- 3 -
Số người thiệt mạng tăng lên thành hai người. Người bất tỉnh lúc trước cuối cùng cũng đã tắt thở. Rayban với người bị giảm áp kia được đưa đến trung tâm y tế Mokpo, nơi có phòng điều trị ôxy cao áp. Hai người đã kéo thi thể tay camera kia lên bờ là tôi và chú, cùng chủ thuyền là Hội trưởng, cả ba phải lên xe cảnh sát. Họ bảo cần lấy lời khai của nhân chứng.
Nhóm Chevrolet toàn là con cháu nhà có máu mặt. Rayban có bố là cán bộ cấp cao của Chính phủ, tay giảm áp có mẹ là giám đốc doanh nghiệp. Người chết trong xe có bố làm tới chức tướng trong lục quân, còn bố của tay camera làm cán bộ bên viện kiểm sát. Viên tướng và kiểm sát viên tuốt kiếm cầm trên tay, xuất hiện trước mặt chúng tôi. Chắc xác con họ đã biến họ thành vừa điếc vừa mù. Nếu không thì có thể họ cần một sinh vật sống nào đó có hai tay. Vì đâu thể nào làm cái trò còng tay biển cả lại được.
Chú, tôi và Hội trưởng tiếp nhận điều tra theo kiểu thẩm vấn. Cảnh sát yêu cầu chúng tôi tường thuật rõ ràng tình huống xảy ra tai nạn và quá trình cứu hộ. Họ dồn ép hỏi trong quá trình cứu hộ, có phải đã có sai sót gì không. Từ vụ cãi nhau ở nhà trọ, cho đến lúc vớt cái xác, cùng một nội dung tường trình, họ bắt chúng tôi nhắc lại mấy lần. Họ cũng hỏi riêng từng người về chuyện đó. Các thi thể được đặc biệt đưa lên bàn giải phẫu tử thi.
Đến sáng, chúng tôi mỗi người đã được gắn cho một tội danh. Chú bị nghi sử dụng bạo lực. Tôi đoán là việc chú đã túm lấy cổ Rayban. Có vẻ như những dấu vết bầm tím trên người Rayban được giải thích theo hướng bị hành hung. Đó là do đồ lặn khi mặc chèn ép lên da, gây ra sung huyết, chú có giải thích như vậy nhưng chẳng ai buồn nghe.
Hội trưởng thì thành ra lão già vô liêm sỉ, dù biết nguy hiểm, nhưng mờ mắt vì tiền nên vẫn cho thuyền ra biển, giết chết hai thanh niên tiền đồ tươi sáng. Sự thật rằng chúng tôi đã ngăn cản nhóm Rayban, và vì ngăn cản nên bị họ nhục mạ… những việc này đều bị phớt lờ. Tội danh đó là gì nhỉ? Hình như là ngộ sát do cố ý sai phạm.
Sau khi làm rõ tôi là ai, thì chẳng mất một chút thời gian nào. Đã từng ở trại giáo dưỡng, đi học thì chuyển trường hai mươi mốt lần, hiện tại đang tạm nghỉ học, bảy năm qua lang thang khắp nơi, một năm nay thì ở nhà trọ… những tình tiết đó như thể phun ra hương hoóc môn pheromone vậy. Cảnh sát hình sự bám chặt sau tôi y như đàn chó động dục.
Khoảng giữa trưa, có kết quả khám nghiệm tử thi. Tay camera, nguyên nhân tử vong là bị liệt tim. Đây là quà tặng của cái thang máy tạo thành từ dòng chảy ngầm. Nạn nhân vì sợ quá mà chết. Người kia thì chết vì phổi bị tổn thương do sức ép. Đấy là cái giá cho việc cưỡi tên lửa. Cả hai, nồng độ cồn trong máu đều vượt quá 0,15. Chú cởi bỏ được cái mác “nghi sử dụng bạo lực”. Bác sĩ pháp y chuyên về y học lặn đưa ra cùng một ý kiến với chú. Người bị giảm áp tình trạng đã khá hơn, y kể hết lại toàn bộ sự việc.
Mấy người đó đến nhà trọ Hải Đăng vào khoảng 4 giờ chiều hôm trước. Lúc đó, mặt trời sắp lặn nên Hội trưởng quyết định đến sáng hôm sau mới cho thuyền ra biển, Hội trưởng nhận tiền trọ và tiền thuê thuyền ứng trước. Sau khi rượu vào, mấy người đó lại đổi ý. Là do Rayban làm trưởng nhóm kích động mọi người. Hắn bảo biển giữa trưa giống như xe đạp, còn biển đêm là Harley Davidson. Rượu có rồi, Harley Davidson lại đầy sức cám dỗ, sẵn cơn ngông cuồng dựa hơi men, có trò gì là không làm được.
