← Quay lại trang sách

Quy tắc Martini

Một ngày trước tang lễ của cô bé đó, cả ngày tôi cứ hồi hộp không yên. Tôi còn nhớ giờ học tiết thứ 6 còn chán hơn cả tiếng mẹ ca cẩm. Tôi cũng nhớ mỗi lúc ra chơi, tôi lại lượn quanh khu vực bảng tin, rồi nhìn trộm bức tranh của cô bé đó. Chắc trong lòng tôi đã nói thế. Cậu đừng lo về bạn của cậu, mình sẽ chăm sóc nó.

Hết giờ học, tôi về nhà thì không thấy mẹ đâu. Chỉ có một miếng giấy dính trên tủ lạnh.

“Mẹ ra ngân hàng Nông hiệp[37] trên phố. Rửa tay rồi làm bài tập trước đi. Đồ ăn vặt ở trong tủ chén.”

37. Ngân hàng thuộc Liên đoàn hợp tác nông nghiệp quốc gia Hàn Quốc.

“Bài tập con làm xong rồi. Con đi chơi với chú rồi về.”

Tôi cũng viết một miếng giấy như thế rồi lấy cục nam châm tủ lạnh gắn lên. Nếu mẹ gọi điện hỏi, tôi tin chú sẽ tự biết trả lời, vì chú là người đã giúp tôi đến được với Ernie. Chú còn là người đã chỉ cho tôi thấy cửa ngách lỗ chó với con đường phía sau tường rào, chú cũng là người cho tôi thuốc bôi chống muỗi có tác dụng kéo dài tới 7 tiếng đồng hồ.

Tôi lôi sách trong cặp ra, rồi bỏ vào cặp túi thức ăn cho mèo, thuốc muỗi, bình nước và đồ ăn nhẹ mà mẹ để trong tủ. Cái cặp giờ lại đầy chặt, tôi đeo lên người rồi nhảy ra ngoài cửa sổ phòng tôi.

Cửa sổ phòng cô bé đó thường để mở khoảng một gang tay. Mặc dù lưới chống muỗi che kín nhưng chẳng ảnh hưởng gì đến việc nhìn vào bên trong. Vậy nên, cứ có dịp là tôi lại có thói quen ngó vào phòng cô bé đó. Ngày hôm đó cũng vậy, tôi dừng bước trước cửa sổ, nhìn vào bên trong. Lập tức tôi gặp cô bé trong ảnh. Đôi mắt to đen đang chào đón tôi với ánh nhìn lạnh lẽo. Vẻ mặt cô bé như oán hận và trách mắng. Đêm nào cậu cũng núp sau rèm, mình gọi mà cậu cứ giả bộ không biết, phải không.

Tôi quay người, rời khỏi cửa sổ. Tôi muốn ở lại đó lâu hơn, nhưng một cảm giác khó chịu đẩy lưng tôi đi. Cảm giác như có ai ở đằng sau đột nhiên túm chặt gáy tôi vậy. Mỗi lần đứng ở đó, tôi thường có cảm giác ấy.

Tôi tìm thấy ngay cửa ngách. Những mốc chỉ đường khác cũng lần lượt xuất hiện không sai chút nào. Lối ra vào hồ số 1, tháp lấy nước, bến tàu, điểm phong tỏa đường vào hồ, đường dẫn lên nông trại Se Ryung, rừng cây trăn, căn nhà hoang trong nông trại, cây hồng trĩu trịt những quả to bằng quả hồ đào, và tiếp theo là trạm cuối cùng – chuồng gia súc bỏ hoang. Tôi vừa đẩy tung cánh cổng là ánh mặt trời rọi thẳng vào trong, lộ ra bộ mặt màu xám của lối đi bằng bê tông. Hai bên lối đi nối với sàn chuồng. Phía dưới sàn chuồng hứng phân được bịt lại bằng ván gỗ, phía trên sàn chuồng được chặn lại bằng vách ngăn ghép bằng ống sắt rỉ sét. Tôi không nhìn trước nhìn sau, cứ thế đi thẳng vào bên trong. Theo lời chú thì ở góc trong cùng, có một lỗ do ván sàn bị thụt xuống, trong đó là nơi ẩn náu của Ernie.

