← Quay lại trang sách

⚝ 10 ⚝ Tình bạn

Isaac thích Rachel. Chúng là bạn từ thời thơ ấu. Hấp dẫn thể xác dường như không đóng vai trò gì trong mối quan hệ của chúng. Trong bất cứ trường hợp nào, suốt những năm tháng qua, chúng hiếm khi quan hệ tình dục, và nếu có thì Rachel không bao giờ để dính bầu. Không phải Isaac, vốn khỏe mạnh, không có con cái. Nó đã có nhiều con dù không phải với Rachel. Vấn đề là Isaac và Rachel thích được ở bên nhau. Trong khi những con đực khác mải mê trong những cuộc vật lộn thường lệ thì Isaac và Rachel đứng ngoài quan sát chuyện đó như thể từ một thế giới khác. Chúng ngồi cạnh nhau trên bãi cỏ, cùng ăn hoa quả và âu yếm nhau hàng giờ đồng hồ. Nếu bạn có thể nói những con khỉ đầu chó là “hạnh phúc” thì đó chính là hai con này.

Trong nhiều năm trời, Robert Sapolsky, nhà thần kinh học người California đã quan sát và ghi chép về cuộc sống của đàn khỉ đầu chó ở Serengeti, châu Phi. Thường xuyên xét nghiệm máu của lũ khỉ đầu chó đực trong đàn và kiểm tra mức độ hoóc môn [chịu trách nhiệm gây ra cảm giác căng thẳng như cortisol, ông có thể chứng thực cho tuyên bố của mình về hạnh phúc của Isaac bằng dữ liệu cụ thể. (Để tránh làm nguy hại đến việc nuôi dưỡng lũ khỉ con hoặc bào thai bằng thuốc gây mê, ông bỏ những con cái khỏi cuộc thí nghiệm này). Trong Isaac, số lượng các chất truyền dẫn thần kinh thấp một cách bất thường. Nó không chỉ có vẻ như thư giãn hơn những con khác, mà nó thực sự là vậy.

Sapolsky cũng tiến hành các cuộc quan sát tương tự với nhiều con khác ngoài Isaac. Một con khỉ đầu chó càng có nhiều tình bạn và tình bạn càng kéo dài thì nó càng ít chịu căng thẳng hơn. Nó càng thường xuyên ngồi cạnh và chăm sóc bạn nó thì dường như những rắc rối trong cuộc sống càng ít làm nó bợm lòng hơn. Hướng đến những gắn kết xã hội là lành mạnh, bởi vì căng thẳng không chỉ làm giảm đi cảm giác hạnh phúc mà còn gây nguy hại cho cả thể xác. (1)

Đối với Isaac, trong bất kỳ trường hợp nào, tình bạn với Rachel đều đem lại lợi ích. Trong khi những con đực khác cùng lứa đã bị giết từ lâu trong các cuộc chiến đấu, hoặc chết đột ngột vì bệnh tật, hoặc do cơ thể già yếu, thì nó tiếp tục sống trên thảo nguyên, hạnh phúc, khỏe mạnh, và chăm sóc bạn của nó.(2)

Người có bạn bè sống thọ hơn

Bạn bè tốt cũng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Nghe một giọng nói quen thuộc, chúng ta dễ dàng mỉm cười và cảm thấy an toàn. Những người luôn phải chịu đựng sự Cô đơn hoặc không hòa hợp với người khác sẽ khó mà trải nghiệm những cảm giác tích cực được. Sự ấm cúng của gia đình và bạn bè giống y như một mảnh đất màu mỡ cho hạnh phúc nảy nở.

Nhà chính trị La Mã Cicerol 31 nói, “Nếu bạn loại tình bạn ra khỏi cuộc sống, thế nghĩa là bạn bỏ mặt trời ra khỏi thế giới này.” Nghiên cứu xã hội học hiện đại khẳng định tầm quan trọng của giao tiếp xã hội đối với hạnh phúc. Gắn kết với người khác là một trong số ít những nhân tố bên ngoài có thể làm tăng sự hài lòng cuộc sống trong hầu hết mọi hoàn cảnh, như nhà tâm lý xã hội học người Anh Michael Argyle và các nhà khoa học khác đã chỉ ra. Chỉ có chất lượng của mối quan hệ với bạn ta, tần suất sinh hoạt tình dục và tập thể dục là có tầm quan trọng tương đương hoặc hơn.(3)

