← Quay lại trang sách

Hồ Se Ryung – I -

Seung Hwan mở cánh cửa kính phòng khách thông ra ngoài ban công. Hình như gió Nam đang thổi. Trong bóng đêm, tràn tới mùi của biển. Sương buông ướt con đường trước khu biệt thự, trên cửa ban công có đọng vài giọt mưa. Khu vườn ươm thật tĩnh lặng. Không một bóng người, không một bóng xe ra vào. Trong sương đêm, chỉ nghe vang lên âm thanh đơn điệu từ hộp nhạc. Là một bài hát đã quen tai.

Fly me to the moon. And let me play among the stars…[10]

10. Ca khúc “Fly me to the moon”, do Frank Sinatra thể hiện.

Seung Hwan mở điện thoại di động, bấm số của Choi Hyun Soo. Lại nghe mấy câu y như mười phút trước. Thuê bao hiện đang tắt máy, bạn hãy làm thế này thế kia với hộp thư thoại…

Choi Hyun Soo là Đội trưởng đội bảo vệ mới được bổ nhiệm, đến thứ Hai sẽ thành cấp trên của Seung Hwan. Anh ta dự định sẽ chuyển đến vào Chủ nhật, là người sau này sẽ ở chung một nhà. Hình như anh ta có kế hoạch chuyển đến cùng gia đình. Anh ta liên lạc với Seung Hwan, bảo muốn xem nhà trước khi chuyển đến, nghe vậy cũng đoán được rồi. Đã quyết định sẽ đến đây lúc 8 giờ tối. Mới hẹn lúc ăn trưa, nên chắc không quên. Nhưng đến tận 9 giờ vẫn không thấy xuất hiện. Điện thoại thì khỏi nói rồi, nhưng ngay cả đến một tin nhắn báo rằng đến muộn cũng không có. Trong khi điện thoại của anh ta thì liên tục để tắt máy như thế.

Seung Hwan đóng cửa phòng khách rồi kéo rèm lại. Dù cho không thể lấy tư cách gì ngăn người ta đến lúc đêm khuya, nhưng cũng chẳng có lý do gì để phải chịu cảnh “leo cây” này cả. Anh không có ý định, mà cũng không có thời gian để đợi thêm nữa. Còn có việc phải làm. Anh gửi tin nhắn vào chiếc điện thoại đang tắt máy của Đội trưởng mới. Chắc anh ta phải mở điện thoại chứ nhỉ, kiểu gì trong đêm nay cũng phải mở.

214365. Đây là mật mã cửa ra vào ạ.

Seung Hwan ra ngoài cửa chính, nhặt đôi giày thể thao cầm vào phòng mình. Phòng anh nằm phía sau nhà, đối diện với khu rừng Biệt thự. Anh quẳng điện thoại lên bàn, rồi cởi quần áo. Để không bị rối tinh lên vì tối quá nhìn không rõ, thì phải chuẩn bị sẵn những trang phục cơ bản rồi mới đi. Wet-suit[11], BC[12], thắt lưng… Cuối cùng là đeo con dao lặn vào bắp chân. Vừa lúc đó, chiếc điện thoại trên bàn bắt đầu đổ chuông. Seung Hwan giật bắn mình. Nếu là Đội trưởng thì hỏng bét. Giờ mà anh ta bảo sắp đến rồi, đợi anh ta một chút... thì đúng là tình thế tiến thoái lưỡng nan. Mà cũng có khả năng là bố anh. 9 giờ tối thường là lúc bố ngồi khề khà một chén, gọi điện thoại rồi lại ca cẩm cho anh nghe mấy bài.

11. Bộ đồ lặn áo liền quần.

12. Thiết bị điều chỉnh sức nổi.

Bố sẽ lại hỏi, mày định học đòi viết tiểu thuyết hay cái gì gì ấy, rồi cứ lang thang khắp nơi như chó hoang thế đến bao giờ. Công việc đàng hoàng thì mày quăng đi rồi biến mất, giờ 33 tuổi đầu rồi mà cũng chỉ làm được đến cái chân bảo vệ đập nước thôi hả? Mà mày định không lấy vợ thật hay sao? Mày tưởng cả nhà làm cái nghề lặn đến gẫy lưng cho mày ăn học, để rồi phải nhìn mày ra bộ dạng này à? Theo lời anh mày, nếu như mày tài giỏi, sau này sẽ được giống như mấy thằng Tây Chandler[13] hay Hitler gì đó, vậy mà sao chả có ai đối đãi với tao như bố của nhà văn thế hả?