“Ernie, Ernie.”

Đến trước cái lỗ, tôi thì thầm gọi. Trong lòng, tôi rất muốn bước qua phía sau tấm vách ngăn, nhưng cố gắng kìm lại. Ernie mà giật mình chạy trốn thì hỏng việc. Tôi chỉ mở túi thức ăn rồi lẳng lặng đẩy vào khoảng giữa tấm vách ngăn, rồi đợi. Tôi không phải đợi lâu. Chỉ 30 giây là đủ cho Ernie đi ra khỏi cái lỗ. Theo như cách nói của chú, con mèo đó là “mèo dạn người”. Bề ngoài như mèo hoang, còn tính thì như chó tạp. Là giống mèo mà nếu đối xử tốt với nó, nó sẽ gắn bó chẳng chút nghi ngờ, nếu hứng lên thì nó sẽ đi dạo cùng, hệt như một con chó vậy. Ernie ăn hết chỗ thức ăn xong, liền cọ cọ cằm vào cái ống sắt ở vách ngăn. Như thể phát tín hiệu rằng “Cậu vào nhà tôi được rồi”.

Nhà của Ernie thật khớp với những gì chú kể với tôi. Vừa rộng rãi, vừa chắc chắn, đến mức cả tôi và Ernie cùng vào ngồi cũng được. Nếu có gì mà tôi chưa được nghe kể, thì đấy là trên sàn có trải một cái chăn mỏng màu hồng. Ở mép chăn, có thêu một cái tên bằng chỉ đen, cái tên mà chỉ nghe thôi cũng thấy thót cả tim. Oh Se Ryung.

Tôi bôi đều thuốc chống muỗi lên người, rồi ngồi dựa lưng vào thành hộp. Trời nóng nực, xung quanh đầy mùi hôi hám, nhưng tôi không để ý đến những thứ đó. Tâm trạng tôi vừa háo hức lại vừa bình yên. Cảm giác như được vào ngồi trong phòng của cô bé đó vậy. Tôi như say trong cảm giác dễ chịu đó, nên bắt đầu gà gật. Một lát sau, lấy giấc mơ làm cầu nối, tôi lẻn vào căn phòng thực tế của cô bé ấy.

Cô bé đang nằm ngay ngắn trên giường, và đang ngủ. Mái tóc xõa dài, gò má trắng nhợt, tấm thân trần chỉ mặc chiếc quần nhỏ, bắp chân mảnh dẻ. Đấy là hình ảnh cô bé hàng đêm trốn trong bóng cây bách gọi tôi. Chỉ khác là giờ cô bé đang nhắm mắt, buông xuôi hai tay, nằm im trên giường. Tôi ngồi ghé lên bàn học, nhìn cô bé ấy. Tôi cứ nhìn thật lâu thật lâu, không hề chớp mắt một lần nào, cho đến khi có một bàn tay nào đó làm chao đảo giấc mơ của tôi.

Mở mắt ra, tôi thấy có một người đàn ông đang ngồi trên sàn chuồng. Là bố của cô bé. Tôi giật nảy mình. Trong lòng tôi phần thì thấy bực mình, phần thì thấy trỗi dậy cảm giác đề phòng, và tâm lý đối đầu trong lần gặp đầu tiên giờ đang trở lại. Ông chú này sao lại đến đây chứ?

Ernie lúc nãy nằm ngủ trên đầu gối tôi, giờ không thấy đâu. Chắc ông ta xuất hiện là Ernie trốn đi đâu mất rồi. Thế cũng có nghĩa là nó không thích ông ta.

“Cậu làm gì ở đây thế?”

Người đàn ông hỏi. Tôi bước lên sàn chuồng, đứng trước mặt ông ta.

“Đây đâu phải khu vườn ươm nhà chú đâu, sao chú lại hỏi vậy?”

“Đây là nhà của con mèo con gái tôi nuôi đấy.”

