không gặp khó khăn gì để thiết lập vai trò đàn ông của mình - họ chỉ làm cái mà thiên chức đòi hỏi.

Cũng giống như cơ thể, bộ não được xây nên theo một thiết kế giới tính hoặc là nam hoặc là nữ. Điều này được hình thành trong những tuần đầu tiên của giai đoạn mang thai, khi não bộ và các cơ quan sinh dục của bào thai phát triển, dựa theo hình mẫu hoặc nam hoặc nữ. Do vậy, một đứa trẻ bước vào thế giới này với bộ não hoặc của một cậu bé hoặc một cô bé, cùng hình hài tương ứng.

Nhưng những guevedoce, mà trường hợp của họ đã được các nhà khoa học Mỹ nghiên cứu hơn hai thập kỷ trước, thì lại khác: trong hai công tắc (một cho não bộ, một cho cơ thể có một cái bị hỏng. Mặc dù bộ não của thai nhi phát triển bình thường, nhưng sự hình thành của các cơ quan sinh dục lại bị trì hoãn, và các guevedoce được sinh ra với bộ não của bé trai nhưng lại mang hình hài thể chất của bé gái. Hiện tượng độc nhất vô nhị này cho thấy cấu trúc của não bộ trước khi sinh quyết định một cách mạnh mẽ nhường nào hành vi sau này trong tình yêu.(6)

Nhưng tại sao chúng, những đứa bé “giả nữ” này lại trở thành con trai chứ không phải ngược lại? Tại khởi điểm của sự phát triển, tất cả con người đều là nữ. Kiến trúc cơ bản của cơ thể và não bộ mà từ đó cả hai giới tính phát triển là của một người phụ nữ - hình ảnh trái ngược với câu chuyện Eve được tạo ra từ xương sườn của Adam. Chỉ sau này nhiễm sắc thể Y giới tính nam mới đưa ra tín hiệu cho sự phát triển nam tính. Vào khoảng tám tuần sau khi thụ thai, các gien trên nhiễm sắc thể này kích thích các tuyển sinh dục chuyên sản xuất testosterone, hoóc môn giới tính nam. Sử dụng nhiều con đường khác nhau, chất truyền dẫn này hướng dẫn cơ thể và bộ não để tạo ra một người nam.

Sự khác biệt giữa hai giới tính đặc biệt rõ ràng trong cấu trúc của đại não. Ở nữ giới, hai nửa của đại não được liên kết mạnh hơn hẳn, đấy là lý do tại sao các trung tâm não bộ riêng lẻ theo một khía cạnh nào đó dường như kém chuyên biệt hóa hơn ở nam giới. Người ta cũng hay có giả định, nhưng chưa từng được chứng minh, rằng vì lý do này phụ nữ thường sẵn lòng nói về cảm giác của họ hơn nam giới. Cái rõ ràng là cấu tạo đôi chút khác nhau của bộ não nam giới và nữ giới được thể hiện qua suy nghĩ. Phụ nữ thường nói năng trôi chảy hơn, tính nhẩm và nhận thức nhanh hơn, và đôi tay họ cũng khéo léo hơn. Đàn ông thì ngược lại, thường giỏi toán logic hơn và nhận thức không gian tốt hơn.

Tuy nhiên, nói chung, ý nghĩa của những sự khác nhau này thường bị phóng đại quá mức. Ví dụ, một tiêu đề hấp dẫn như Tại sao đàn ông không lắng nghe và đàn bà không đọc được bản đồ đã cố gợi ý rằng tất cả mọi thứ khác nhau của hai giới tính đều có thể được giải thích một cách đơn giản. Nhưng điều đó không hề đơn giản như thế. Hai giới tính với hai thế mạnh khác nhau là câu chuyện về sự quân bình - theo những dữ liệu được thu thập từ rất nhiều đàn ông và đàn bà. Và số liệu thống kê phải được xử lý cẩn thận, đặc biệt khi sự khác nhau nói chung không to tát đến vậy. Trung bình, mặt trời tỏa sáng trên bầu trời New York 107 ngày một năm, còn ở Baltimore chỉ 105 ngày. Tuy nhiên chưa ai từng có thể tuyên bố rằng xét hằng ngày thì thời tiết ở New York đẹp hom ở Baltimore.

Tình dục vào đầu ta như thế nào?

Nói về khía cạnh tư duy thì sự khác nhau giữa não bộ của nam giới và nữ giới là không đáng kể, nhưng trong các vấn đề của tình yêu thì những khác biệt ấy rất lớn. Cuộc sống của những guevedose gợi ý rằng bộ não của những người đàn ông và đàn bà có xu hướng tình dục khác giới hầu như được lập trình hướng về giới tính đối ngược. Và trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu não bộ đã bắt đầu phát hiện ra căn nguyên của sở thích tình dục.