Tay giảm áp cũng thừa nhận đã bắt Hội trưởng lên xe, chạy ra biển rồi lôi Hội trưởng ra chỗ để thuyền. Có vẻ như con người bên trong của y cất lên tiếng nói lương tâm hay sao, mà y có vẻ vô cùng muốn biết tình hình thế nào. Phải chăng là do cảm giác bị Rayban phản bội? Có lẽ chỉ cần mắt mũi không vấn đề là có thể nhìn ra ngay. Vì trưởng nhóm kiểu gì mà lại bỏ rơi thành viên trong nhóm như thế.
Cởi bỏ được hiềm nghi rồi, chúng tôi cũng không được thả ra ngay. Người ta lại chuyển sang hướng điều tra mới. Như nghề nghiệp thật sự của chú là gì, lý do nhận nuôi con trai của Choi Hyun Soo rồi sống lang thang như thế, nguồn gốc số tiền chi phí cho việc đi lại, lý do lưu trú dài hạn ở nhà trọ. Như thể họ đã nhận được mệnh lệnh vậy. Kiểu mệnh lệnh như “bắt nó khai hết rồi treo cổ nó lên”, nếu không thì chắc họ đang định tóm lấy một vụ để xoa dịu cuộc điều tra về lòng trung thành này.
Sáu giờ chiều ngày 25, chúng tôi ra khỏi phòng điều tra. Ở sảnh, có khoảng chục phóng viên đang chờ. Quy trình quen thuộc lại lặp lại. Tôi được hỏi nhiều câu đa dạng. Như cậu học lặn ở đâu, sao cậu lại nghỉ học... Câu hỏi lạ nhất là “Cậu nghĩ gì về chế độ tử hình?” Tôi nhìn về phía người hỏi,
chạm phải ánh mắt của một phóng viên trẻ.
Chế độ tử hình ấy à… Thà rằng cứ hỏi luôn là tôi đã tử hình ai chưa còn hơn. Như vậy tôi còn có thể trả lời được. Người hành quyết đang sống trong tôi. Người bị xử tử chủ yếu là bố tôi, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng buộc dây treo cổ người khác nữa. Cả người đàn ông mắt lác làm giáo viên chủ nhiệm của tôi cách đây đã lâu, cả hai con bé em họ chỉ cần nhìn thấy tôi là gào ầm lên, và có thể cả đám cảnh sát hình sự như chó động dục hôm nay, cả tay kiểm sát viên hay viên tướng lục quân nữa. Vậy nên anh phóng viên, anh hãy cẩn thận đấy.
Chú khẽ đập đập vào vai tôi.
“Đi thôi.”
Trên xe trở về làng Hải Đăng, sự im lặng bao trùm. Chú thì lái xe, Hội trưởng thì ngủ. Còn tôi, lại một lần nữa, cho bố đứng lên giá treo cổ.
Tôi nhớ lần đầu tiên tôi hành quyết bố. Đó là vào mùa hè năm tôi chuẩn bị thi vào cấp Ba. Thời gian đó, chúng tôi đang ở Gunsan. Như thường lệ, tôi đến thư viện thì phát hiện ra trên giá sách có một cuốn tên là Chế độ tử hình – lý luận và thực tiễn. Hình như tôi đã quay lưng bỏ đi rồi lại quay lại mấy lần. Cuối cùng, tôi cũng rút cuốn sách từ trên giá xuống. Đứng trước cuốn sách, tôi lật trang đầu tiên. Ngồi co ro trên ghế, tôi gấp lại trang sách cuối cùng. Sau khi cất sách lên giá, tôi lập tức về nhà. Tôi phải học bài, hay bất cứ thứ gì như thế cũng được. Tôi muốn quên đi hình ảnh pháp trường vừa nhìn thấy. Giữa tiết Tam Phục[8] trên 30 độ, tôi trùm chăn bông kín mít. Bóng tối đỏ sẫm bao phủ trên lưng tôi.
8. Tiết nóng nhất trong mùa hè ở Hàn Quốc.
Tôi rơi xuống trước một ngôi nhà gỗ cũ kỹ. Cạnh cửa sổ có một cây hồng, ánh tịch dương ló lên phía trên mái nhà, cánh cổng gỗ tối màu chắn ngang trước mặt tôi. Tôi đưa tay thử đẩy cánh cổng. Cổng chầm chậm mở, tôi đi vào bên trong. Không có đèn, cũng không có cửa sổ, nhưng trong phòng lại sáng. Phía trước phòng, nền được đắp cao lên như bục giảng, trên có để chiếc bàn phủ khăn đen, phía sau, có buông một tấm rèm trắng như làm vách ngăn. Phía đó có bóng người. Tôi bước lên sàn, đi tới kéo rèm ra. Trên sàn nhà trải chiếu, có một người đàn ông trùm kín mặt đang ngồi. Buông xuống trên đầu người đó là một sợi dây thừng to như bắp tay trẻ em, quanh cổ người đó đầy mồ hôi. Đôi vai rắn chắc dường như hơi run lên. Trong khăn bịt mặt vọng ra tiếng thở dài như nức nở. Tôi chụp lấy cái thòng lọng, đeo vào cổ người đó. Tôi mở miệng, hạ lệnh.