Ông ta nhìn chiếc cặp của tôi để trong cái hộp gỗ rồi cười.

“Ra là cậu mang cả đồ đến đây cơ đấy. Vậy là cậu cũng nhận được lời mời của con mèo đó à?”

Tôi cảm giác như bị chạm đúng điểm yếu. Cảm giác như mình đã xác định là sẽ nhận quả đấm, thì hóa ra lại nhận được cái bắt tay vậy. Có phải trả lời không nhỉ, hay để xem đã, tôi hơi lưỡng lự một lát.

“Sao chú lại đến đây?”

“Trước đây thỉnh thoảng tôi cũng được mời nên đến.”

Ông ta đứng dậy.

“Nãy giờ cậu lăn lê trên cái chăn của con gái tôi mà không biết đấy, đúng không?”

Nụ cười vụt biến mất trên bộ mặt ông ta. Đấy là vẻ mặt mà tôi đã thấy vào lần đầu gặp ở khu vườn ươm. Có thế chứ. Rốt cuộc ông ta đến kiếm chuyện với tôi đây mà. Tôi đút tay vào túi quần, ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào ông ta. Bỗng nhiên ông ta nói một điều mà tôi không hề tính tới.

“Cậu biết mai là đám ma Se Ryung nhà tôi đúng không?”

Biết thì biết, nhưng tôi không đáp.

“10 giờ sáng mai, ở bến tàu, sẽ làm lễ trục vớt hồn Se Ryung từ dưới hồ lên.”

Tôi lặng thinh như muốn hỏi ý ông ta định nói gì.

“Con gái tôi cảm ơn cậu đã chăm sóc bạn nó, nên mời cậu tới. Vì đám ma xong rồi thì cậu khó mà nhìn vào phòng con gái tôi được nữa. Tôi sẽ cho niêm phong cái phòng đó lại.”

Tôi thấy toàn thân mình đỏ bừng từ đầu đến chân. Tôi nhớ lại cái cảm giác ớn lạnh mỗi khi đứng trước cửa sổ căn phòng đó. Và một suy đoán tự động đến theo – chắc ông ta đã đứng đâu đó trong khu rừng theo dõi tôi. Tôi lấy cặp đeo lên người rồi ra khỏi khoảng trống giữa tấm vách ngăn. Tôi cố gắng hết sức để không chạy, cố gắng cứ thế bước trên lối đi của chuồng gia súc. Lúc tôi vừa ra đến cổng, giọng ông ta túm lấy gáy tôi.

“Cậu sẽ đến chứ?”

Tôi hơi ngần ngừ một chút, quay lại nhìn ông ta.

“Với lại tôi mong chuyện này chỉ chúng ta biết với nhau thôi.”

Tôi nhận lời mời. Tôi giữ bí mật với cả chú Seung Hwan. Khi ấy, tôi chỉ nghĩ là tình cờ thôi. Phải đến lúc này đây, khi tôi ngồi đọc cuốn tiểu thuyết chú viết, tôi mới biết được cuộc gặp ngày hôm đó là ý đồ của Young Je. Ông ta lợi dụng đứa con gái đã chết và lợi dụng tôi để động đến bố. Điều chưa rõ ở đây, đó là mục đích của ý đồ đó là gì. Chỉ đơn thuần để hành hạ bố, hay để bài binh bố trận cho những hành động tiếp theo?

Ngoài chuyện đó ra, còn vô số nghi vấn cứ nối đuôi nhau hiện ra. Cảnh sát hình sự đến tìm mẹ có việc gì, “hai thứ” mà Oh Young Je nhờ cánh “Supporters” tìm hiểu là gì, cái bóng ma đang rình rập giữa giếng nước và bố là gì, lý do nào khiến bố căng thẳng lo nghĩ chuyện giữ đôi giày của tôi như vậy.