Nguồn gốc của hấp dẫn giới tính là não trung gian, nằm ngay tại trung tâm não bộ và là nơi các điều kiện cho sự kích thích được tạo ra. Não trung gian của nam và nữ khác nhau rõ ràng đến mức mắt thường có thể phân biệt được: một nhân đặc biệt, khu vực tiền thị giữa (medial preoptic area) của vùng dưới đồi trong não bộ nam giới to gấp đôi so với nữ giới, và cấu trúc của nó cũng khác nhau giữa nam và nữ. Trong số những chức năng khác thì vùng tiền thị này còn kiểm soát việc giải phóng chất luliberin, một chất rất quan trọng.

Chúng ta nhìn thấy những hệ quả của sự khác biệt kích cỡ xảy ra trong tình yêu, vì có nhiều khả năng khu vực tiền thị của đàn ông kích thích ham muốn đối với đàn bà. Nếu nhân này được kích thích, một niềm hứng thú gần như cuồng dại dần lớn lên đối với bất cứ phụ nữ nào xuất hiện trong tầm ngắm. Nếu như cắt bỏ nhân này đi, niềm hứng thú với giới tính kia cũng biến mất. Những con khỉ đực bị phẫu thuật cắt bỏ khu vực tiền thị này bắt đầu cư xử như con cái, mặc dù chúng vẫn tiếp tục thực hiện và hưởng thú vui thủ dâm. Điều này gợi ý rằng có những quá trình khác nhau chịu trách nhiệm về việc phát triển niềm hứng thú với giới tính đối ngược và về việc đạt được thỏa mãn tình dục (8)

Một nhóm nhà nghiên cứu cùng với nhà thần kinh học Nhật Bản Yutaka Oomura đã nghiên cứu rất kỹ khu vực tiền thị này. Để cho sự lôi cuốn và quan hệ tình dục xảy ra tự nhiên dưới những điều kiện được kiểm soát, họ đã nghĩ ra một cách sắp xếp đặc biệt dẫn dụ đối tượng thí nghiệm giao hợp trên những chiếc ghế theo đúng kịch bản. Trong suốt quá trình giao hợp này, các nhà khoa học đo hoạt động thần kinh của vùng dưới đồi. Câu chuyện này có vẻ hợp lý trong những quán bar khiêu dâm ở Bangkok hơn là trong một phòng thí nghiệm của trường đại học, mặc dù “đối tượng” thí nghiệm không phải là con người mà là những con khỉ macaquel 29 , và đảm bảo với bạn rằng cuộc thí nghiệm không gây ra chút đau đớn nào cho những con vật này. Song, cuộc thí nghiệm kỳ dị này lại cung cấp những chứng cứ rõ ràng nhất cho đến hôm nay rằng, khu vực tiền thị, trên tất cả, chịu trách nhiệm cho ham muốn tình dục chứ không phải cho hành động tình dục theo nghĩa hẹp.10 Những cách nó thực hiện nhiệm vụ đó thì vẫn hãy còn ẩn số. Có thể những kết nối điện tới dương vật và đại não được tạo thành từ những nhân khác trong não giữa và hệ thần kinh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giải phẫu não sẽ giúp giải thích tại sao bản năng giới tính đực thường gắn với tính hung hăng. Khu vực tiền thị được kết nối với hạch hạnh - trung tâm tạo ra tính hung hăng cùng những cảm giác đen tối khác - bằng một số bó sợi thần kinh.(11)

Về ham muốn của phái nữ - được nghiên cứu sơ lược hơn - có một vùng khác trong não giữa chiếm vị trí quan trọng, được gọi là nhân bụng trong (ventromedial nucleus) của vùng dưới đồi. Nó tạo ra những phản xạ giao phối ở động vật có vú. Nó khiến những con chuột cái trở nên đờ đẫn để con đực phủ lên, còn những con khỉ cái phô bày bộ phận sinh dục của chúng. Với người nữ, vốn không bị trói buộc bởi những hành vi có tính lễ nghi như vậy, thì nhân bụng trong có lẽ chỉ kích thích một trạng thái sẵn sàng về tổng thể cho việc giao hợp. Nhân này chịu sự tác động của những hoóc môn tình dục, điều này hẳn có thể lý giải cho sự biến đổi khả năng bị kích thích của nữ giới trong suốt chu kỳ kinh nguyệt hằng tháng.

Chỉ nhìn qua não bộ cũng thấy phụ nữ được lập trình cho tình dục trên mức độ nào, vì ở cả hai giới, những vùng rộng lớn bên dưới hộp sọ đều được trang bị rất hào phóng các thụ thể cho những hoóc môn tình dục như oxytocin. Có cả một số lượng áp đảo những tế bào thần kinh tham gia vào việc nhận tín hiệu từ các cơ quan sinh dục và chuyển đổi chúng thành cảm giác yêu đương, điều đó là có lý do chính đáng. Nếu kích thước của các bộ phận riêng lẻ mà tương ứng với phần không gian dành cho chúng trong não bộ, thì dương vật và âm vật đã có thể lớn hơn toàn bộ phần thân trên. Vị trí tiếp theo hẳn sẽ thuộc về đôi môi, cũng là cơ quan được thiết kế cho việc hưởng thụ tình yêu (và ăn uống).