13. Raymond Chandler (1888-1959): tiểu thuyết gia người Mỹ.

Tiếng chuông điện thoại ngừng lại. Seung Hwan xỏ giày vào, rồi nhảy ra ngoài cửa sổ. Anh khoác lên vai chiếc ba lô đựng chiếc máy quay dưới nước cùng mấy thiết bị khác, rồi ngoái nhìn vào trong nhà. Qua cánh cửa phòng nửa khép nửa mở, anh nhìn thấy phòng khách. Đèn phòng vẫn bật, rèm cửa kính đã kéo xuống rất kín. Trên tivi, phát thanh viên đang hăm hở xôn xao. Điện thoại trong phòng lại bắt đầu kêu. Như để bịt tai khỏi phải nghe, Seung Hwan đóng cửa sổ lại. Anh chụp cái mũ bảo hiểm gắn đèn lặn lên đầu, rồi bắt đầu đi về phía sân sau nhà 101.

Đi qua sân sau nhà 101 khoảng hơn 20 mét, là đến ranh giới phía Bắc của khu vườn ươm được bao bọc bằng hàng rào lưới thép. Ở đó chỉ có một cái cửa ngách nhỏ như lỗ chó chui mà ông già quản lý vườn ươm hay qua lại. Cái cửa đó không có ổ khóa, chỉ cần mở then ngang là ra ngoài được. Lại còn tử tế đến mức gắn cả một ngọn đèn ngoài trời phía trên cánh cửa. Lấy ánh đèn đó làm mục tiêu, cứ nhằm thẳng phía trước mà bước sẽ đến cánh cửa phụ đó.

Vấn đề ở chỗ nhiều khi Seung Hwan không thể nào chỉ nhìn thẳng phía trước mà bước được. Chưa đi được chục bước, Seung Hwan chợt nhìn thấy cửa sổ phòng phía sau của nhà 101. Là phòng của đứa con gái nhà đó, Se Ryung. Cửa sổ đang nửa đóng nửa mở. Cả lưới chống côn trùng và rèm cửa cũng kéo ra một nửa, còn trên bệ cửa sổ, hương muỗi đang tỏa khói. Seung Hwan dừng bước. Anh tự động nhìn vào trong phòng.

Đối diện cửa sổ, có treo bức ảnh chủ nhân căn phòng. Tóc tết thành một đuôi sam rồi cuốn thành búi tròn trên đỉnh đầu, vầng trán tròn trịa, đôi mắt đen nhìn thẳng phía trước, cổ cao. Se Ryung ở trong ảnh trông giống như bé gái múa ba lê trong tranh của Degas[14]. Cách đây mấy tiếng, cô bé còn đứng tựa vào cột biển báo xe buýt, chân đá đá xuống mặt đường, hình ảnh khi đó giống như một bóng đen phủ bóng lên bức ảnh này.

14. Edgar Degas (1834 – 1917) là một họa sĩ, nhà điêu khắc người Pháp.

Phía dưới bức ảnh, trên chiếc bàn mặt đá rạn màu trắng, mấy ngọn nến đang cháy trong ly thủy tinh. Một ngọn màu xanh lá cây, hai ngọn màu đỏ. Mấy con thú búp bê đội mũ sinh nhật đang ngồi bên cạnh, trước mặt đống búp bê là một món đồ chơi hình bánh xe đu quay đang chạy. Đó là một hộp nhạc đồ chơi, phía trên cùng có gắn một ngọn đèn hình trăng rằm, mặt trước gắn hình búp bê bé gái đang giơ tay bay về phía mặt trăng. Đây cũng là nguồn gốc tiếng nhạc tối tối vang lên trong sương đêm. Se Ryung đang nằm ngủ trên giường. Mái tóc thường ngày tết lại, giờ xõa dài, che hết nửa khuôn mặt trên gối, hơi thở đều đều như em bé.

Tiếng nhạc đơn điệu của bánh xe đu quay này chắc đã ru cô bé ngủ, Seung Hwan nghĩ thầm. Hình ảnh Se Ryung trong ánh nến, thật kỳ lạ, cảm giác như không có thực. Trông cô bé chỉ như một hình ảnh mờ ảo, tựa như một đứa trẻ từ trong cõi mộng. Mặc dù cô bé đang ở gần đến mức chỉ cần giơ tay ra là chạm được.

Seung Hwan xốc ba lô lên rồi quay đi. Vậy nhưng anh không thể nhanh chóng rời cửa sổ mà đi ngay được. Anh cứ thấy không yên với cảnh tượng trong phòng. Theo như anh thấy thì đứa bé ăn sinh nhật một mình rồi ngủ quên luôn. Nếu bố đứa bé có nhà, không lý gì nến lại cháy đến tận đêm khuya như thế. Nếu bố đứa bé có nhà, cái cửa sổ kia đã phải đóng lại, và cái xe BMW màu trắng đã phải đậu trên con đường trước khu biệt thự rồi… Lúc đó y có nhà không nhỉ. Trí nhớ của Seung Hwan không rõ lắm. Cảnh trí trong tưởng tượng còn rõ ràng hơn trong trí nhớ. Cảnh những ngọn nến rung rinh trong gió rồi lần lượt bắt lửa sang đám búp bê. Trong ngọn lửa vàng, thoáng chốc, đám búp bê đã trở nên co quắp biến dạng.