Câu trả lời nằm trong phần còn lại của tiểu thuyết, nhưng tôi không muốn đọc nữa. Càng đọc bệnh tò mò sẽ càng nặng hơn thôi. Sao chú lại viết cuốn tiểu thuyết này? Để có một tác phẩm để đời ư? Cứ nhìn vào chi tiết tất cả các nhân vật, thậm chí đến cả bản thân chú trong truyện cũng đều dùng tên thật, thì chắc không phải mục đích đó. Hay để cho tôi đọc? Còn gì để đọc nữa chứ? “Sự thật” ư? Đừng nói đến sự thật, ngay cả việc từ đoạn nào đến đoạn nào là thực, tôi cũng chẳng thể biết được. Tôi cũng không biết chú tìm ra được những câu chuyện ẩn giấu đằng sau những sự kiện thực tế đó bằng cách nào. Đặc biệt những trang về Oh Young Je thì gần như không tưởng. Những trang về bố mẹ thì là những phần có thể thu thập thông tin được. Các cô chú, dì Young Joo, cậu. Nếu bố đích thân mở miệng thì không cần gì phải nói thêm. Nhưng Oh Young Je lại khác. Rốt cuộc ai là người có thể nói ra cả nội tâm của y chứ? Đương sự và đứa con gái đã chết rồi. Nếu dựa trên cuốn tiểu thuyết, vợ của y khi đó không còn ở hồ Se Ryung nữa. Cũng không xuất hiện ở tang lễ của con gái. Hay chú đã đến gặp cả ma quỷ rồi?

Được rồi. Cứ coi như vậy đi. Cứ coi như chấp chú một trăm lần là ma quỷ nói cho chú biết đi. Nhưng nếu như chẳng thể đảo ngược được tình thế rằng những gì bố gây ra là “sự thật”, nếu như đó là sự thật không thể nào lay chuyển được, thì những thứ như mấy câu chuyện bị che giấu đó có ý nghĩa gì chứ?

Thay vì mở sang trang tiếp của cuốn tiểu thuyết, tôi mở cuốn sổ cắt dán ra xem. Bên trong là những bài viết của nhật báo thời đó được dán theo trình tự thời gian. Những bài báo đó lần đầu tiên tôi thấy. Nhưng không có bài báo nào viết khác tờ Sunday Magazine. Trừ những bài báo đề cập đến mẹ và Oh Young Je.

Bốn ngày sau khi xảy ra thảm kịch, người ta tìm thấy xác mẹ ở đập cửa sông Se Ryung, cách hồ Se Ryung khoảng 60 cây số. Lý do tử vong là tổn thương vùng đầu. Theo như bài báo, sau khi đập vào đầu khiến mẹ chết ngay lập tức, bố đã ném xác mẹ từ cầu số 2 xuống. Giống như đã vặn cổ đứa bé đó rồi ném xuống hồ vậy. Cảnh sát cho rằng bố cũng dùng cùng một hung khí đó để sát hại Oh Young Je. Lúc bố bị bắt, ở hiện trường có một chiếc dùi cui dính máu của cả ba người – Oh Young Je, chú và bố. Bố bị bắt trong trạng thái không còn biết gì nữa. Bài báo viết bố lập tức được đưa đến bệnh viện, nhưng tính mạng trong tình trạng rất nguy kịch. Cổ tay phải bị gãy xương hở và tổn thương cơ gân, gãy xương mũi, gãy lõm xương hàm dưới và mất răng, thậm chí còn bị cả nhiễm trùng máu vì vết thương hở mà bố bị trên mu bàn chân hai ngày trước khi xảy ra vụ việc. Bài báo kết thúc với thông tin rằng cảnh sát đang tập trung lực lượng vào việc tìm kiếm thi thể Oh Young Je.

Phía sau cuốn sổ đầy những bài báo, bài báo viết về bố nằm trong phòng bệnh nhân nặng tới ngày thứ 10, bài báo viết bố đã vượt qua cơn nguy kịch thứ hai, mới vừa tỉnh lại, bài báo hôm bố ra viện và được áp giải về phòng giam, và những bài báo xuyên suốt quá trình xét xử sau này. Đến tận trang cuối, cũng không thấy bài báo nào nói đã tìm được xác của Oh Young Je. Nếu như chú sưu tập đầy đủ không thiếu một bài báo nào, thì Oh Young Je không phải người đã chết, mà là người đang mất tích mà thôi.