Tính đa dạng của tình yêu

Một người phụ nữ yêu một người đàn ông và một người đàn ông yêu một phụ nữ, đó không phải là ý tưởng về sự thỏa mãn của tất cả mọi người: ít nhất có bảy triệu người Mỹ thích đối tác tình dục đồng giới.

Thực tế này không hề mâu thuẫn với những phát hiện về sự hình thành giới tính trong não bộ. Những guevedoce, với sự chuyển hóa từ những đứa trẻ “giả gái” trở thành đàn

ông, là một ví dụ khác về sự tự do mà sinh học trao cho tính đa dạng trong bản năng giới tính. Bản năng giới tính của cơ thể và các vùng não bộ kiểm soát ham muốn tình dục có thể đi theo nhiều hướng khác nhau, và bên trong cơ thể [một số] đàn ông cũng thường phát triển những não bộ cho phép một đàn ông bị hấp dẫn bởi những đàn ông khác.

. Phát hiện này được nhà nghiên cứu khoa học Simon LeVay ở California khẳng định khi ông tiến hành mổ khám nghiệm tử thi người tình dục đồng giới nam chết vì bệnh AIDS. Theo một số đặc điểm tương thích với sở thích tình dục, thì cấu trúc não bộ của họ giống với nữ giới hơn là giống với nam giới điển hình. Như LeVay thuật lại, khu vực tiền thị của họ nhỏ hơn so với ở đàn ông trung bình (và những liên kết giữa hai nửa đại não cũng chặt chẽ hơn tương ứng). Điều này tất nhiên không có nghĩa là người đồng tính nam có bộ não của phụ nữ như thường được nhận định. Sự khác nhau gần như chỉ liên quan đến mỗi vùng phụ trách ham muốn tình dục trong não mà thôi. Mặt khác, thể tích não khác biệt một cách đáng kể giữa đàn ông và đàn bà, nhưng không có sự khác biệt nào giữa người có xu hướng tình dục đồng giới và người xu hướng tình dục khác giới.

Những tổ chức người đồng tính chỉ trích gay gắt LeVay, bản thân ông cũng là người đồng tính công khai. Những người hoạt động trong các tổ chức đó sợ rằng họ lại bị đóng dấu “bệnh” nếu như sở thích tình dục của họ được chứng minh có một nền tảng hữu cơ trong não bộ.12 Nỗi nghi ngại như vậy của một số ít người bấy lâu nay chiến đấu vì quyền lợi của họ là hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng những mối quan ngại của họ không đặt đúng vào trong (12) tâm vấn đề. Trên thực tế, những nghiên cứu của LeVay đã cho thấy tình dục đồng giới không có gì khác thường cả: khi một người đàn ông cảm thấy đam mê một người đàn ông khác, không có gì lệch lạc ở đấy, mà chỉ đơn giản là một biến thể tự nhiên của xu hướng tình dục. Như kiểu Có người thuận tay trái có người thuận tay phải, người này có khiếu âm nhạc người kia có khiếu thể thao, cũng vậy, có các xu hướng tình dục khác nhau. Điều tương tự cũng đúng cả với nữ giới, mặc dù tình yêu đồng giới nữ, cũng như rất nhiều các vấn đề nữ giới riêng biệt khác, cho đến nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đầy đủ.

Nằm giữa xu hướng tình dục khác giới và đồng giới là toàn bộ phạm vi của các bước trung gian. Chỉ hiếm khi một bộ não mới phát triển theo thái cực nam tính hay cực nữ tính. Thường thường nó nằm đâu đó ở giữa. Không ai thuần nữ, mà cũng không ai thuần nam.

Sự tinh vi của những sắc thái này có thể quan sát thấy loài chuột, mà hành vi của những con trưởng thành bị ảnh hưởng mạnh bởi môi trường xã hội từ trong dạ con. Một con chuột con cái nằm cùng với anh em khác giới trong dạ con của chuột mẹ, và do đó thường tiếp xúc với hoóc môn tình dục của anh em khác giới, thì sau này hành động hung hăng hơn và đẻ nhiều con hơn hẳn những con cái chỉ lớn lên giữa chị em cùng giới. Đối với chuột đực, ta thấy những hiệu ứng ngược lại: Có chị em chuột cái ở cùng trong tử cung sẽ tạo cho chúng chº bản tính hiền lành hơn. Rõ ràng, nguyên nhân của những hành vi giới tính không chỉ nằm ở gien - những ảnh hưởng trước hoặc sau khi sinh có thể đóng vai trò lớn tương đương hoặc thậm chí còn lớn hơn.(13)

Với con người, các mức độ biến đổi giữa hai giới tính có thể còn tinh vi hơn, không chỉ bởi vì chúng ta ít bị ràng buộc bởi một vai trò đặc biệt hơn những sinh vật khác (nhờ Có đại não lớn hơn), mà còn bởi vì các cực giới tính nam và nữ của Người thông minh nằm rất gần nhau. Khu vực tiền thị là một bằng chứng cho điều này: ở loài gặm nhấm, khu vực tiền thị của con đực lớn gấp bốn lần so với con cái, ở con người thì nó trung bình là gấp đôi. Do vậy, não bộ của con người đưa đến những kiểu dạng muôn màu muôn vẻ của tình yêu, từ người lãng mạn nhút nhát đến người đàn bà bạo dâm hạng nặng.