Seung Hwan chớp chớp mắt, cố xua đi những tưởng tượng không hay. Anh rảo bước, lập tức rời khỏi ô cửa sổ. Chú hàng xóm có sáng suốt thì đừng có lởn vởn bên cạnh đứa bé gái xinh đẹp đó. Việc chú hàng xóm phải làm là ra khỏi cái cửa lỗ chó chui kia rồi đi ra hồ Se Ryung. Nếu có ai hỏi giữa đêm hôm sương mù mờ mịt thế này, lý do gì mà nhất quyết phải mặc đồ lặn, đeo thiết bị lặn chui qua cái lỗ đó rồi ra hồ Se Ryung, thì anh sẽ mượn lời một bậc thầy nào đó mà trả lời người đó thế này.

“Mèo thì phải cào cái gì đó, chó thì phải cắn cái gì đó, còn tôi cũng phải mặc cái gì đó chứ.”

Seung Hwan nộp đơn vào vị trí bảo vệ đập Se Ryung bởi điều kiện làm việc mê hoặc ở đây. Được cấp chỗ ở trong ngôi nhà gỗ thông kiểu nhà nghỉ dưỡng, xung quanh có núi có hồ. Tiền lương cũng ổn. Trong số những việc đã làm thì lương này ở mức trung bình. Ít hơn hồi làm nhân viên bên Cục đường sắt, và nhiều hơn hồi làm phu quét phân ngựa bên trại ngựa ở Gyungju. Hợp đồng có một năm nên cũng chẳng phải mang tâm trạng rằng mình đang trở lại thành con kiến trong một tổ chức. Mà có khi may ra, lại có thể có dịp tao ngộ với một đối tượng khó lường. Một ả mèo vừa có thể gắn cho anh ngôi sao mang danh hiệu nhà văn best-seller, vừa có thể mang lại tiền bạc cho anh,

đó là Nàng Thơ.

Lâu lắm rồi mới có lựa chọn đúng đắn như vậy. Ngày leo lên đài quan sát ở trạm nghỉ chân lần đầu tiên, Seung Hwan đã nghĩ như vậy. Đó là ngày đầu tiên của tháng Sáu, ngày bắt đầu mùa hè. Một ngày trời không lạnh cũng không nóng. Một buổi chiều trời không quang cũng không mây. Một quầng sáng bao quanh mặt trời trên nền trời màu ngọc trai. Đúng là kiểu thời tiết vừa đẹp để thưởng ngoạn vùng hồ Se Ryung.

Nếu dựa trên sơ đồ đập nước thì có một con sông khởi nguồn từ núi Paryeong ở phía Bắc rồi chảy về phía Nam, hồ Se Ryung hình thành khi người ta ngăn con sông này. Hai bên bờ hồ trải dài hai ngọn núi đỉnh vừa nhọn vừa thẳng. Đỉnh núi ở phía có Đài quan sát của Trạm dừng chân là đỉnh Se Ryung, đỉnh ở phía bên kia là đỉnh So Ryung. Dưới chân ngọn Se Ryung, rừng cây trăn mọc um tùm, trong rừng có một trại nuôi gia súc giờ bỏ hoang, phía dưới lối vào nông trại, có một con đường ven hồ gọi là Đường Trong, con đường này nối thẳng ra phía con đập. Hình dáng hồ nước như vẽ nên nửa trên cơ thể người phụ nữ. Đường dẫn nước từ sông vào hồ trông như chiếc cổ cao, bến đỗ thuyền là chỗ khuôn ngực nhô ra, một hòn đảo gọi là Hansoldeung giống như một cái chấm đóng ngay giữa ngực, phía dưới ngực là tháp lấy nước, còn con đập đỡ lấy nửa thân dưới vừa dài vừa sung mãn.

Trên mặt đập có một cây cầu tên là cầu công đạo số 1, cửa đập và Phòng bảo vệ cửa xả nước nằm bên phía núi So Ryung ở phía cuối cây cầu. Nhánh sông hình thành từ dưới cửa đập chia đôi vùng bình nguyên phía Nam, rồi chảy ra biển xa tít ngoài đường chân trời. Làng Se Ryung hình thành xung quanh nhánh sông này. Phía ngọn So Ryung, nơi có cửa đập, Ban quản lý đập và nhà máy thủy điện đóng bên triền sông, còn phía bên ngọn Se Ryung có khu vườn ươm. Nối liền hai bờ hồ là cây cầu thứ hai, gọi là cầu công đạo số 2. Phía dưới cầu số 2 là làng Đất trũng, còn cây cầu số 3 nối với trục đường trong vùng, tạo thành khu vực các cơ quan công cộng và khu trung tâm buôn bán. Cách khu trung tâm 4 km về phía Tây, nằm ở một vùng hẻo lánh, là thị trấn Se Ryung.