Tôi gập quyển sổ lại, rồi lục xem bó thư. Tất cả đều được gửi đến từ hộp thư cá nhân ở bưu điện Haenam. Nơi gửi là Amiens[38], Pháp, người gửi là Moon Ha Young. Tôi có thấy cái tên này trong tiểu thuyết của chú. Đó là vợ của Oh Young Je, là đối tượng chẳng có chút liên quan gì đến chú. Tôi dần cảm thấy như đang rơi vào một cơn hỗn loạn. Sao người phụ nữ này lại viết thư cho chú? Lại còn viết tới 9 lá thư.

38. Một thành phố phía Bắc nước Pháp, cách Paris 120 km.

Tôi giở bức thư thứ nhất ra.

Mấy ngày nay, tôi không ngủ được. Để khỏi làm In Ah thức giấc, tôi rón rén đi ra, đứng dưới gốc táo ngoài sân. Thấy tôi như vậy, In Ah nhìn tôi đầy vẻ bất an. Ánh mắt như muốn hỏi tôi có điều gì trăn trở trong lòng hay sao. Hôm qua, cô ấy mới nói với tôi thế này.

“Ha Young à. Cậu muốn nói gì thì cứ nói đi. Nói gì cũng được, chẳng phải vì ai khác, mà vì chính cậu ấy.”

“Mình biết rồi.” Tôi trả lời.

Sau khi vụ việc đó xảy ra, tôi chưa bao giờ mở miệng kể về chuyện con gái tôi. Lý do là vì tôi biết rằng, chuyện đó giống như nước bị chặn trong đập vậy, nếu có một lối thoát ra, nó sẽ nhanh chóng phá tung bờ và dìm tôi chìm nghỉm. Vậy nhưng tôi vẫn quyết định sẽ nói ra.

Tôi tự hỏi mình biết nói gì bây giờ. Khi đó, tôi đã không ở bên cạnh con gái mình, cũng chẳng giúp được gì cho con. Tôi còn chẳng biết đã có chuyện gì xảy ra với con. Phải đến tận khi chẳng còn cứu vãn được nữa, tôi mới biết con đã chết. Chẳng hề biết con gái mình phải đương đầu với số mệnh ra sao, người làm mẹ như tôi khi đó đang chuẩn bị đi Casablanca để gia hạn lưu trú ở Pháp. Tôi đứng đợi trên bến cảng nơi đất khách quê người xa lạ, bị bủa vây trong những tổn thương và đau đớn mà cuộc đời dành cho mình.

Tôi nghe tin về con gái sau khi đám tang đã xong xuôi. Tôi ăn không nuốt trôi, ngủ không yên giấc. Con bé đã cô đơn biết bao nhiêu, đã sợ hãi biết bao nhiêu, đã đau đớn biết bao nhiêu. Cứ nghĩ đến đó, tôi lại thấy việc mình còn sống giống như một tội ác khủng khiếp. Sau mấy lần mang ý định tự tử không thành, khó khăn lắm tôi mới tìm ra được cách sống cho mình. Nỗi dày vò tự trách mình đang siết chặt lấy cổ tôi, tôi sẽ che lấp hết bằng sự giận dữ và ghét bỏ đối với đứa con gái đã chết của mình. Mặc dù tôi biết điều đó đang dần dần tàn phá cõi lòng.

Bức thư đầu tiên anh gửi cho tôi cũng đem đến cho tôi một sự phẫn nộ như vậy. Tôi đã kết luận anh đúng là một kẻ vô liêm sỉ. Anh nói anh là nhà văn, anh nói anh đang viết tiểu thuyết về vụ việc đó, anh yêu cầu tôi kể chuyện về con gái, về bản thân và về chồng tôi. Mặt khác, tôi cũng thấy hoảng sợ. Chồng tôi còn chẳng biết địa chỉ của tôi, vậy mà anh lại biết được, liệu anh có phải là tay chân của chồng tôi không, liệu đây có phải âm mưu hòng gọi tôi về của chồng tôi không.