Lên đỉnh

Không phải người đàn ông nào cũng là Don Juan. Song đa phần đàn ông đều cho rằng tình yêu là chinh phục và tình dục là phần thưởng. Ở mức độ nào đó, đây là một phần trong văn hóa chúng ta, vốn bị ám ảnh bởi những mô típ này hàng thế kỷ nay. Nhưng không chỉ những tính chất của khu vực tiền thị là cái cho thấy nguyên nhân sâu xa hơn nằm đằng sau mối kết nối giữa tính dâm dục và sự hung hăng của giống đực.

Từ những ánh mắt đầu tiên cho đến khi đạt đỉnh cực khoái, cả người nam lẫn người nữ đều trải nghiệm những ham muốn nhục dục vốn được điều khiển bởi những cơ chế khác nhau. Nam giới chịu sự chi phối của hoóc môn vasopressin. Không phải chỉ con chuột đồng thảo nguyên nhỏ bé mới bị chất này biến thành một con chuột chung tình, vì cả ở động vật lẫn con người vasopressin đều kích thích tính hung hăng. Một sự mâu thuẫn? Chỉ lúc đầu thôi, bởi xét cho cùng, người cha của một gia đình vẫn bảo vệ vợ con và mái ấm của mình bằng mọi phương tiện có thể.

Trong những giai đoạn khác nhau của màn kích thích dạo đầu, nồng độ vasopressin của nam giới đo được tăng gấp mười lần so với bình thường.14 Nên xem xét con số này cẩn thận, bởi vì cho đến bây giờ nó mới chỉ được xác định trong máu, và hàm lượng hoóc môn có thể khác trong não bộ, nơi quyết định hành vi. Nhà sinh học thần kinh người Đức Rainer Landgraf đã phát hiện những sự khác biệt này xảy ra thế nào khi ông đo thành công mức giải phóng chất oxytocin và vasopressin bằng một điện cực nhỏ xíu nối trực tiếp vào não bộ của chuột.(15) Vẫn có thể có lập luận rằng chất vasopressin chỉ hoạt động trong cơ thể mà không hoạt động chút nào trong não bộ, nhưng khả năng này không lớn lắm, vì các thí nghiệm cho thấy khi không có chất vasopressin trong não bộ thì con đực không có còn chút say mê nào khi giao phối cả. Nó vẫn có khả năng cho hoạt động sinh lý, nhưng nó sẽ thấy bạn tình của nó chẳng thú vị hơn gì một cái giẻ rách ướt.162

Màn dạo đầu càng tăng cường, và khả năng nó dẫn đến giao phối càng lớn, thì mức vasopressin càng giảm. Tại thời điểm phóng tinh, mức vasopressin gần như trở lại bình thường - một dấu hiệu khác cho thấy sự cám dỗ và quan hệ tình dục khác nhau như thế nào. Ngay khi đến gần điểm cực khoái, có một hoóc môn khác dường như chi phối người đàn ông: mức oxytocin, phiên bản nữ của chất vasopressin, giờ đây tăng lên. Không có chất oxytocin thì không có cực khoái - và do vậy tại đỉnh điểm cả hai giới đều chịu sự ảnh hưởng của chất quyết định ham muốn của nữ giới ngay từ giây phút đầu tiên.

Bởi những con cái có một cách khác để kích thích. Nếu lượng vasopressin trong não bộ chuột cái được nâng lên, thì ham muốn tình dục của chúng giảm gần như về không. Ngược lại, lượng oxytocin dồi dào bắt đầu tăng dần từ những giây phút tán tỉnh đầu tiên, hiển nhiên đặt chúng vào trạng thái sẵn sàng cho một cuộc ái ân. Nếu tác dụng của chất oxytocin bị chặn lại, chúng cự tuyệt bất cứ hành động ve vãn tình dục nào của con đực. Nếu con đực cứ tiếp tục, con cái sẽ trở nên hung dữ.

Khi một người phụ nữ gần đạt đến trạng thái cực khoái, thì lượng oxytocin được giải phóng nhiều hơn bao giờ hết. Trong thời điểm cực khoái, chất endorphin, chất chịu trách nhiệm cho trạng thái cực khoái của cả hai giới, sẽ được giải phóng ra. Các nhà khoa học nghiên cứu sự trải nghiệm trạng thái cực khoái nhiều lần ở phụ nữ đã phát hiện ra rằng, càng nhiều chất oxytocin được giải phóng trong màn dạo đầu thì trạng thái cực khoái càng mãnh liệt. (18)

Làm tình đi, đánh nhau làm gì!

Tại sao chúng ta lại trải nghiệm cực khoái? Câu hỏi này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời, mặc dù các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu nó hàng thập kỷ.