Vườn ươm Se Ryung là một khu đất tư nhân rộng mênh mông ngút ngàn, trải dài từ chân núi Se Ryung đến tận khu trung tâm buôn bán. Phía cây cầu số 1 là cửa sau, phía khu trung tâm buôn bán là cửa chính, con đường trục ở giữa nối hai cửa này dài cả cây số. Con đường này cũng là ranh giới chia khu vườn ươm Se Ryung thành ra hai phần trên dưới. Khu nằm ở phía trên con đường này, được gọi là “rừng Biệt thự”, một vùng đồi núi trải dài đến chân ngọn Se Ryung, mọc um tùm những cây bách cổ thụ. Nằm phía dưới con đường là khu “rừng Ký túc”, một vùng đất thấp bằng phẳng nhìn thẳng sang khu trung tâm buôn bán. Cây cối, cảnh trí được chăm chút giống với một công viên hơn là một khu rừng, mắt cảm ứng của camera giám sát nhấp nháy khắp nơi. Cổng chính và cổng sau, con đường trục chính ở giữa, lối vào và sân chơi của khu biệt thự, thư viện Rừng Xanh… Thêm vào đó, toàn bộ khu vườn ươm được vây kín trong hàng rào lưới thép cao ngất. Gọi là vườn ươm, nhưng nơi này giống như lãnh địa của lãnh chúa thời Trung cổ vậy. Đặt chân vào nơi này được hai tháng, Seung Hwan viết được ba câu văn tỏa sáng như sau.

Se Ryung là cô bé nổi tiếng nhất trong vùng. Ở cái nơi có nguồn nước đổ xuống từ núi cao này, đi đến đâu trong làng cũng có thể nghe thấy tên cô bé. Trạm dừng chân Se Ryung, trường Tiểu học Se Ryung, Trạm y tế Se Ryung, đồn cảnh sát Se Ryung, vườn ươm Se Ryung…

Chiếc đồng hồ tiểu thuyết đã dừng lại ở đó. Trí tưởng tượng của Seung Hwan cũng dừng lại. Tại sao Se Ryung lại xuất hiện trong tác phẩm của anh? Chịu không thể biết được. Ngay cả chút cảm giác đứa trẻ đó là như thế nào, anh còn chẳng có. Rõ ràng, khi mới bắt đầu viết, nàng mèo thi hứng dường như đã cho anh một vài tín hiệu. Anh còn nghĩ chắc chắn mười mươi đó sẽ là một câu chuyện dính tới cả vận mệnh của đứa trẻ này.

Seung Hwan bắt đầu thấy chán. Công việc ở Đội bảo vệ thì đơn điệu, mà trời thì nóng lên mau chóng. Hồ nước đang hé miệng giống như một cô diễn viên gợi cảm, nhưng anh chưa một lần nào nhúng người xuống đó được. Mà đừng nói đến người, ngay cả đến một ngón tay cũng không chọc vào được. Thiết bị lặn mang theo cứ thế ngủ yên trong tủ. Đến đây rồi mới được biết, đập nước hồ Se Ryung không phải là nơi mở cửa tự do. Đó là nguồn cung cấp nước ăn uống sinh hoạt số 1 của bốn thành phố và mười huyện xung quanh. Hồ được bảo vệ nghiêm ngặt bằng hàng rào lưới thép, trong hồ cũng cấm ra vào. Phần núi Se Ryung phía ven hồ là khu vực cấm leo núi. Nông trường Se Ryung trước đây nuôi dê, con đập khởi công là nông trường bị bỏ phế, chuồng trại chuyển thành nơi cư trú cho thú hoang. Vì cả xây dựng hay phá dỡ đều bị cấm. Đường Trong là con đường chạy quanh hồ, đường này cũng bị bỏ hoang tại khu vực xung quanh khu dẫn vào nông trại Se Ryung. Hồ Se Ryung giống như một giếng nước khổng lồ có treo biển “Cấm ra vào” vậy.