Có bạn bè cũng giúp tăng tuổi thọ. Một vài nghiên cứu thực hiện với khoảng mười nghìn người châu Âu và người Mỹ đều đi đến kết luận này. Tính bình quân, giao tiếp xã hội có mức độ ảnh hưởng đến tuổi thọ ít nhất cũng tương đương như việc hút thuốc lá, chứng huyết áp cao, bệnh béo phì và hoạt động thể chất thường xuyên. Nếu không tính đến tuổi tác, sức khỏe và giới tính thì một người sống cô độc có nguy cơ tử vong trong năm sắp tới nhiều hơn hai lần so với người cảm thấy yên ổn trong những mối quan hệ với những người khác. Trong khi đó, hút thuốc lá chỉ làm tăng nguy cơ tử vong lên gấp rưỡi mà thôi.(4)

Một nghiên cứu của Đại học Stanford đem lại kết quả thậm chí còn gây ấn tượng hơn nữa. Các bác sĩ chia những bệnh nhân ung thư vú làm hai nhóm, một nhóm được điều trị theo chuẩn thông thường, trong khi nhóm kia được tham gia họp hằng tuần với nhóm bệnh nhân khác để có thể chia sẻ những trải nghiệm, tìm sự đồng cảm và hiểu biết lẫn nhau. Mặc dù tất cả các bệnh nhân đều được chẩn đoán bị ung thư giai đoạn cuối, nhưng các bệnh nhân nữ ở nhóm được chia sẻ chịu đau đớn ít hơn và có tâm trạng tốt hơn so với nhóm chỉ được điều trị thông thường bằng thuốc. Điều đáng chú ý hơn nữa là các bệnh nhân nữ đã chia sẻ được trải nghiệm của mình thì sống lâu hơn gấp đôi.(5)

Các nghiên cứu trên những bệnh nhân đau tim và bị bệnh bạch cầu cũng đi đến kết luận tương tự. Kết quả này dường như khá kỳ lạ, bởi vì, theo như ta biết từ trước đến nay,nguyên nhân của bệnh ung thư là hoàn toàn từ cơ thể - mặc dù có nhiều người sai lầm tin rằng những khối u là do một trạng thái ác tính của nỗi lo lắng chuyển thành ở bên trong. Chưa có một kết quả nghiên cứu nào cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa bệnh ung thư và những nhân tố tâm lý. Mặt khác, bằng chứng về vai trò của gien trong việc tạo ra những khối u lại nhiều hơn gấp bội, và những chất độc môi trường, khói thuốc lá, thực phẩm độc hại thường làm tăng thêm các nguy cơ di truyền.6)

Chúng ta có thể giải thích tình cảm ấm áp giữa người với người ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân ung thư thế nào? Những người biết mình được bạn bè hay người cùng cảnh ngộ quan tâm tất nhiên là thường có xu hướng chăm sóc đến bản thân, và sẵn sàng để được điều trị hơn chẳng hạn. Nhưng sự quan tâm của người khác không phải cách giải thích duy nhất. Ngay cả khi đang nhận được sự chăm sóc chuyên môn tốt nhất, thì tình yêu thương cũng giúp họ hồi phục.

Cô đơn là gánh nặng cho cả tinh thần lẫn thể xác. Nhận được sự cổ vũ của người khác thường là cách tốt nhất

để đối phó với căng thẳng. Những kẻ cô đơn phải xoay xở mà không có được sự ấm áp tình người để làm vơi bớt đi những khó khăn của cuộc sống. Hơn nữa, chính bản thân sự cô đơn có thể là căn nguyên của đau khổ - một nhân tố gây căng thẳng, ngay cả nếu người đó không có những mối lo âu khác.

Trong những năm gần đây, một ngành khoa học mới đã cung cấp rất nhiều bằng chứng về quyền năng của cảm giác đối với sức khỏe con người: tâm thần kinh miễn dịch học (psychoneuroimmunology), một lĩnh vực nghiên cứu các tương tác giữa thân thể và tâm trí. Các hoóc môn gây căng thẳng như cortisol và các gluco-corticoid khác tấn công mạnh vào hệ thống miễn dịch 8), điều này đã đo được người cô đơn cũng như ở những con khỉ bị tách ra khỏi mẹ chúng.(10) Cũng có chứng cứ thuyết phục rằng căng thẳng làm giảm sức đề kháng không chỉ đối với bệnh cảm lạnh mà còn đối với cả những bệnh về tim mạch.