Họ đã bị thu hút chú ý mạnh mẽ bởi trạng thái cực khoái đầy bí ẩn của phái nữ. Một số thậm chí còn nghi ngờ rằng, không có bất kỳ lý do nào để cái phản ứng không đáng tin cậy này tồn tại cả. Xét cho cùng, những lợi ích của việc sinh sản có thể được thỏa mãn nhờ những hoóc môn kích thích người nữ giao hợp trong thời kỳ rụng trứng. Và thậm chí nếu ta thừa nhận phụ nữ nên có khả năng hưởng thụ tình dục, các nhà nghiên cứu này vẫn cho rằng cực khoái không phải là một điều kiện tiên quyết cho sự hưởng thụ. Những ý kiến ít cực đoan hơn giải thích rằng cực khoái có thể làm nhiệm vụ như một tín hiệu sinh học đối với phụ nữ để cho thấy họ đã tìm được đối tượng thích hợp. Tuy nhiên, không có một chứng cứ nào chứng minh cho lý thuyết khá thiên về nam giới này.

Ít nhất thì một huyền thoại đã sụp đổ: hóa ra, phụ nữ không phải là giống cái duy nhất trải nghiệm cực khoái. Các nhà nghiên cứu đã quan sát những con khỉ cái sắp lên đỉnh và thấy nhịp tim của chúng đập dồn dập cùng những chuyển động ngoài kiểm soát, rất gần với những phản ứng của phụ nữ trong cơn cực khoái. Nhà nghiên cứu tình dục người Hà Lan Koos Slob là người đầu tiên thực hiện những quan sát này trong quá trình nghiên cứu khỉ macaque (19)

Tất cả các động vật linh trưởng đều là sinh vật xã hội, vậy thì tại sao việc giao phối lại không thể có một chức năng xã hội vượt ra ngoài chức năng sinh sản? Chẳng hạn, những con tinh tinh, hay gọi là tinh tinh lùn, thường dùng tình dục để giải quyết xung đột. Khi căng thẳng nảy sinh, những thành viên hiếu chiến nhất của nhóm sẽ được thỏa mãn tình dục. Nếu xung đột tiếp tục, việc giao phối sẽ hóa giải các chiến binh. Vì lũ tinh tinh cũng tham gia vào các hoạt động tình dục tương tự như vậy, nên rõ ràng đối với chúng việc giao phối có những mục đích khác chứ không chỉ là sinh sản.

Hóa học thần kinh của trạng thái cực khoái cho thấy ý nghĩa của những hành động trên. Chất oxytocin được giải phóng ở cả hai giới trong lúc đạt cực khoái chính là một công cụ của hòa bình. Như nhiều cuộc thí nghiệm đã khẳng định, nó khuyến khích sự gắn bó và cản trở tính hung hăng. Và các opioid, chất chịu trách nhiệm cho cảm giác ngây ngất khi đạt cực khoái, cũng mang lại cảm giác thư giãn dễ chịu. Một người đang thấy dễ chịu thì không có lý do gì để đánh nhau cả.

Tình dục khiến chúng ta gắn kết với nhau hơn, và nó có thể thực sự làm giảm tính hung hăng, hiếu chiến. “Làm tình đi, đánh nhau làm gì”, giới híp pi trẻ 30 trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam kêu gọi. Và họ đúng.

Tình yêu là một thói nghiện?

Trong những khoảnh khắc thăng hoa nhất của tình yêu, nửa kia của ta dường như trở thành một người thực sự đặc biệt. Khi chúng ta yêu, không có gì và không ai khác có thể đặt chúng ta vào một tâm trạng hưng phấn đến vậy. Những cảm giác lãng mạn này thường được hòa trộn với một niềm phấn khích kỳ lạ dường như xóa nhòa ranh giới giữa hai cá nhân. Từ ngàn xưa các thi sĩ đã miêu tả trạng thái này. Gần đây, hai nhà nghiên cứu ở London là Andreas Bartels và Semir Zeki đã chứng minh rằng trạng thái say đắm trải nghiệm trong tình yêu cũng có thể được tiếp cận theo cách khoa học.

Bartels và Zeki tìm trên Internet các tình nguyện viên, chủ yếu là nữ, những người này mô tả trạng thái của họ như là bị ám ảnh bởi “tình yêu điên cuồng, sâu sắc và đích thực nhất”, và khảo sát các đối tượng này bằng công nghệ chuyên dụng MRI. Đầu tiên họ cho các phụ nữ này xem một số bức ảnh của những người bạn mà họ chưa từng có quan hệ tình dục và yêu cầu họ nghĩ về những người này thật tập trung. Trong thời gian này các nhà khoa học ghi lại hoạt động trong não bộ của họ. Sau đó, họ lại được cho xem những bức ảnh của người họ yêu, và được yêu cầu nghĩ về bạn tình của mình trong khi các nhà khoa học đo hoạt động não bộ của họ lần thứ hai. So sánh hai trải nghiệm này, các nhà khoa học có thể biết được cái gì xảy ra khi nào họ tập trung vào bạn tình, và nó hóa ra rất giống với mẫu hình hoạt động não bộ khi bị ảnh hưởng của heroin và Cocaine. (20)

Nhìn dưới góc độ sinh học thần kinh thì điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì những chất gây nghiện cùng với thần dược tình yêu oxytocin và vasopressin đều tác động vào những mạch thần kinh giống nhau trong não bộ. Cả hai đều tác động vào những hệ thống nơi chất dopamine, hoóc môn ham muốn, đóng một vai trò quan trọng. Vì như chúng ta biết, sự giải phóng chất dopamine là rất cần thiết cho sự gắn kết lẫn nhau của hai con người, nó kiểm soát sự chú ý và đánh thức ham muốn.