Seung Hwan dành thời gian nghiên cứu xem sự khác nhau giữa hồ Se Ryung và hầm chứa phân ngựa là gì. Về phương diện đến đây không phải để chơi, thì bản chất là giống nhau. Về mặt không cần phải thức đêm canh giữ, thì bên hầm phân ngựa khá hơn. Cái giếng nước vĩ đại này, phải thay ca luân phiên canh giữ suốt ngày đêm. Công việc như thế mà thành viên đội bảo vệ chỉ có sáu người. Trong đó, bốn người sống ở nhà số 103. Nhà số 102 thì Seung Hwan ở chung với Đội trưởng mà giờ phải gọi là tiền nhiệm mới đúng. Đội trưởng tiền nhiệm là một tông đồ của Chúa Jesus, ông gắn một tấm biển trước cửa nhà, trên viết “Ngôi nhà tin vào Đức chúa Jesus”, và suốt ngày vùi đầu vào việc truyền đạo. Vì công việc truyền đạo của Đội trưởng, mà Seung Hwan phải suốt ngày đầu tắt mặt tối, dưới mắt treo hai quầng đen y như đeo kính mát hiệu Boeing. Quyển tiểu thuyết viết được ba dòng rồi bỏ dở làm anh sinh bệnh mất ngủ. Cứ nằm xuống thì lại bị cảm giác sốt ruột bao trùm, không biết phải viết gì tiếp theo, nhưng cứ ngồi dậy mở máy tính lên, cơn chóng mặt lại xâm chiếm. Cứ đến đêm là anh lại thấy sợ. Vậy nên, những đêm mất ngủ, anh thường lang thang như một con mèo hoang trong khu rừng quanh khu biệt thự. Ở đó, có đi loanh quanh cả đêm cũng không bị bảo vệ đuổi ra. Chỗ đó ở sâu trong rừng, không một bóng người, camera giám sát cũng không có, vậy nên cũng chẳng cần phải sợ lộ đời sống riêng tư. Thỉnh thoảng, có lúc anh chạm trán những sinh vật đi đêm đang hoạt động. Có khi là ông già quản lý khu vườn ươm, cứ 2 giờ sáng lại say rượu đi lang thang trong rừng, có khi là một con mèo thật, tên là Ernie, hàng đêm lui tới phòng của Se Ryung.

Đã từng có một lần, anh chạm trán Ernie trước cửa sổ phòng cô bé. Con mèo đó thấy anh cũng chẳng tỏ vẻ sợ hãi lắm. Nó nhìn anh chằm chằm bằng đôi mắt đầy vẻ mệt mỏi rất đặc biệt, rồi quay người, soạt một cái đã biến mất về phía cửa lỗ chó. Seung Hwan cũng đi theo. Vừa ra khỏi cửa ngách là thấy hiện ra con đường sau lưng hàng rào, cứ đi men theo đường này sẽ tới con đường ven hồ. Trước lối vào hồ số 1 có gắn lưới chặn rác. Hình như đó là chỗ con đường sau tường rào giao với quãng một phần ba đường ven hồ. Ở đó, Seung Hwan lại gặp lại Ernie. Nhóc mèo đó bước đi thong dong, thoáng ẩn thoáng hiện trong sương. Trạm cuối cùng là khu chuồng trại bỏ hoang ở nông trại Se Ryung. Ở góc chuồng, trong cái lỗ trên sàn nhà rớt mất cả ván sàn, có đặt một hộp gỗ to, trong lòng hộp có trải chiếc chăn mỏng màu hồng. Nhìn bát nước và thức ăn cho vật nuôi kia, có vẻ như có người thỉnh thoảng lui tới. Chắc là Se Ryung, Seung Hwan đoán vậy.

Seung Hwan mở rộng phạm vi hoạt động vượt ra ngoài cái cửa lỗ chó. Lén Đội trưởng tông đồ, trèo ra ngoài cửa sổ phòng mình, đi qua con đường phía sau hàng rào lưới thép và con đường ven hồ, tìm đến ngôi nhà của Ernie... những việc đó giống như con cá Seung Hwan câu được và kéo lên từ cuộc sống thường nhật buồn tẻ ở hồ Se Ryung. Nhưng chỉ một con cá đó thì không thể gọi Nàng Thơ đỏng đảnh tới được. Anh vẫn chả viết được chữ nào. Cảm giác sốt ruột với chứng chóng mặt ngày càng trầm trọng. Cho đến tận sáng hôm qua, Đội trưởng tông đồ được phái đi hồ Choongjoo, anh vẫn chưa thấy được lối ra nào để đột phá thoát khỏi tình trạng bức bối này.

Ngay sau khi Đội trưởng tông đồ đi, Seung Hwan mới bắt đầu bàn giao công việc. Những người làm việc ca ban ngày là chủ nhiệm Park và chủ nhiệm Kim sống bên nhà số 103. Trong lúc bàn giao thì lại nói đến chuyện lễ Vọng hương tế[15]. Lễ tế ở đây cử hành hàng năm kỷ niệm sự kiện làng cũ Se Ryung bị nhấn chìm vào ngày 27 tháng Tám. Trong sự kiện này, người dân làng Đất Trũng làm lễ tế rước từ đường ven hồ hướng ra phía đảo Hansoldeung, lễ tế kéo dài từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối thì

kết thúc.

15. Lễ Vọng hương tế – lễ tưởng nhớ quê cũ, do những người xa quê tổ chức.

“Cái đó đi xem được không ạ?”

Nghe Seung Hwan hỏi, chủ nhiệm Park hỏi lại.