Vậy nên, có thể giải thích vấn đề của những bệnh nhân ung thư vú theo hai cách. Thứ nhất, dù căng thẳng không gây ra bệnh ung thư, nhưng nó có thể, ít nhất qua các thí nghiệm với động vật, làm những khối u, vốn có những căn nguyên khác, phát triển nhanh. Thứ hai, có khả năng những người phụ nữ cảm thấy cô đơn phải chống chọi với một hệ thống miễn dịch bị yếu đi cũng như với bệnh ung thư, khiến căn bệnh dễ dàng bị sự lây nhiễm kiểm soát.

Những người phải tự thân xoay xở thường bị tổn thương thể chất nhiều hơn, trong khi đó thì những gắn kết tình cảm lại có một tác động tích cực lên sức khỏe. Một nghiên cứu thống kê đối với gần hai nghìn người ở thành phố Göteborg của Thụy Điển, những đối tượng được các nhà nghiên cứu khảo sát để đánh giá mức độ ảnh hưởng của căng thẳng đối với sức khỏe, đã hé lộ sự tồn tại của một nhân tố bảo vệ con người tốt hơn cả sự chăm sóc y tế tốt nhất: con người có thể sống bình yên vô sự qua cả những tình huống tồi tệ nhất khi họ có ai đó để chia sẻ.(12)

Nỗi sợ bị bỏ rơi

Nỗi sợ bị bỏ mặc Cô đơn rất sâu sắc. Những người vốn dĩ xa cách và lạnh lùng cũng phản ứng một cách tự nhiên đối với tiếng khóc của một đứa trẻ hay những con vật bị bỏ rơi, và thậm chí cả nỗi buồn của một sinh vật nhỏ xíu ngoài vũ trụ đang muốn gọi về nhà cũng làm ta xúc động. Dù là tám hay tám mươi tuổi, chúng ta đều có thể cảm thông với những đau khổ của E.T. Không có gì ngạc nhiên khi phim của Spielberg lại thành công mỹ mãn đến vậy. 32

Nhà tâm lý thần kinh học Jaak Panksepp ngờ rằng chúng ta kiếm tìm sự giao tiếp với những người khác nhằm tránh khỏi nỗi đau của sự cô đơn: tự nhiên không chỉ lôi kéo chúng ta đến với những người khác, nó còn tích cực thôi thúc chúng ta đến với họ. Theo Panksepp, sự thôi thúc hòa nhập này được bắt rễ từ các mạng thần kinh cụ thể nằm trong những phần sâu và cổ xưa của não bộ. Nếu những vùng nào đó của não trung gian, chẳng hạn vùng đồi thị và tiền thị, bị kích thích, thì con vật sẽ tru lên trong hoảng loạn, phát ra những âm thanh mà thường chỉ khi bị bỏ rơi chúng mới có.(13)

Theo quan điểm tiến hóa, đây là một hành vi tương đối cổ xưa xuất hiện muộn nhất là ở những động vật có vú đầu tiên nhằm tăng khả năng sống sót của những con non mới sinh. Chẳng hạn một con chuột con mới sinh chưa mở mắt, điếc và chưa thể bò ngay được. Cơ thể nhỏ bé, trần trụi của nó không có đủ hơi ấm để sinh tồn. Không có mẹ, nó sẽ bị chết cóng. Nó là một sinh vật phụ thuộc hoàn toàn, đối với nó, chuột mẹ là toàn bộ thế giới; nếu như vắng mặt mẹ, con chuột con sẽ biểu hiện sự đau đớn - và đúng là như vậy. Một đứa trẻ trong tình huống như vậy cũng sẽ gào khóc trong sợ hãi.

Rất nhiều động vật con có vú, thậm chí cả lũ gà con, cũng đều thể hiện phản ứng này khi bị bỏ rơi. Bởi vì tiếng kêu của những con chuột con (một hiện tượng được nghiên cứu khá phổ biến) là âm thanh siêu cao tần, con người không thể nghe được, nhưng tại của những con chuột cái nhạy cảm nhất với chính những tần số này (khoảng 40 kiloherz). Ngay khi chuột mẹ nghe thấy những âm thanh này, nó sẽ làm mọi thứ cần thiết để trấn an lũ con của nó. Nó liếm láp con, ngoạm chúng và cố gắng tha chúng đến một nơi an toàn để chúng không còn sợ hãi nữa.