Nhà tâm lý học thần kinh Jaak Penksepp so sánh tình yêu với thói nghiện: trong trường hợp này là một gắn kết được tạo ra với chất gây nghiện, trường hợp kia là với một con người. Quan hệ này trở nên đặc biệt rõ ràng khi phải chia ly - cai chất gây nghiện và chia tay người yêu dấu. Cả hai đều gây ra cảm giác cô đơn và trống rỗng, khiến mất hứng thú ăn uống, trầm cảm, mất ngủ và hay cáu gắt. (21)

Người nghiện thường sẽ trở nên chai lì dần đi với tác dụng dễ chịu của một chất gây nghiện, và qua thời gian tính hấp dẫn của một người yêu dấu đôi khi cũng có thể phai nhạt đi. Song, chúng ta cũng thường xuyên gặp những cặp đôi mà mắt vẫn sáng ngời lên khi nhìn nhau, thậm chí sau hàng thập kỷ. Nhất định phải có một cơ chế nào đó hoạt động chống lại sự cùn mằn tình yêu và bảo vệ con người tránh khỏi việc trải nghiệm bạn tình của mình như một chất gây nghiện mà họ bị gắn chặt vào chỉ bằng thói quen.

Ở đây, oxytocin dường như cũng có liên quan. Thí nghiệm trên những con vật cho thấy rằng hoóc môn này ít nhất có thể làm yếu thói quen hướng đến những cảm giác tích cực. Nếu điều này được chứng minh là đúng, thì công thức thần kỳ để kéo dài tình yêu chính là tình dục. Xét cho cùng, chất oxytocin được giải phóng ra trong suốt giai đoạn cao trào của cuộc ái ân. Giữ cho cảm giác đam mê luôn nồng cháy, nó có thể mang đến cho các cặp đôi một dạng suối nguồn tươi trẻ.(22)

Hạnh phúc của tình mẫu tử

Tình yêu cũng đơm hoa kết trái khi một đứa trẻ được sinh ra. Theo cách nào đó, tình cảm yêu thương của cha mẹ dành cho con cái cũng mang một điểm tương đồng rõ rệt với sự cuốn hút dục tình. Những người đang yêu thương cảm thấy họ hòa vào nhau. Những người mẹ - những người cha thì ít hom - thường trải nghiệm điều tương tự như vậy. Họ cảm thấy mình và lũ trẻ hóa làm một, và nỗi đau hay niềm vui của chúng cũng là của mình.

Liệu sức mạnh tác động trong cả hai trường hợp đều là một? Nghiên cứu não bộ có thể giúp trả lời câu hỏi này. Nếu chúng ta xem xét não của những người mẹ đang nghe bằng ghi âm tiếng khóc của con mình, thì những hình ảnh não tương đồng rõ nét với những người đang yêu khi tập trung nghĩ về người mình yêu. Đây không phải là bằng chứng, nhưng nó là một chỉ báo rất mạnh mẽ rằng những quá trình tương tự tạo ra hưng phấn được kích thích bởi tình thương yêu - rằng cảm giác hạnh phúc khi ở cường độ lớn nhất cũng có tác động giống như những chất gây nghiện mạnh.3)

Và nếu chất oxytocin đóng một vai trò quan trọng trong sự cuốn hút giữa hai người yêu nhau như thế nào thì nó cũng thể hiện như vậy trong tình yêu thương nuôi dưỡng một đứa trẻ: oxytocin hòa phối tất cả các hành vi xã hội. Người ta đã chỉ ra rằng trong não bộ phụ nữ, trước khi các bà bầu có thể cảm thấy sự yêu thương âu yếm đối với đứa con mình thì họ phải trải qua một cuộc thay đổi do chất oxytocin khởi động.

Điều này xảy ra ở nữ giới, và đặc biệt đáng kể ở những con mẹ thuộc các loài động vật: ngay trước khi sinh sản, chúng từ những con chuyên săn mồi trở thành con mẹ nuôi dưỡng. Chẳng hạn, chuột cái thường phản ứng với mùi của những con non mới sinh bằng cách ăn thịt con non, nhưng đến khi chính chúng sinh đẻ thì chúng trở nên khác hẳn. Một con chuột đang có mang bắt đầu cư xử dịu dàng ngay lúc bắt đầu xây tổ, và khi lũ con được sinh ra thì nó chỉ suốt ngày liếm láp, chăm sóc và bảo vệ chúng.