Nghĩ là biết đâu đấy, nên tôi thử liên lạc với nhà bố mẹ đẻ. Bố tôi nói đã cho anh biết địa chỉ. Bố tôi bảo đấy là người trước đây đã giữ gìn di vật của con gái tôi rồi mang đến giao lại cho ông ngoại. Ông cụ thấy lo lắng nhưng không giận dữ. Ông cụ cho rằng, bất cứ ai, nếu đã là người có lòng tốt với con gái tôi, thì sẽ không thể thất lễ với tôi như thế này được.

Bưu phẩm anh gửi lần thứ hai, tôi đọc xong liền rơi vào cơn hỗn loạn khủng khiếp. Trong tập bản thảo dang dở còn nóng nguyên như vụ thảm kịch đó, chứa đựng những sự thật tàn nhẫn mà tôi không hề hay biết. Tại sao con người này lại viết câu chuyện này, tại sao phải dày vò mình đến mức này, tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại. Anh ta muốn kiếm tiền ư? Hay anh ta định tìm kiếm chút danh tiếng là nhà văn? Hay anh ta ôm tham vọng nói ra hết chân tướng sự thật mà chẳng ai muốn biết – sự thật mà cả thế gian không ai hay đó? Bản thảo đó có đem đốt sạch, thì những câu chữ cũng chẳng thể nào biến mất. Những gì con gái tôi phải trải qua hiện lên rõ mồn một như thể sự việc đã xảy ra trước mắt tôi vậy. Hình ảnh cuối cùng của con tôi đã quăng thẳng tôi xuống địa ngục. Tôi thấy căm ghét anh. Tôi quyết định rằng, nếu như anh lại gửi thư đến, khi đó tôi sẽ không thèm mở ra rồi cứ thế đốt luôn cho rồi.

Anh quả thật là một người rất có đầu óc. Khi đó, lá thư thứ ba anh gửi vừa đến. Trên phong bì bên ngoài có dán một tấm ảnh nhỏ, vừa nhìn thấy, tôi đã nghĩ, không lẽ từ bờ bên kia Thái Bình Dương, anh lại có thể đọc được tâm trạng của tôi sao. Bức ảnh đó, tôi không thể nào xé bỏ, cũng không thể nào đem đốt được. Địa điểm trong ảnh là nơi đã quá quen thuộc với tôi, là nơi mà mỗi khi nghĩ đến con, nơi đó lại hiện lên. Con đường mù sương trước khu biệt thự, cột đèn đường, hàng cây trắc bá. Sánh bước bên nhau đi về phía trục đường chính là một người đàn ông và một cậu bé, vừa nhìn có thể biết ngay là bố và con trai, nhìn hình dáng phía sau của họ, rốt cuộc đã khiến tôi phải mở lá thư ra.

Anh đã nói rằng đứa bé đó là con của người đàn ông đó.

Anh đã nói rằng đứa bé đã rơi xuống điểm tận cùng của thế giới.

Anh đã nói rằng muốn cho đứa bé đó biết sự thật.

Anh đã nói rằng muốn giải thoát cho nó.

Tôi đã nghĩ rằng không được. Tôi nghĩ không thể chấp nhận được chuyện này. Tôi nghĩ đáng ra nó phải rơi luôn xuống nơi khủng khiếp hơn cả nơi tận cùng thế giới cho rồi. Tôi nghĩ phải lấy dây thừng treo cổ nó lên vách đá thật lâu thật lâu, cho nó sống ở đó nếm mùi đau khổ. Giống như tôi đang sống đây này…