Khi lũ chuột lớn lên, nỗi sợ bị bỏ rơi biến mất, vì chúng không phải là những sinh vật đặc biệt hòa đồng. Nhưng những con vật có tính xã hội thì suốt đời vẫn luôn phản ứng trong hoảng sợ khi bị bỏ rơi. Nhiều con chó tru lên, đào bới nền nhà một cách tuyệt vọng và cao cửa khi bị chủ nhốt bên ngoài. Còn những con vẹt thì phát triển các tập tính tự hủy hoại, dùng mỏ nhổ lông của mình. Những triệu chứng của con người trưởng thành khi chịu đựng Cô đơn thì không đến mức rõ ràng như vậy, nhưng cũng không kém phần kịch tính: bồn chồn, cảm giác trống rỗng, căng thẳng, mất ngủ, ăn mất ngon và sự nghi ngờ bản thân có thể biến cuộc sống của họ thành địa ngục.

Tính tương đồng của con vật so với con người ở mặt này cho ta một mẫu hình đơn giản hơn để nghiên cứu trạng thái cô đơn của con người. Con vật cũng phải chịu đựng căng thẳng khi bị tước đi sự giao tiếp. Một trong những chất liên quan đến hóa học của nỗi hoảng sợ là hoóc môn căng thẳng CRH (corticotropin-releasing hormone).(14) CRH đến lượt nó giải phóng ra cortisol, hoóc môn chịu trách nhiệm cho rất nhiều loại bệnh liên quan đến căng thẳng trong con người.

Giống như người, lũ chuột con cũng phải trả giá cho tình trạng cô đơn kéo dài bằng chính sức khỏe của chúng. Chúng dễ bị bệnh tật hơn, não bộ phát triển được trang bị ít nơ ron thần kinh hơn, do vậy khả năng của chúng kém đi, chúng luôn hoảng sợ và dễ bị rối loạn trong cả cuộc đời. Ngược lại, những con chuột con được cưng nựng thường xuyên thì lớn nhanh như thổi, tốc độ lớn nhanh gấp rưỡi so với những con chuột khác trong điều kiện tương đương.

Với trẻ con của loài người chúng ta cũng vậy. Những cử chỉ của cơ thể thể hiện tình thương yêu kích thích sự phát triển, như Tiffany Field của Đại học Miami đã cho thấy trong một thí nghiệm đơn giản. Field chọn một số đứa trẻ đẻ non đang nằm trong lồng ấp vô trùng và nhận được rất ít hơi ấm con người, và trong vòng ba ngày bà tự mình chăm nom chúng, nhẹ nhàng chuyển động chân tay chúng. Kết quả thật phi thường. Những đứa trẻ này tăng trọng lượng nhanh một cách đáng kinh ngạc, khỏe mạnh hơn những đứa trẻ đẻ non khác vẫn nằm trong lồng ấp và một tuần (15) có thể ra khỏi lồng ấp trung bình sớm hơn gần Mặt khác, nếu những đứa trẻ bị tách khỏi sự giao tiếp lâu hơn, thì hậu quả thậm chí sẽ thảm khốc hơn lũ chuột nhiều. Sự khuyến khích là cần thiết như thế nào cho sự phát triển của trẻ nhỏ, điều này đã được xác định ngay từ thế kỷ 13, khi hoàng đế Frederick II xứ Sicilia 33 thời Trung cổ tiến hành cái hẳn là một trong những cuộc thí nghiệm được kiểm soát đầu tiên trong tâm lý học. Muốn xác định “ngôn ngữ tự nhiên của loài người”, nhà vua kiêm nhà nghiên cứu này đã giam giữ một số trẻ nhỏ trong sự cách ly tuyệt đối khi chúng vẫn còn rất nhỏ và chưa biết nói. Bởi vì chúng bị tách khỏi tất cả những tác động bên ngoài, nhà vua hy vọng rằng không sớm thì muộn lũ trẻ sẽ bắt đầu nói ngôn ngữ cơ bản của con người. Những người hầu vẫn mang đến cho lũ trẻ thức ăn, quần áo sạch và các thứ thiết yếu khác cho cuộc sống, nhưng họ không được phép có bất cứ tiếp xúc nào với lũ trẻ. Cuộc thí nghiệm thất bại một cách tàn nhẫn: các đứa trẻ này đã chết. Như một sử gia cùng thời đã viết, “Lũ trẻ không thể sống thiếu những tiếng vỗ tay, những cử chỉ yêu thương, những khuôn mặt hạnh phúc và sự khuyến khích.”(16)