“Sao, định đi à?”

“Nếu có gì hấp dẫn thì cũng có thể đi chứ ạ. Mai được nghỉ mà.”

Chủ nhiệm Park nhìn vào CCTV[16] một lúc, rồi lẩm bẩm như nói một mình.

16. CCTV – Máy quay giám sát an ninh.

“Tôi có cảm giác không tốt về cái hồ đó.”

Seung Hwan nhìn vào màn hình CCTV. Cảm giác không tốt là sao? Sương bắt đầu tan, đảo Hansoldeung hiện lên giữa hồ như một nấm mồ. Ngay giữa hòn đảo hình bán nguyệt, có đúng một cây thông gốc chia làm hai. Seung Hwan hỏi một chuyện mà anh thắc mắc đã lâu.

“Hansoldeung nghĩa là gì vậy ạ? Đỉnh núi chỉ có một cây thông đứng trơ trọi một mình, có phải nghĩa như vậy chăng?”

“Chuyện đó thì tôi không biết, nhưng tôi nghe nói chỗ đó là lưng của làng Se Ryung hồi xưa mà giờ đã bị chìm.”

Chủ nhiệm Park trả lời. Seung Hwan khẽ gật gù.

“Vậy nhưng sao chủ nhiệm lại có cảm giác không tốt về cái hồ?”

“Dưới đáy hồ vẫn còn nguyên làng Se Ryung cũ ngày xưa mà. Có nhà cột cửa còn gắn nguyên biển tên nữa.”

Seung Hwan nuốt khan. Anh thấy tóc sau gáy mình đang dựng ngược lên.

“Ý tôi là, người dân ở đây họ tin như thế. Nghe rồi mới thấy, không phải truyền thuyết gì hoang đường cho lắm. Đập Se Ryung xây dựng xong cách đây hơn mười năm, khi đó, chẳng cho di dời làng, cứ thế xả nước vào. Mà cái làng đấy chỉ lớn sau huyện ở đây thôi đấy.”

“Không có ai thử đi xác minh thực tế ngôi làng thế nào sao?”

“Chắc không có. Không biết nghe được ở đâu, mùa thu năm ngoái, phóng viên Đài truyền hình cũng có đến xác minh thông tin đấy chứ. Lúc ấy, cả vùng náo loạn cả lên. Xe của Đài truyền hình thì bị đập nát bét, Trưởng Ban quản lý đập cho phép quay phim thì bị dân làng Đất trũng đánh cho gần chết, chúng tôi thì vì giúp Ban quản lý mà cũng đâm ra sống dở chết dở.”

“Họ có nói vì sao lại thế không ạ?”

“Trong lễ tế vùng này, người ta cúi lạy rồng thần của ngôi làng dưới nước, rồi khấn khứa. Hồ giống như một thánh địa vậy, người nơi khác đến, vào đó đi tới đi lui khuấy động, họ cứ để yên được sao. Người trong làng có truyền miệng nhau một chuyện. Đấy là nếu hồ Se Ryung bị người nơi khác đến xâm phạm, rồng thần đang ngủ sẽ tỉnh giấc, như thế tai ương sẽ giáng xuống. Khi mới nghe chuyện này, tôi chỉ cười cho qua. Tôi còn nghĩ, mấy người này đội cái bể nước kia trên đầu nên lo nghĩ cũng đủ thứ chuyện thật.”

“Bây giờ anh thay đổi suy nghĩ rồi ạ?”

“Này Seung Hwan. Cậu chưa thấy gã đó lúc mặt trời lặn bao giờ à?”

Chủ nhiệm Park gọi hồ Se Ryung như thể đó là một sinh vật sống vậy.

“Cậu thử nhìn màn hình CCTV sau khi mặt trời lặn khoảng một hai phút xem. Khi đó mặc dù trời nhập nhoạng rồi, nhưng vẫn còn nhìn thấy được. Khi hoàng hôn buông xuống hồ, từ phía dưới đảo Hansoldeung, sương sẽ bắt đầu bốc lên mờ mịt. Từ ống khói những ngôi nhà của ngôi làng chìm dưới nước, khói bốc lên từng cột từng cột cuồn cuộn không dứt. Có lần, đang im lặng ngồi xem, thì tôi nghe thấy trong màn hình vang lên giọng bà lão khàn khàn. Con ơi, về ăn tối.”

Chủ nhiệm Park vừa đưa mắt nhìn màn hình vừa hỏi.

“Nghe điên rồ quá đúng không?”

“Dạ không. Không phải vậy…”

“Tôi ấy, hết giờ làm là không quay nhìn lại đằng sau, cứ thế rời khỏi đây ngay đấy.”