Mặt khác, khi các nhà khoa học chặn chất oxytocin lại thì chuột mẹ xơi tái lũ con lập tức ngay sau khi sinh chúng ra. Nhưng riêng chất oxytocin không đủ để kích thích những hành vi chăm sóc. Để khiến một con chuột cái chưa từng giao phối chăm sóc lũ chuột con thì phải tiêm hoóc môn giới tính estrogen, loại hoóc môn thường được giải phóng trong quá trình mang thai. Rõ ràng, não bộ cần một thông điệp từ cơ thể rằng lũ chuột con thực sự đang sắp chào đời. (24)

Ngay khi tín hiệu đối với các hoóc môn của thời kỳ mang thai và chất oxytocin xuất hiện, các chương trình của tình mẫu tử mới bắt đầu chạy trong đầu người mẹ, và một số phần thuộc não trung gian của phụ nữ thay đổi vĩnh viễn. Nhưng sự tái cấu trúc này xảy ra như thế nào vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Theo đôi chút chúng ta biết được qua những cuộc thí nghiệm ở động vật, thì khu vực tiền thị - khu vực mà giữa nam và nữ ngay từ lúc mới đẻ đã khác nhau - dường như trải qua một sự thay đổi lớn. Rõ ràng là một số gian nhất định kiểm soát chức năng của các tế bào xám đã được khởi động hoặc bị tắt đi. Do vậy, những hoạt động của toàn bộ vùng não bộ này có thể bị thay đổi mãi mãi.(25)

Chúng ta cũng chưa hiểu được đầy đủ sự chăm sóc thường xuyên có tăng cường sự thay đổi này trong người mẹ trẻ hay không và bằng cách nào. Nếu đầu vú của phụ nữ được kích thích, não bộ sẽ giải phóng chất oxytocin, điều này giải thích tại sao phụ nữ thường thấy thích thú khi vú được món trán cả lúc cho con bú cũng như lúc ái ân. Những cảm giác này tạo ra một sự gắn kết giữa người mẹ và đứa con, bởi vì theo phản xạ tự nhiên chúng ta luôn tìm cách gần gũi với những ai đem lại cảm giác hạnh phúc cho mình.

Trong một loạt nghiên cứu tại Viện Karolinska Thụy Điển, những người mẹ đang nuôi con cho thấy là có sự quan tâm đến người khác nhiều hơn trước khi sinh - và cũng nhiều hơn những người mẹ đang không nuôi con - đồng thời có nhiều cảm giác yên bình hơn trong tinh thần. Có lẽ chất oxytocin được giải phóng trong quá trình nuôi con đã đem lại trải nghiệm hạnh phúc có tính xã hội - cảm giác vui vẻ và thanh thản trong lòng và vui vẻ vì có thể mang lại điều gì đó cho những người khác. (26)

Cho dù sự nuôi dưỡng có tác động thế nào thì việc tái cấu trúc của não bộ sẽ gắn kết hầu hết những người mẹ với con cái suốt cả cuộc đời họ. Tiếng khóc nhỏ nhất của đứa bé cũng sẽ đánh thức người mẹ khỏi giấc ngủ sâu nhất, và cái tai nhạy cảm của người mẹ thường sẽ nghe thấy tiếng khóc của bạn trẻ hơn của chính bản thân mình.

Do vậy, não bộ và cơ thể của phụ nữ được thiết kế ra là để sinh con. Tự nhiên đã ban tặng cho họ những cảm giác tích cực. Nhưng không phải tất cả phụ nữ đều có cảm giác hạnh phúc từ con cái giống nhau - cũng như sở thích tình dục của mỗi người một khác, những yếu tố liên quan đến giới tính của não bộ người này sẽ khác của người kia.

Chúng ta không được quên rằng những người bố cũng có cảm giác hạnh phúc với con cái. Chúng ta chưa biết tại sao, vì cho đến nay khoa học chỉ mới tập trung nghiên cứu tình mẫu tử. Bởi vì não bộ của đàn ông và đàn bà khác nhau, nên cảm giác hạnh phúc của tình phụ tử chắc cũng rất khác so với tình mẫu tử - nhưng đây vẫn còn là một vùng bí ẩn.

Con cái có làm cho ta hạnh phúc?

Con cái mang sức sống đến cho ngôi nhà và làm ấm áp trái tim cha mẹ. Chúng cần chúng ta, khi tâm trạng của chúng vui vẻ, chúng mở to mắt cười với chúng ta, và dõi theo sự trưởng thành của chúng hằng ngày là một trong những trải nghiệm lớn lao nhất có thể tưởng tượng được. Rất nhiều cặp bố mẹ thú nhận rằng chính lũ trẻ đem lại cho họ hạnh phúc.

Đáng ngạc nhiên hơn hết chính là phát hiện của các nhà khoa học xã hội về vấn đề này. Nếu, ví dụ bạn hỏi một cặp đôi xem họ hài lòng về nhau như thế nào, thì những người không có con cái thường đánh giá nhau rất cao, như bốn cuộc nghiên cứu độc lập từ châu Âu và Mỹ cho thấy.