Hạnh phúc trong sự an toàn

Khi người ta không còn cảm giác cô đơn nữa, thì họ sẽ trải nghiệm cảm giác ấm cúng của sự an toàn. Endorphin - những hoóc môn giống thuốc phiện kích thích trạng thái hạnh phúc - có lẽ là một phần quan trọng của quá trình này. Điều này có thể được chứng minh dễ dàng ở lũ chuột con. Nếu tiêm morphine (một chất giống như endorphin) cho chúng khi chúng bị tách ra khỏi chuột mẹ, thì chúng ngừng kêu khóc ngay lập tức. Endorphin làm dịu bớt những tác động của hoóc môn gây căng thẳng như CRH vốn kích thích sự kêu khóc. Nếu như tác động tự nhiên của endorphin bị chặn lại, thì lũ chuột con này vẫn liên tục kêu đòi mẹ rất lâu sau khi chuột mẹ đã trở lại và tiếp tục chăm sóc chúng. (17 Các nhà nghiên cứu nhận định rằng não bộ của các loài động vật linh trưởng không phải con người cũng giải phóng ra chất endorphin khi những con vật này âu yếm lẫn nhau.

Như đã được miêu tả trong Chương 7, chức năng của endorphin nói chung là để báo hiệu một trạng thái mong muốn đến não bộ, chẳng hạn, cung cấp một cảm giác vui sướng khi một bữa ăn ngon thỏa mãn được cơn đói. Theo cách tương tự, chúng cũng giúp điều chỉnh nhu cầu gần gũi thân mật. Nếu những loài có tính xã hội như khỉ thiếu đi sự tiếp xúc với những con khác, điều cần thiết cho sự sinh tồn, thì chúng sẽ mất đi sự cân bằng cảm xúc và biểu hiện những dấu hiệu lo lắng vì chia tách. Khi chúng được trở lại sống trong tình bạn bè, endorphin sẽ báo rằng tình trạng bình thường đã được khôi phục, và điều này mang lại một cảm giác an toàn đầy dễ chịu.

Những chất gây nghiện có thể đánh lừa bộ não khiến nó vô cảm đối với cả sự cô đơn, nó cung cấp cho não những chất thuốc phiện mà trong hoàn cảnh có giao tiếp xã hội thì thường do não tự giải phóng ra.(18) Kẻ nghiện rượu cô đơn tự tăng mức endorphin của mình lên bằng rượu thì không cần một người bạn nữa. Ăn đồ ngọt cũng giải phóng ra hoóc môn này, đó là lý do tại sao cô tiểu thư Bridget Jones, nhân vật hư cấu, người hay viết nhật ký 34 lại cố biến tình trạng cô đơn của mình trở nên dễ chịu hơn bằng một thanh sô cô la vào bữa sáng. Còn nhà thơ người Pháp Jean Cocteau đã ghi trong nhật ký rằng thuốc phiện đã “giải thoát” ông khỏi khách khứa (19)

Có lẽ endorphin chịu trách nhiệm cho việc đảm bảo cảm giác ấm cúng khiến chúng ta luôn tìm kiếm sự thân quen trên một khuôn mặt thân thiện nào đó. Nhưng chúng chắc chắn không chỉ chịu trách nhiệm riêng cho trạng thái hạnh phúc mà sự an toàn đem lại. Chẳng hạn, hai chất oxytocin và vasopressin giúp kích thích tình yêu, nhưng bởi vì chúng cần thiết cho ký ức xã hội nên cũng đóng một vai trò trong những tương tác khác của con người. Và chất truyền dẫn serotonin, có mức thấp ở những người đang bị trầm cảm, hiển nhiên rất quan trọng trong việc đem lại cảm giác đồng cảm; mối quan hệ này được các nhà dược lý thần kinh học phát hiện ra, không phải thông qua thí nghiệm trên động vật (để thay đổi) mà từ một loại thuốc hay dùng trong tiệc tùng - Ecstasy.