Seung Hwan trở về nhà mà tâm trạng như đang ở trên mây. Vào giường nằm rồi mà anh không sao ngủ được. Anh cũng không có cảm giác mệt mỏi. Trên trần nhà, hiện lên phong cảnh ngôi làng chìm trong nước mà anh chưa một lần nhìn thấy. Tiếng gọi của bà lão mà anh chưa một lần nghe thấy, giờ cũng vang lên bên tai. “Seung Hwan à, ăn cơm với bà nào.”

Trong đầu Seung Hwan ngổn ngang những suy tư xoay quanh chi tiết ăn cơm với bà. Trên cái nền suy nghĩ đó, những mộng tưởng bắt đầu chiếm chỗ. Mộng tưởng rằng không phải anh chọn hồ Se Ryung, mà là hồ Se Ryung đã gọi anh đến đây. Thứ chờ đợi anh không phải Nàng Thơ, mà là Atlantis. Muốn đi ra chỗ đó, trước hết phải vào được khu bến đỗ tàu. Đương nhiên là sẽ phải cần đến chìa khóa cổng bến tàu. Vì đã mang đồ lặn rồi thì không thể làm cái trò leo hàng rào được.

Sáng hôm nay, sau khi kết thúc phiên trực đêm kéo dài hai ngày, lúc tan làm, Seung Hwan đã có trong túi quần bản sao của chiếc chìa khóa cổng vào khu bến tàu. Chìa khóa của mỗi phòng ban, lúc đổi ca là phải bàn giao lại, nên việc lén mượn là không thể. Thà cứ lén đi lên cửa hàng sắt ở khu trung tâm buôn bán, bảo người ta đánh cho một chìa sơ cua còn dễ hơn. Có một vấn đề là, do anh trực đêm một mình nên lúc anh đi ra ngoài, phòng bảo vệ Ban quản lý đập sẽ bị bỏ trống, nhưng Seung Hwan cứ liều mình bỏ qua chi tiết đó.

Vừa đến chiều, Seung Hwan liền trèo lên Đài quan sát ở Trạm dừng chân. Anh dùng bản đồ toàn cảnh con đập, cùng với compa để tham khảo góc độ ước chừng, rồi phác họa lại cảnh bên trong hồ. Anh vẽ tam giác với ba đỉnh là đảo Hansoldeung, bến tàu và tháp lấy nước. Làng Se Ryung xưa nằm quay lưng lại phần chìm trong nước của đỉnh Hansoldeung, trải dài từ khu phụ cận bến tàu cho đến qua khu tháp lấy nước. Theo như Seung Hwan ước lượng, lấy cây cầu phao tại bến tàu làm điểm xuất phát là hợp lý nhất. Sau khi xác định chắc chắn điểm xuống nước, Seung Hwan đi ra xe bán hàng dạo ở Trạm dừng chân, mua dây câu, sơn dạ quang, phao câu và con chì ở lưới đánh cá. Lúc ở ngã rẽ đi xuống Trạm dừng chân, anh nhìn thấy Se Ryung đang đứng ở trạm xe buýt.

Trong lúc đợi đêm xuống, sự tò mò vẩn vơ của anh lại trỗi dậy. Se Ryung làm tiệc sinh nhật với ai nhỉ? Vừa thắc mắc như vậy, anh vừa lấy sơn dạ quang ra sơn lên phao câu và chì lưới, để khô, rồi buộc lên dây câu, cách 50 phân buộc một chiếc. Đấy là dụng cụ dã chiến, dùng để đo độ sâu. Nếu muốn tính được thời gian giảm áp, thì phải biết được độ sâu. Đồng hồ đo độ sâu điện tử được làm theo tiêu chuẩn mực nước biển, không dùng được ở hồ nước ngọt trên cao này. Vì áp suất tuyệt đối ở đây chưa bằng được một nửa so với mực nước biển. Ở hồ Se Ryung, cái dụng cụ đo độ sâu thô thiển này có lẽ còn tốt hơn đồng hồ đo độ sâu điện tử. Thêm vào đó, nó còn đóng thêm vai trò là mốc chỉ đường. Anh định khi tìm ra ngôi làng dưới nước, sẽ thả dây này xuống dọc theo đường lặn. Cái đó là chuẩn bị cho lần lặn tiếp theo vào đêm mai.

Đến tận lúc anh chế xong dụng cụ đo độ sâu, Đội trưởng mới vẫn chưa tới. Để xoa dịu tâm trạng bồn chồn, anh lấy bia mua ở Trạm dừng chân ra uống. Uống cạn hai lon rồi anh mới hiểu ra là mình vừa uống thuốc độc. Anh vừa chống đẩy vừa cố chịu đựng đến 9 giờ, vì cần phải có thời gian để cho bớt hơi cồn. Đêm nay, bằng mọi giá, anh sẽ phải đi qua cái cửa lỗ chó chui kia rồi ra hồ Se Ryung. Anh phải lén trốn người dân làng Đất trũng với người dân khu ký túc, thâm nhập hồ Se Ryung; chỉ có một mình anh, trong khoảng thời gian không có ca trực là hôm nay và ngày mai, phải tìm cho ra Atlantis… nếu như muốn hoàn thành được nhiệm vụ tối thượng – đó là lưu được hình ảnh phong cảnh dưới đó vào máy ảnh, không thiếu một chi tiết nào.