“Tiến hành.”
Vút một tiếng, sàn nhà biến mất, người đàn ông vụt biến khỏi mặt đất. Tôi tung chăn, ngồi bật dậy, ngoái đầu nhìn cửa sổ. Mặt trời chiều đỏ thẫm đang treo trên nền trời mờ tối. Đến lúc đó tôi mới hiểu ra. Người đàn ông biến mất hút xuống dưới sàn nhà đó, là bố tôi.
“Mọi việc kết thúc rồi.”
Tôi nghe thấy tiếng chú. Chẳng hiểu chú nói gì, tôi chỉ im lặng chớp chớp mắt.
“Quên hết mọi chuyện đi.”
Phải đến lúc đó, tôi mới tỉnh ra khỏi những ý nghĩ miên man về chuyện ngày xưa. Đúng vậy, chúng tôi đã ra khỏi đồn cảnh sát, và đang trên đường về nhà cơ mà. Tôi quay sang, gật đầu với chú. Chú đừng lo. Cháu sẽ quên hết. Việc đó chẳng phải ngay cả bọn bò sữa còn làm được hay sao? Chỉ có một vấn đề nhỏ ở đây, là tờ Sunday Magazine kia chắc hẳn phải thông minh hơn lũ bò sữa kia rồi.
Đêm sao dài dằng dặc. Hai ngày liền thức trắng nhưng tinh thần tôi vẫn tỉnh táo. Nhờ vậy, lâu lắm rồi mới dậy sớm đi làm. Là ngày đi làm cuối cùng. Vì chắc ông chủ hiệu thuốc cũng biết sự thật về tôi rồi, và tôi cũng có thứ phải nhận từ ông ấy. Tờ báo buổi sáng ném dưới cửa kính hiệu thuốc, tôi cúi xuống nhặt lên.
Tai nạn khu đá ngầm ngoài đảo ở huyện Shinsung. Phát hiện thợ lặn tham gia cứu hộ là con trai kẻ sát nhân Choi Hyun Soo.
Đêm 24 vừa qua, ở vùng biển đảo đá tại bán đảo Hwa-won, đã xảy ra tai nạn. Bốn du học sinh ở Mỹ về nước nhân kỳ nghỉ thu đã đi lặn đêm tại đây, trong đó, hai người chết và hai người bị thương. Được biết, ở khu vực vách đá phía Tây, những người này gặp phải dòng chảy ngầm nên đã xảy ra tai nạn. Sau khi xảy ra tai nạn, hai thợ lặn sống cùng nhà trọ lập tức đứng ra tìm kiếm cứu hộ, tìm được một người đã chết đuối, và một người thì tử vong sau khi được cứu, hai người còn lại được đưa đến Trung tâm Y tế Mokpo. Khu vực vách đá phía Tây hòn đảo, thường xuất hiện dòng chảy ngầm, được biết đến là một nơi mà ngay cả thợ lặn lâu năm cũng tránh lặn đêm. Mặt khác, tham gia cứu hộ hôm đó có cậu Choi (18 tuổi), người được phát hiện là con trai của Choi Hyun Soo – thủ phạm gây ra thảm kịch hồ Se Ryung, hiện đang ở tù và vừa nhận phán quyết tử hình. Được biết, nhiều năm qua, cậu Choi không có nơi ở cố định mà sống nay đây mai đó, một năm nay thì sống ở nhà trọ, và đã tham gia cứu hộ trong tai nạn này. Cảnh sát cho biết đã cho gọi ông Ahn (39 tuổi), người tổ chức cứu hộ cùng với cậu Choi, và hiện đang điều tra cụ thể về trường hợp tai nạn này.
Tôi ngồi trước bàn. Những ngọn đèn dựng lên khắp nơi, nhấp nháy như mắt cú mèo. Trên trán tôi rịn đầy mồ hôi lạnh. Mỗi nhịp thở là ngực lại đau nhói. Tiêu đề bài báo không còn là tổ hợp của những con chữ nữa. Mà là lưỡi dao của người đời đâm thẳng vào mạn sườn tôi.
Tôi mở internet, tìm đọc tin tức. Những đường dẫn tới tin tức liên quan đến sự việc hiện lên hàng loạt. Loạt bài báo được tìm kiếm theo tiêu đề “Con trai Choi Hyun Soo” nhiều hơn là tiêu đề về tai nạn đó. Tôi mở bài báo đầu tiên ra. Có tới mấy nghìn bình luận. Tôi không đọc nội dung. Vì đã là con trai của kẻ sát nhân thì có làm việc tốt thì cũng chẳng ai buồn cúi đầu cảm kích đâu.