Ectasy là một loại thuốc kích thích giải phóng ra những lượng lớn chất serotonin và có lẽ cả chất dopamine trong não bộ,20) do đó mang lại cho người dùng cảm giác vô cùng dễ chịu rằng họ có cả thế giới là bạn bè - nghĩa là, họ hưởng thụ cảm giác đồng cảm và thương yêu được phóng đại một cách phi thực tế. Quả thật, cho đến khoảng năm 1980, khi nó được một người Texas thông minh đổi tên, thì loại thuốc gây nghiện này được biết với cái tên phù hợp hơn nhiều là Empathy - thấu cảm. Các nhà khoa học vẫn nói về Ecstasy như một thứ-gọi-là-entactogen - hướng thần bán tổng hợp, một loại thuốc gây nghiện có thể chạm tới phần sâu nhất trong chúng ta. Nhà hóa học Alexander Shulgin người California tạo ra loại thuốc này trong phòng thí nghiệm vào năm 1965 và là người đầu tiên thử dùng, đã miêu tả lại trải nghiệm của mình như sau: “Tôi cảm thấy nhẹ bẫng, hạnh phúc và tràn đầy hứng thú bởi một sức mạnh phi thường - như thể ở trong một tồn tại tốt đẹp hơn. Như thể tôi không phải chỉ là công dân của trái đất mà là của toàn vũ trụ.”(21)

Đây chính là điều chúng ta cảm thấy, dù ít cực đoan hơn, trong sự hiện diện của một người mà chúng ta đánh giá cao: lạc quan và tin tưởng. Nhưng ở đây khoa học đã chạm đến giới hạn của nó, ít nhất là cho đến nay chưa ai có thể đi đến tận cùng hiệu lực của Ecstasy.

Cho và nhận

Tại sao chúng ta cần tình bạn? Không giống như lũ chuột Con bị phụ thuộc hoàn toàn vào chuột mẹ, các loài có tính xã hội lại phụ thuộc vào cả sự hỗ trợ của nhóm. Nếu một người “hiện đại” có thể sống trong sự cô lập tự nguyện hoặc bao mình trong tổ kén của một cặp đôi, thì người cô đơn, hay người chỉ sống với một người khác, trong một xã hội du cư chẳng hạn, hầu như không có cơ hội sống sót. Chỉ có Cộng đồng là có thể bảo vệ ta, và giúp đỡ trong tình huống khẩn cấp. Nhưng không giống như đứa trẻ mới sinh, người trưởng thành không thể chỉ dựa dẫm vào sự chăm sóc của người mẹ, cũng không thể trông chờ vào sự nuôi dưỡng cũng như tình thương yêu mà không có đổi đáp. Họ cũng phải biết cho. Vì thế, tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào việc chia sẻ vì phúc lợi chung. Không phải là chúng ta chia sẻ với tất cả mọi người như nhau: người càng thân nhau càng cho nhau nhiều hơn. Và càng nhận của nhau nhiều họ càng thân nhau hơn.

Để giữ những quy tắc này theo một quan điểm rõ ràng trong cộng đồng thì cần phải có một sự thấu hiểu lớn. Mọi thành viên của nhóm phải quan sát mỗi người liên quan đến những người khác thế nào, cái một người cho những người khác hoặc mong chờ từ người khác là gì. Mối quan hệ của một cặp đôi so ra là tương đối đơn giản, ít nhất là trong các loài động vật. Một cặp đôi chỉ cần thừa nhận nhau, sống bên nhau và bên con cái một cách vô điều kiện là đủ. Chỉ có những sinh vật thông minh như khỉ mới sống một cuộc sống trong cộng đồng phức tạp với những mối quan hệ bạn bè và các vai trò xã hội luôn thay đổi. Mặc dù chuột, chim và những con vật có não bộ đơn giản khác đều có khả năng sống cặp đôi, nhưng chúng chỉ có thể xoay xở được trong các nhóm có cấu trúc cứng nhắc với những quy tắc được thiết lập chính xác.

Rất nhiều con khỉ sống phụ thuộc vào việc chia sẻ trách nhiệm cung cấp thức ăn và bảo vệ nhau. Mối quan hệ của chúng giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu rõ những nghĩa vụ chung của tình bạn bè phát triển như thế nào, vì quan hệ của những con khỉ dễ dàng nắm bắt hơn nhiều so với con người, và hơn nữa, chúng không làm mọi việc rối rắm thêm bằng việc nói quá nhiều.