Thực tế thì có con cái sẽ làm giảm bớt niềm khoái cảm mà cha mẹ tìm thấy ở nhau. Qua nhiều năm sau, trong bảng điểm cuộc đời về sự hài lòng có một sự lên xuống rất đặc trưng, và, ngạc nhiên thay, nó tương tự ở cả người mẹ lẫn người cha. Hạnh phúc hôn nhân giảm dần trong thời gian mang thai, và lần đầu tiên xuống điểm thấp nhất khi đứa con đầu tiên biết bò. Nó tăng lại một chút cho đến khi đứa con đầu bước vào tuổi dậy thì, sau đó rơi nhanh xuống điểm thấp tuyệt đối. Hiển nhiên, con cái ở lứa tuổi thiếu niên chiếm dụng tình yêu của bố mẹ dành cho nhau nhiều hơn bọn trẻ nhỏ. Cha mẹ vốn đã mệt nhoài khi con cái bước vào tuổi đến trường, nhưng chỉ cần một đứa bước vào tuổi mới lớn là họ bị đẩy đến giới hạn. Ngay khi đứa con cuối cùng rời khỏi gia đình, sự hài lòng của cha mẹ sẽ trở lại như mức trước khi có con. Nhưng cho dẫu trong suốt cuộc hôn nhân người cha và người mẹ đã trải qua tận đáy bất hạnh, tuy nhiên trong hầu hết trường hợp cái đáy đó hoàn toàn không phải quá sâu: trung bình mức độ hài lòng vào thời kỳ bọn trẻ vị thành niên thấp hơn mức những năm hạnh phúc nhất khoảng 10%.(27)

Có phải bọn trẻ con không những không mang lại hạnh phúc cho hôn nhân mà còn thực sự biến hôn nhân thành đau khổ? Không nhất thiết là như vậy. Những nghiên cứu về tỉ lệ ly hôn ngày càng tăng chỉ tập trung vào hạnh phúc trong hôn nhân mà bỏ qua sự thỏa mãn tổng thể. Hai cái đó liên kết chặt chẽ với nhau - đương nhiên, hôn nhân Có một ảnh hưởng to lớn đối với hạnh phúc đại thể - nhưng không đồng nhất. Tình cảm ấm áp, niềm vui, và cảm giác được cần đến mà lũ trẻ mang lại cho cha mẹ hoàn toàn có thể bù đắp lại cho gánh nặng mà đôi khi họ phải chịu đựng trong cuộc hôn nhân.

Cuối cùng, đấy là một sự cân bằng. Bọn trẻ cùng lúc vừa làm ta hạnh phúc, vừa làm ta mệt mỏi. Hạnh phúc không phải là mặt đối lập của bất hạnh, hai điều ấy không loại trừ lẫn nhau. Và kết quả cuối cùng có thể rất tích cực. Mặc dù việc có con cái luôn đặt ra một loạt đòi hỏi mới cho cha mẹ, song kỳ vọng của họ vào cuộc sống, tính trung bình, cao hơn hẳn những người không có con cái. Sự khác biệt này đặc biệt đáng kể vào tuổi từ 35 đến 44. Ở độ tuổi này, tỷ lệ tử vong của các ông bố bà mẹ thấp hơn một nửa so với những người không con cái - có lẽ do các ông bố bà mẹ này ít mạo hiểm hơn và quan tâm nhiều đến sức khỏe của họ hơn.(28)

Nhưng điểm mấu chốt của vấn đề là niềm vui và khó khăn ít nhiều ở mức tương đương nhau. Một nghiên cứu tại Đức đã đi đến kết luận rằng, nói chung, những đôi có con không hạnh phúc nhiều hơn cũng không hạnh phúc ít hơn so với những đôi không con. Các ý nghĩa của điều này là đặc biệt quan trọng, nhờ có những kỹ thuật ngày càng phức tạp của sản khoa. Với nỗ lực kiệt cùng và nỗi đau đớn thể xác ghê gớm cho người phụ nữ, những cặp đôi cố có được một đứa con nên tự hỏi lại mình xem liệu kỳ vọng của mình có lớn hơn điều mà nó đảm bảo cho họ hay không.292

Tác động có thể đo được duy nhất của bọn trẻ đối với quan hệ của bố mẹ chúng là ở mức độ hài lòng, và điều này thường là tiêu cực - bất chấp những ảo tưởng mà hầu hết các cặp sắp thành cha mẹ thường có về cuộc sống gia đình. Bởi vì cái gánh nặng ấy thường không đến nỗi quá kinh khủng, nên các cặp vợ chồng ổn định thường tìm được cách xoay xở dễ dàng và chấp nhận nó như một phần cái giá phải trả, vì lũ trẻ mang lại cho họ một cuộc sống có màu sắc và ý nghĩa. Nhưng con cái gần như luôn luôn là một phép thử cho mối quan hệ, đấy chính là lý do khiến cho việc một cặp đôi cố gắng cứu vãn cuộc hôn nhân đang bên bờ vực của mình bằng cách đẻ một đứa con - như rất thường xảy ra - là vô nghĩa.