Tôi vừa đóng bài báo lại, thì chợt nhìn thấy phía trên trang web, ở ô tìm kiếm, cụm từ “Con trai Choi Hyun Soo” đã leo lên vị trí số một. Thật đúng là một uy lực đáng nể. Bảy năm đã trôi qua mà sự quan tâm của người đời đối với Choi Hyun Soo, so với khi đó vẫn không hề giảm một chút nào. Bây giờ, phải chăng biệt đội điều tra của cư dân mạng đã bắt đầu hành động? Nếu vậy, có lẽ đang nở rộ phong trào “moi thông tin đời tư” của con trai Choi Hyun Soo. Rồi cái ảnh tôi đầu cạo trọc hồi ở Trại giáo dưỡng, thế nào cũng bị truyền đi khắp nơi trên mạng. Giá tôi là một kẻ bị bệnh vĩ cuồng thì có phải tốt không…
Lúc tôi dọn dẹp gần xong thì chủ hiệu thuốc đến. Ông ta im lặng, ngồi vào bàn, mở tờ báo mà tôi để trên bàn. Tôi đợi đến khi ông đọc xong. Ba mươi phút sau, tôi ngồi trước mặt ông.
“Cháu sẽ làm việc hết hôm nay thôi ạ.”
Nói xong, tôi chợt rùng mình. Rồi ngày mai tôi sẽ làm gì. Vì có làm gì, có đi đâu chăng nữa, dù cho không có tờ Sunday, cuộc đời thân mến này vẫn túm chặt lấy tôi không buông. Dược sĩ vắt chân chữ ngũ, ngước lên nhìn tôi. Tôi không tránh ánh mắt của ông. Tôi không muốn cúi đầu. Tôi không phải là tội nhân.
“Làm gì có chuyện đó.” Dược sĩ nói. “Vài ngày nữa sẽ chẳng còn ai để tâm đâu. Đi làm việc đi.”
Thật bất ngờ. Liệu có phải ông ấy nghĩ nếu run lên bần bật mà đuổi việc tôi thì mất phẩm cách ông chủ quá chăng? Nếu không thì đây có phải là chút tình cảm với thằng bé đã làm việc ở đây cả năm nay?
“Thời gian qua, cảm ơn ông chủ.” Tôi đáp lại.
Nếu nói không có gì nuối tiếc thì là nói dối. Chỉ là tôi không có ý định đón nhận ý tốt của người khác. Theo như kinh nghiệm đã dạy tôi, ý tốt không phải là thứ đáng tin. Thời hạn sử dụng của “ý tốt” chỉ kéo dài chừng nào người ban phát lòng tốt chưa thu hồi nó lại, và kiểu “ý tốt” một sớm một chiều đó thì nhiều vô số. Nói cảm ơn rồi từ chối, đó là cách giữ thể diện cho cả hai bên. Như thế, có thể vớ bở vừa được nhận lương lại vừa được nhận cả tiền thôi việc. Rồi còn có thể được nghe một câu từ biệt thật lạ lẫm, rằng khi nào cần việc làm thì cứ quay lại đây.
Bốn giờ chiều, sau khi dọn dẹp xong, tôi đi về. Dưới chân tường, không thấy đậu chiếc xe Bongo của chú. Tôi ngó qua cửa sổ, nhìn vào phòng. Cũng không có chú. Tôi nghẹo đầu nghĩ, hay là chú ra siêu thị Liên hiệp nghề cá? Nếu ra siêu thị, hiệu thuốc Papa ở ngay bên cạnh, không có lý gì chú không ghé qua. Mà hình như chú cũng không đi lấy tư liệu viết. Túi đựng tư liệu của chú vẫn treo nguyên bên cạnh cửa. Tôi vừa dựng xe đạp ở sau nhà rồi đi ra, thì nghe sau lưng có tiếng của Hội trưởng.
“Về lúc nào thế cháu?”
“Ông ở nhà ạ? Thấy nhà yên tĩnh quá, cháu tưởng ông đi đâu rồi.”
“Không. Ông ở trong phòng.”
Hội trưởng đưa cho tôi một hộp đồ. Hội trưởng bảo lúc nãy có chiếc xe mô tô giao hàng đem đến để đấy rồi đi. Cái hộp to hơn hộp giày một chút, cả địa chỉ, cả tên người gửi đều không có. Phần dành cho người nhận chỉ ghi địa chỉ nhà trọ với tên của tôi.
“Chú đi đâu rồi ạ?”
“Thì đó. Ăn cơm trưa với ông xong, ngủ một giấc dậy thì không thấy đâu nữa. Cả xe cũng không thấy.”
Tôi định quay vào phòng thì chợt nghĩ ra một việc, liền quay lại nhìn Hội trưởng. Sao ông ấy không bảo chúng tôi dọn đi nhỉ. Dù là nhà nghỉ đông khách hay vắng khách đi nữa, biết đâu vì tôi mà phải đóng cửa thì sao.