Nếu chúng ta thích ai đó, chúng ta mời họ đi ăn. Dù là những vùng biển Nam bán cầu hay ở Greenland 35 , hiếm Có một nền văn hóa nào mà chiếc bàn tiếp khách lại không phải là trung tâm của sự hòa đồng. Các gia đình chia sẻ những trải nghiệm trong ngày lúc ăn bữa tối, doanh nhân sắp xếp việc làm ăn tại nhà hàng, còn các cuộc thăm viếng cấp nhà nước thì kết thúc bằng yến tiệc. Loài khi cũng chia sẻ thức ăn cho nhau, điều này cho thấy các bữa ăn được chia sẻ có tầm quan trọng thế nào trong việc tạo nên gắn kết xã hội.

Chẳng hạn, những con khỉ capuchin bé nhỏ vùng Nam Mỹ đi săn cùng nhau và ăn trộm từ ổ của những con gấu trúc Mỹ, thậm chí còn bắt cả gấu Con ngay dưới mũi chúng - một hành động liều lĩnh đầy mạo hiểm, bởi gấu trúc Mỹ sở hữu một cú đớp thần sầu. Hành vi này có thể xảy ra bởi vì mỗi kẻ trộm trong nhóm đều tin tưởng sẽ nhận được phần của mình từ chiến lợi phẩm.

Trong những cuộc thí nghiệm có kiểm soát, nhà khoa học hành vi Frans de Waal đã nghiên cứu những điều kiện mà trong đó khỉ capuchin thỏa hiệp và hợp tác với nhau. (22) Ông đặt hai con khỉ capuchin trong hai cái lồng cạnh nhau, chúng vẫn có thể đưa hoa quả cho nhau qua lồng. Có một chiếc xe đầy táo gần đây, chúng có thể dùng dây kéo xe về phía lồng, nhưng chiếc xe nặng phải cả hai con khỉ cùng kéo mới được. Tình huống oái oăm được dàn dựng khiến chỉ một con khỉ với tới được táo trên xe. Kết quả hóa ra là con khỉ kia giúp kéo xe táo chỉ khi nó tin mình sẽ được chia chiến lợi phẩm. Khi đó chúng ta biết những con khỉ capuchin kia có thể tin tưởng vào ý thức công bằng của nhau.

Nhưng niềm tin của chúng có giới hạn. Một con khỉ capuchin sẽ giúp con khác chỉ khi phần thưởng bày ngay trước mắt. Thiện ý của mình có thể không được đáp lại ngay lập tức mà phải sau một khoảng thời gian nào đó, ấy là điều những con vật này không thể hiểu được. Những mối liên minh của chúng không kéo dài quá một thời khắc ngắn ngủi và luôn phải khởi động lại từ đầu. Không có cái gì giống như một mối quan hệ bền vững cả.(23)

Điều đó khác với những loài linh trưởng thông minh hơn. Chẳng hạn, tinh tinh có thể thiết lập những liên kết kéo dài hàng năm và có thể trao đổi mọi kiểu giúp đỡ. Nếu con tinh tinh này thích chải lông cho con tinh tinh kia thì một hôm nào đó con kia có thể sẽ đáp lại thiện ý đó bằng cách chia sẻ thức ăn hoặc cùng nó chống lại kẻ thù. Cuộc sống của những con vật này là cuộc cho và nhận liên tục. Tinh tinh đi săn cùng nhau, những con cái chia sẻ việc chăm sóc con cái, những con đực thống lĩnh luôn hỗ trợ nhau trong các liên minh giống như các chiến lược của chúng ta trong chính trị và kinh doanh.

Một mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau như vậy hoạt động được chỉ khi mỗi thành viên biết tính cách và các mối quan tâm của nhau, và hiểu con nào mong chờ cái gì từ con nào. Một con tinh tinh cũng chỉ chia sẻ với điều kiện có đi có lại, nhưng không giống như khỉ capuchin, những con vật có trí thông minh cao này sẵn sàng chờ đợi sự đền đáp về sau. Được bộ nhớ cho phép lưu giữ dữ liệu chính xác về việc vay mượn trong những khoảng thời gian dài, chúng có thể theo dõi dòng sự kiện giống như kế toán viên. De Waal ghi chép về một con tinh tinh tên là Gwinnie, nó đã miễn cưỡng chia sẻ thức ăn của mình cho những con khác, và khi đến lượt nó đòi lại một thứ gì đó thì nó bị chúng hắt hủi.24)

Cảm thông từ đáy lòng

Đương nhiên khó mà biết được điều gì đang diễn ra trong đầu một con tinh tinh, nhưng có lẽ Gwinnie là mục tiêu của một cái gì đó giống như sự ác cảm, một loại cảm giác mà tinh tinh hoàn toàn có khả năng có.