Sau khi ra đến con đường phía sau hàng rào lưới thép, Seung Hwan bật đèn pin gắn trên đầu lên. Mặc dù đã chỉnh lên độ sáng lớn nhất nhưng tầm nhìn vẫn chẳng ra sao. Sương mù quá dày. Loại sương mù cứ cuộn thốc lên từng chập như bão tuyết, loại sương mù đặc hữu của hồ Se Ryung. Rồi lại còn cả mưa cũng bắt đầu rơi ra trò. Đã thế, đến cuối đường thì lại phải tắt đèn. Dưới lối vào hồ số 1 có camera theo dõi. Trước mắt anh giờ hoàn toàn là một màu tối đen như mực.

Seung Hwan lần theo hàng rào lưới thép, men theo đó đi về phía hồ, được chừng 10 phút thì anh đến trước bến tàu. Trong số những khu vực dẫn vào hồ, bến tàu là nơi duy nhất không lắp hàng rào lưới thép, mà lại lắp cổng sắt. Chiều cao cổng tương đương như hàng rào, giữa chân cổng và mặt đường có một khoảng trống khoảng 30 phân. Khoảng trống này được tạo ra do chênh lệch về độ nghiêng giữa mặt đường và lối dẫn vào bến tàu. Ở tay nắm cổng buộc sợi xích sắt to, có tra ổ khóa. Seung Hwan lại bật đèn pin lên, chỉnh về độ sáng thấp nhất. Muốn mở được ổ khóa thì cần phải có ánh sáng. Sau khi vào trong, anh mắc xích và khóa vào phía trong cổng rồi khóa lại. Để phòng khi biết đâu đấy có kẻ phá đám nào đó định vào đây giữa chừng.

Con dốc bê tông dẫn xuống bến tàu dài khoảng 20 mét. Tiếp giáp hai bên con dốc là triền hồ mọc um tùm cây bụi và dây leo. Ở dưới cuối con dốc là cây cầu phao, có buộc một con thuyền gắn biển tên “Josung”. Đập Se Ryung có sử dụng dịch vụ của một công ty xử lý rác thải, con thuyền kia là thuyền kéo xà lan mà công ty đó thường dùng mỗi khi tiến hành vệ sinh định kỳ.

Đứng trước cabin trên thuyền, Seung Hwan cởi ba lô để xuống. Anh lôi dây câu ra, buộc vào góc cầu phao rồi bắt đầu chuẩn bị xuống nước. Lúc anh buộc chân vịt và ngậm ống thở xong, đồng hồ chỉ 9 giờ 30 phút. Seung Hwan vào tư thế đứng rồi nhảy xuống nước. Anh chỉnh độ sáng đèn lặn ở mức cao nhất, rồi vừa lặn xuống, anh vừa nhẹ nhàng thả dây câu sao cho không bị rối. Ở tầng nước biến nhiệt đầu tiên, đập vào mắt là vạch kẻ màu vàng ở trung tâm của một con đường hai làn xe chạy. Thời kỳ cách đây đã lâu, khi người, xe cộ và máy cày máy bừa còn qua lại, nơi đây từng được gọi là đỉnh Núi Đôi. Dòng chảy ngầm ở đỉnh núi có vẻ rất mạnh, nhưng với vùng nước ngọt mà nói, tầm nhìn thế này vẫn khá ổn. Mặc dù không rõ lắm, nhưng có thể đoán được phía dưới con đường là một thung lũng dài. Seung Hwan quấn hờ sợi dây câu quanh gốc cây để không bị nước cuốn đi, sau đó lại tiếp tục lặn xuống. Anh nương theo dòng chảy ngầm, trượt xuống như thể đang làm một cú sliding[17].

17. Một động tác trong bóng chày.

Đến khu vực nước lạnh dần đến mức buốt cả đầu, Seung Hwan liền ngừng lại. Chân anh đã chạm tới mặt thung lũng. Xung quanh tối đen. Trong bóng tối đó, một sự tĩnh lặng bao trùm. Mọi vật đều không còn màu sắc, chỉ có mặt đường phản chiếu ánh đèn lặn, lấp lánh sắc bạc. Phía bên kia bóng tối, lởn vởn bóng dáng ngôi làng cũ đã mất. Tâm trạng Seung Hwan lẫn lộn bao cảm xúc. Vừa sợ hãi, vừa náo nức, còn ngực thì như nghẹn lại. Seung Hwan men theo con đường, bơi vào trong bóng tối.