Tôi mở cái hộp ra. Lần lượt lần lượt từng đồ vật mà tôi không hiểu nổi. Sổ tư liệu của chú, cái đồng hồ ghi âm mà mỗi lần đi lấy tư liệu chú đều đeo, cái USB hình đồng xu mà chú tặng tôi nhân dịp tôi lĩnh tháng lương đầu tiên ở hiệu thuốc, một bó thư với cuốn sổ cắt dán buộc dây chun. Ở dưới cùng có để một tập giấy A4 dày. Trang ngoài cùng không viết gì cả. Lật qua trang bìa thì thấy xuất hiện một tiêu đề không thể ngờ được.
Phần mở đầu – 27.08.2004 Hồ Se Ryung.
Còn chưa kịp hiểu ý nghĩa của tiêu đề, mắt tôi đã tự động di chuyển xuống dưới.
Cô bé đang đứng ở trạm xe buýt trước cổng trường, dựa vào cột biển báo, mũi giày đá đá trên mặt đường. Cô bé đang cúi đầu, không nhìn rõ mặt. Chỉ thấy vầng trán trắng trẻo, tròn trịa, và mái tóc dài bay bay trong gió.
Một chiếc xe Ben rầm rầm chạy ngang qua. Hình dáng cô bé bị chiếc xe che mất một thoáng, rồi lại hiện ra. Tiếp đó, một chiếc Bongo màu bạc chạy từ trong xã ra, dừng trước mặt cô bé. Là xe đưa đón của bên trung tâm dạy Mỹ thuật. Từ trong làn khói dày đặc, bật lên giọng nói đầy hớn hở.
“Chú ơi, hôm nay cháu không đến trung tâm được đâu. Có tiệc sinh nhật. Là sinh nhật cháu.”
Chiếc Bongo quay đầu, rồi biến mất trên con đường lúc nãy vừa chạy đến. Cô bé đi qua đường. Hai vai xuôi xuống, cúi nhìn mặt đất, lê từng bước chậm chạp. Seung Hwan đứng ở cửa vào lối đi phụ của Trạm dừng chân, nhìn cô bé đi tới. Lúc gần sang hết đường, cô bé ngẩng lên. Nhìn vẻ mặt như thể đến lúc này mới nhận ra là có người đang nhìn mình. Nắng tháng Tám chiếu lấp lánh trên chiếc cặp cài trên tóc mái. Dưới vầng trán tròn trịa, khuôn mặt vẫn đầy vẻ tổn thương. Đôi mắt đen tròn nhìn thẳng vào Seung Hwan, đôi mắt đó đang ngập ngừng bất an. Suýt nữa thì Seung Hwan đã cất tiếng.
“Xin chào cô gái. Chúc mừng sinh nhật.”
Cô bé quay người, đi ra phía cổng vườn cây Se Ryung. Seung Hwan đứng ngậm điếu thuốc lá, nhìn theo cô bé. Anh nghĩ tới bọn trẻ con ở khu ký túc xá vừa gặp 5 phút trước. Có vẻ như bọn chúng đang đi dự tiệc sinh nhật ai đó. Cứ nhìn mỗi đứa tay cầm một gói quà, cùng kéo nhau vào tiệm McDonald’s trong Trạm dừng chân là biết. “Ai đó” ở đây tất nhiên không phải là cô bé kia rồi.
Ở phía hồ Se Ryung vang lên tiếng trống Samul Nori[9]. Âm thanh báo hiệu bắt đầu lễ Vọng hương tế. Bọn trẻ làng Đất trũng có lẽ kéo nhau ra đó cả rồi.
9. Một loại hình văn nghệ dân gian Triều Tiên.
Dân làng Se Ryung được chia thành hai loại – dân gốc ở đó và dân ở khu ký túc. Con đập được xây trên sông Se Ryung, làng Se Ryung cũ bị nhấn chìm, người dân gốc ở đó đi thuyền đến đây. Họ lấy vùng đất bằng phía dưới đập làm nơi sinh sống mới. Vì vậy, người dân gốc với người làng Đất trũng nói cùng một giọng. Dân ở ký túc là Ban quản lý đập nước và gia đình họ. Những người đó sống trong khu vườn ươm Se Ryung phía Tây đập. Khu có tên “Rừng Ký túc” nằm ở phía Nam khu vườn ươm, là khu ký túc cho nhân viên Ban quản lý thuê. Khu có tên “Rừng Biệt thự” nằm ở phía Bắc khu vườn ươm, có ba căn nhà. Nhà số 101, số 102, số 103. Ba căn nhà gọi chung là “khu biệt thự”, trong đó, số 102 và 103 là nơi ở của các nhân viên công ty bảo vệ thuộc Ban quản lý đập. Seung Hwan sống ở nhà số 102. Cô bé sống ở nhà bên cạnh, số 101 ở phía trong cùng. Đó là một ngôi nhà hai tầng, nhìn giống như thành trì của nhà vua vậy. Đó cũng là nhà của người chủ khu vườn ươm, người đã lấy tên hồ nước này đặt cho con gái mình.