Với con người cũng vậy, tình thương yêu và ác cảm phát triển dựa trên cơ sở trải nghiệm của ta với những người khác. Thật ngạc nhiên là những cảm xúc này có thể xảy ra mà không cần đến sự ghi nhớ Có ý thức của ta về các sự kiện cụ thể. Những đánh giá “từ đáy lòng” quyết định chúng ta chạm mặt với người khác như thế nào, và chúng thường mạnh hơn nhiều so với những đánh giá có ý thức của chúng ta. Đôi khi ta thích một ai đó mà không hề biết tại sao.

Sự hình thành những thái độ như vậy đã được nhà thần kinh học Antonio Damasio chỉ ra trong các thí nghiệm với một bệnh nhân tên David. Bị tổn thương não nặng, David đã phải sống với bệnh suy giảm trí nhớ nghiêm trọng nhất từng được ghi nhận trong y văn. Anh ta không thể nhớ được một khuôn mặt mới, một giọng nói hay một cái tên mới. Sau đó anh ta cũng không nhớ được chuyện gì xảy ra giữa mình với người đó nữa. Suốt một tuần anh ta được cho tiếp xúc đi tiếp xúc lại với hai cộng sự của Damasio. Một người rất thân thiện và cởi mở, trong khi người kia thô lỗ, luôn từ chối mọi mong muốn của David và bắt anh ta thực hiện những bài kiểm tra tâm lý buồn tẻ dài lê thê. (Đó cũng là những bài kiểm tra thông thường dành cho tinh tinh để đánh giá khả năng trí tuệ của chúng.)

Sau một thời gian ngắn, David được cho xem bức ảnh hai cộng sự của Damasio. Đương nhiên, anh ta chẳng thể nhớ nổi ai. Khi được hỏi ai trong hai người là bạn để có thể nhờ giúp đỡ lúc cần, anh ta luôn luôn không chút lưỡng lự chọn ngay người đã đối xử tử tế với anh ta. Còn người cộng sự kia, một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, thì lần nào anh ta cũng bỏ qua. Không phải là anh ta biết ghi nhận lại bất kỳ trải nghiệm tồi tệ nào với người này, mà những trải nghiệm từ trong tiềm thức của anh ta đã được củng cố thành một cảm giác, và cảm giác này đơn giản là không tốt. 25)

Đây là một trường hợp cực đoan. Những người khỏe mạnh thông thường có thể tự điều chỉnh cảm giác của họ, ít nhất là một phần. Tuy nhiên, số phận của David lại thuộc về mối quan tâm chung, bởi vì nó cho thấy bộ não có thể lưu trữ những trải nghiệm theo hai cách khác nhau, như một bộ phim có hai cuộn bằng, một cho hình ảnh, một cho âm thanh. Một mặt não ghi nhận những ký ức có ý thức mà chúng ta có thể tiếp cận như những hình ảnh của một bộ phim, từng cảnh từng cảnh. Nhưng não bộ cũng đồng thời tiếp nhận cả âm nhạc - những cảm giác mà chúng ta trải nghiệm trong quá trình các sự kiện diễn ra. Các kích thích phù hợp sẽ đánh thức lại những cảm giác này mà không phải gợi ra một cách có ý thức những sự kiện tương ứng: chúng ta nghe nhạc phim mà không cần xem bộ phim đó. Những ký ức về cảm giác xảy ra trong trí nhớ ẩn (implicit memory), trong khi đó, ký ức hình ảnh được lưu trữ trong trí nhớ hiện (explicit memory), loại trí nhớ đã bị phá hủy trong trường hợp của David.

Tình yêu thương xuất hiện ở phần trí nhớ ẩn và chủ yếu bắt nguồn từ những cảm xúc của ta, hơn là từ ký ức có ý thức. Một khuynh hướng tích cực như vậy là cần thiết để cho tình bạn bè phát triển, bởi vì nó khuyến khích sự sẵn sàng cho và làm sâu sắc ý thức về phẩm chất của người khác. Chỉ theo cách này, khi niềm tin được thiết lập khiến những hành động cho và nhận lớn lao hơn bao giờ hết, thì một đường xoắn ốc đi lên mới có thể bắt đầu.