Seung Hwan chưa bao giờ thấy bọn trẻ con trong làng với bọn trẻ con khu ký túc xá chơi chung một chỗ bao giờ. Cô bé cũng không chơi chung với bên nào. Cô bé sinh ra ở cái làng Se Ryung xưa nay đã chìm trong nước, mang tên Se Ryung, nhưng lại sống trong khu vườn ươm, là người thuộc về khu ký túc xá. Giống như cô bé không còn nguyên vẹn là người dân gốc hay một người ở khu ký túc xá vậy. Đó chính là lý do một cô bé vào dịp sinh nhật thứ 12 của mình, trong một buổi chiều thứ Sáu ai cũng bận rộn, phải đứng một mình ở trạm xe buýt.
Seung Hwan ngậm điếu thuốc lá trong miệng, nhìn lên trời. Mây xám cuộn lổn nhổn trên nền trời. Mặt trời đang khuất dần vào sau đám mây, tiếng ve kêu ngưng bặt.
Thật là một buổi chiều vừa nóng vừa ngột ngạt, và tâm trạng chẳng ra sao.
Tôi gập tập bản thảo lại. “Seung Hwan” là tên của chú. Là bản thảo do chú viết. Mặc dù biểu đạt ở ngôi thứ ba, nhưng chẳng có gì phải nghi ngờ cả. Giọng văn thì quen thuộc y như khuôn mặt tôi vậy. Có thể đoán được ở trang tiếp theo, chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu là chuyện đó thì vài năm trước, tờ Sunday Magazine đã từng buộc tôi học đến khắc cốt ghi xương. Tôi không muốn giờ ôn tập lại làm gì. Nhưng tôi không khỏi thắc mắc. Tại sao chú lại viết cái này, người gửi có đúng là chú không. Nét chữ viết trên hộp thì lạ, nhưng người gửi chỉ có thể là chú thôi.
Tôi đạp xe tới ngọn hải đăng, ra mũi vách đá, ngồi bệt xuống, nhìn biển. Đường chân trời đỏ rực như cánh đồng lửa cháy. Ngày 27 tháng 8 năm 2004, thứ Sáu, vào buổi chiều mà đứa bé gái vẫn còn sống... Tôi như bị túm cổ kéo về mùa hè của bảy năm trước.
Khi ấy gia đình chúng tôi vừa chuyển về hồ Se Ryung được hai ngày, hôm đó là Chủ nhật, ngày 29. Đúng lúc bố tôi nhận được lệnh làm Đội trưởng đội bảo vệ đập Se Ryung. Nhà số 102 khu biệt thự chỉ có hai phòng, và chú đã ở sẵn đó rồi. Bố mẹ quyết định ở phòng lớn. Tôi với chú thành ra bạn cùng phòng.
Chuyển nhà xong, chú dẫn tôi ra con đường mòn đó. Chính là con đường ở Trạm dừng chân nơi chú gặp cô bé tên Se Ryung trong phần mở đầu của bản thảo. Là con đường chúng tôi đi tìm bố. Bố đi ra ngoài mua đồ, hai tiếng đồng hồ không thấy về, mẹ cử chúng tôi đi truy bắt bố về. Men theo con đường mòn đi lên thì đến Trạm dừng chân đường cao tốc mà tôi đã ghé vào lúc trên đường chuyển nhà đến hồ Se Ryung. Tôi cứ lơ nga lơ ngơ, cuối cùng mất cả phương hướng. Từ Trạm dừng chân, đi xuống phía dưới một đoạn, có một giao lộ về phía xã Se Ryung. Lên đến giao lộ rồi, chạy một hồi thì đến hồ Se Ryung, vậy nên khoảng cách giờ thành ra gấp đôi một đoạn lúc nãy. Chú nhìn vẻ mặt tôi, rồi chỉ con đường mòn đó bảo.
“Con đường này giở trò ma thuật rồi…”
Suýt nữa thì tôi đã tin những lời ấy. Khi đó, với khả năng xác định phương hướng của tôi, thì chỉ có thể hiểu được đó là “con đường ma thuật” thôi. Ai dám bảo đây là con đường đi xe hơi thì mất hơn 10 phút, còn đi bộ thì chỉ 5 phút đến nơi. Mà không phải chỉ có con đường đó là kỳ lạ. Ngay từ cái trạm dừng chân tự nó đã kỳ lạ rồi. Đối với xe qua xe lại thì đó chỉ là một trạm dừng chân bình thường, nhưng với người làng Se Ryung, nó giống như một căn cứ địa để hoạt động vậy. Khu cửa hàng ăn là địa điểm ăn ngoài của mọi người, cửa hàng tiện lợi là siêu thị, McDonald’s là nơi tổ chức sự kiện của bọn trẻ trong khu, còn dưới cái dù bãi biển trên đài quan sát là quán rượu cho mấy tay bợm nhậu sống gần đó.
Chú dẫn tôi ra chỗ đài quan sát ở Trạm dừng chân. Ở đó, chúng tôi gặp bố, bố chưa gì đã thành sâu rượu trong khu chúng tôi ở. Dưới chân cột của cây dù bãi biển là hai vỏ chai soju. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bố. Tôi nhìn xuống hồ Se Ryung dưới chân. Làng Đất trũng thì lui xuống phía dưới hồ Se Ryung một chút nữa. Tôi nói với bố.
“Giờ bố kể chuyện ma thuật cho con nghe đi.”
“Ma thuật nào?” Bố hỏi.
“Ma thuật ở chỗ con đường mòn ấy.”
Tôi trả lời. Bố quay sang nhìn chú. Chú cười ha hả.
“Seo Won, cháu có biết hình xoắn ốc như thế nào không?”
Tôi giơ ngón tay vẽ một đường xoáy trôn ốc cho chú xem.
“Giỏi lắm. Hồ Se Ryung là hồ được tạo thành khi xây đập trên con sông Se Ryung. Sông Se Ryung vốn chảy men theo chân núi Se Ryung. Đương nhiên, như thế dưới chân núi sẽ chìm trong nước. Ngôi làng vốn trước đây ở đó, giờ chuyển tới vùng đất trũng nhất, còn bên cạnh núi Se Ryung thì người ta đào đường cao tốc, rồi xây cái Trạm dừng chân ở đầu đường. Nếu tưởng tượng tầng một là hồ Se Ryung, tầng hai là Trạm dừng chân thì sẽ hình dung ra, đúng không? Con đường cao tốc chính là một cái cầu thang xoắn ốc, nối tầng một với tầng hai. Còn con đường mòn là một chiếc thang. Trèo lên thang này là tới ngay được tầng hai rồi.”
Chúng tôi quên béng cả nhiệm vụ bắt bố về cho mẹ, cứ thế ngồi lì cạnh bố. Tôi uống coca, bố uống soju, còn chú uống bia. Mặt trời đỏ dần, bóng dưới chân dần dần dài thêm. Trên mặt hồ Se Ryung tỏa lên một lớp sương nhẹ. Chú đưa tay chỉ nơi bình nguyên và bầu trời gặp nhau. Chú bảo vượt qua đường chân trời xa xôi đó, là vùng biển có tên là Deuknyangman. Chú bảo vào những đêm trời nổi gió Nam, nhớ mở cửa sổ rồi hít một hơi thật sâu. Chú bảo làm thế, mùi biển sẽ đi thẳng vào trong người tôi. Mỗi đêm, tôi đều mở cửa sổ, đợi gió Nam. Mỗi đêm, thứ đọng lại trong tôi lại là tiếng của đứa bé gái đó. Hoa bất tử nở rồi.
“Cháu ơi. Nãy giờ làm gì ở đây thế? Trời tối rồi.”
Sau lưng vọng tới tiếng của Hội trưởng. Tôi quay lại.
“Chú về rồi hả ông?”
“Không. Không phải ông nhà văn, mà cái xe mô tô lúc nãy lại tới.”
Lần này cũng lại là một chiếc hộp. Lần này thì có tên người gửi. Người gửi là “Bạn”. Hình như không phải của chú. Chữ viết khác với chữ của chú. Cũng khác với chữ viết của “Người vô danh” trên cái hộp đầu tiên. Mà chú thì rất hiếm khi dùng danh xưng là “Bạn”.
Trong hộp đựng một tờ tạp chí Sunday, với giày chơi bóng rổ hiệu Nike đã ngả màu ố vàng. Đã thế lại chỉ còn một chiếc, cỡ giày 245 mm. Trên miếng bọc giày có ghi tên. Nét chữ đã phai mờ nhưng vẫn đủ để đọc được.
Choi Seo Won.
Chỉ duy nhất một lần tôi từng có một đôi giày bóng rổ hiệu Nike. Đó là vào ngày tôi lên nhận giải thưởng ở Hội thi Toán học, bố đã tặng cho tôi. Người viết tên tôi lên miếng bọc giày cũng là bố. Đôi giày đó bị mất hồi tôi sống ở hồ Se Ryung. Vậy nên đó là đôi giày từ thuở tôi 12 tuổi.
Đậy hộp lại, tôi ngồi lui ra phía sau. Tôi muốn hỏi tờ Sunday. Mày là ai, mày muốn gì? Tôi cũng muốn khuyên nó một câu, nếu muốn trả thù, thì đi mà trả thù người đang đợi ngày tử hình ở trại giam Seoul ấy.
Từ sẩm tối, tôi đã trải chăn đệm rồi đi nằm. Tôi không sao ngủ được. Thời gian cũng chẳng trôi đi. Tất cả những câu hỏi cứ hỗn loạn trong đầu. Chú đi đâu rồi? Chú làm gì mà đến giờ vẫn chưa về? Tại sao ngay cả điện thoại cũng không gọi? Tờ tạp chí Sunday, chân tướng của nó là gì? Đồ của chú với chiếc giày Nike, trong cùng một ngày được giao tới đây, liệu có phải là ngẫu nhiên không, hay có sự liên quan nào đó?
Cho đến bây giờ, tôi vẫn cho rằng tờ Sunday là người nhà của nạn nhân đã thiệt mạng vì bố gửi đến. Tôi kết luận rằng, nếu không phải như vậy, thì không lý gì lại truy lùng dai dẳng đến mức này. Vậy nhưng, khi kết hợp chi tiết đôi giày Nike bị mất ở hồ Se Ryung với tờ tạp chí Sunday, thì tôi buộc phải thay đổi suy nghĩ. Đó phải là người có mối liên quan trực tiếp với tôi, đồng thời cũng là người liên quan đến sự kiện hồ Se Ryung.
Tôi thử gọi vào điện thoại di động của chú. Một giọng nữ nào đó nói là điện thoại đang tắt. Tôi muốn thử gọi về nhà chú ở Seoul, nhưng cả điện thoại, cả địa chỉ, tôi đều không biết. Cha nuôi của tôi, tức anh ba của chú, bốn năm trước đã sang định cư ở Úc rồi.
Tôi mở máy tính ra, cắm USB của chú vào máy. Nếu đã có tập bản thảo in ra, thì có nghĩa là sẽ có file bản thảo. Không muốn đọc bản thảo mà chỉ muốn tìm kiếm từng phần theo ý mình, thì cần phải có file đó. Trên màn hình hiện ra hai thư mục có tên là “Tư liệu” và “Hồ Se Ryung”. Tôi vào thư mục “Hồ Se Ryung” thì thấy hiện ra khoảng chục file word. Trong số đó, tôi bấm vào file có tên “Bản cuối”. Tên chương hiện lên giống y như trong bản in. Đoạn văn đầu tiên cũng đồng nhất với bản in. Tôi ấn nút “Tìm kiếm”, rồi gõ vào từ khóa “Nike”. Xuất hiện đoạn văn đầu tiên được đánh dấu.
Tháng Năm vừa rồi, Seo Won đi nhận giải thưởng ở Hội thi Toán học. Hyun Soo dùng thẻ quỹ đen mua đôi giày Nike.
Chuyện này cũng khớp với ký ức của tôi. Tôi tiếp tục bấm nút “Tìm kiếm” từ “Nike”. Qua thêm vài đoạn văn nữa. Tất cả đều là những câu có chủ ngữ là cái tên “Hyun Soo”. Phải gần đến phần cuối, lệnh “Tìm kiếm” mới tìm được một cái tên không phải là Hyun Soo, mà là một cái tên khác.
Young Je lôi từ trong túi nhựa ra chiếc giày Nike.
“Nhìn cỡ thì thấy hình như không phải của Đội trưởng. Tôi nghĩ có thể của con trai anh chăng...”
“Young Je”… Tựa như sét đánh, một khuôn mặt đàn ông thình lình hiện lên trước mắt tôi rồi biến mất. Tôi gõ tìm từ “Young Je”. Sau khi qua vài đoạn văn mà tôi không thể xác định được chủ ngữ có phải cùng một người không, thì đến đoạn tiếp theo.
Về sau, anh có nghe thấy tiếng hét của Se Ryung thêm chừng hai lần nữa. Nghe thấy cả tiếng gọi “Bố” đầy tuyệt vọng. Tiếng gọi lọt qua khe cửa sổ mở mà lúc ra khỏi nhà, anh đã nhìn thấy.
Ngôi nhà ấy, trên bảng số nhà 101 có đề tên “Oh Young Je”.
Tóc tôi dựng ngược lên. Vậy là tôi nhớ đúng rồi. Oh Young Je là bố của đứa bé gái đó, bố của Se Ryung. Đồng thời cũng chính là người gửi tờ Sunday Magazine. Nhưng dự đoán này có một điểm sai về logic. Người đàn ông đó là người đã chết cách đây bảy năm rồi. Và người đó cũng chết dưới tay bố, chuyện đó cả thế gian này đều biết. Cơn hỗn loạn khủng khiếp trong tâm trí tôi dường như lan đi khắp toàn thân. Cảm giác không lành xộc tới, hệt như một luồng xú khí.
Tôi nhìn xoáy vào cái tên đã chuyển thành màu trắng trong những phần tìm kiếm được bôi đen. Oh Young Je.