Đêm qua, tôi cũng đứng dưới gốc cây táo. Tôi cứ đứng bất động nhìn vào bóng đêm, cho đến tận khi trời sáng. Trong bóng đêm, tôi thấy một thằng bé. Thằng bé trạc tuổi con tôi, tôi chưa thấy nó bao giờ, thậm chí còn chẳng biết đến sự tồn tại của nó trên đời này, hình ảnh nó cũng chẳng khác gì con tôi. Trông nó như sắp bị giết chết, nhưng không phải trong tay một người, mà trong bàn tay của cả thế gian này. Cùng với tờ tuần báo Sunday Magazine là biết bao lần chuyển trường lặp đi lặp lại, và cuối cùng phải thôi học. Tôi thấy bàn tay tàn nhẫn của người đàn ông đang đẩy thằng bé xuống nơi tận cùng thế giới. Tôi thấy những bàn tay của những lời nguyền rủa, của sự kết án và phẫn nộ đang siết chặt lấy cổ thằng bé. Trong đó, có cả bàn tay của tôi.

Tôi viết thư này như một hình thức trả lời cho câu hỏi của anh. Có một điều mà tôi phải nói trước với anh.

Tôi sống với chồng 12 năm qua. Điều đó có nghĩa là chồng tôi hiểu tôi thế nào, thì tôi cũng biết rõ chồng tôi như vậy. Nhưng theo quan điểm của tôi, có lẽ kể chuyện về chồng mình cũng không giúp ích được gì nhiều. Vì rõ ràng tôi sẽ bảo vệ lập trường của mình trước tiên. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi quyết định sẽ vào vai chồng tôi, mượn lời chồng tôi để nói chuyện. Từ bây giờ, người mà anh đặt câu hỏi sẽ không phải là Moon Ha Young, mà là Oh Young Je. Ngược lại, mong anh cũng hiểu rằng, anh đang nhận được câu trả lời không phải của tôi, mà là của Oh Young Je.

Có một điều tôi muốn nhờ anh. Khi cuốn tiểu thuyết hoàn thành, anh hãy gửi cho tôi một bản. Tôi cũng muốn biết sự thật.

In Ah đang gọi tôi xuống ăn sáng dưới lầu.

Tôi phải dừng bút ở đây.

Moon Ha Young kính thư.

Tôi cho lá thư vào lại trong phong bì. Trên phong bì đề ngày gửi là 20 tháng 1 năm nay. Tôi không xem những lá thư còn lại. Tôi sợ. Sau bao năm tháng đã trôi qua, tôi thấy sợ khi nỗi buồn của người phụ nữ hiện ra trước mắt tôi, tôi sợ sự cảm thương và bao dung không thể nào lý giải nổi mà người đó dành cho tôi. Tôi muốn nói, đừng cảm thông, đừng bao dung với tôi. Tôi không có gì cho cô đâu.

Tâm trạng tôi như chạm trúng phải dòng nước mắt của vô số người mất mạng mà tôi đã cố tình lẩn tránh. Để tránh dòng nước mắt đó, tôi ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi nhìn chằm chằm thật lâu vào ô cửa sổ mờ đục bám đầy hơi muối và bụi. Trong lòng tôi cảm thấy thật thần kỳ – qua ô cửa bẩn thỉu kia, tôi đã nhìn trời, nhìn mây, nhìn trăng, nhìn sao băng, nhìn những dòng nước mưa, nhìn bão tuyết, nhìn biển, nhìn ngọn hải đăng. Đột nhiên, tôi cảm thấy đói bụng.

Tôi xuống bếp, đổ nước vào nồi rồi bắc lên bếp ga. Mở chạn rồi tôi đứng cân nhắc một lúc. Lấy cái gì ra bây giờ nhỉ. Tôi thấy có một chiếc khăn lau đã khô cong, còn giữ nguyên hình dáng lúc bị vắt. Chắc nó ở đó ít ra cũng từ ba tháng trước. Kể từ đầu mùa thu vừa rồi, khi Hội trưởng Hội phụ nữ – vợ của Hội trưởng Hội thanh niên – qua đời.

Tôi cầm chiếc khăn lên rồi đi ra ngoài cổng chính. Tôi đứng trong cơn gió, lau chùi ô cửa kính trên cửa sổ phòng tôi. Dưới chiếc khăn, lớp bụi muối bị cọ bong ra soàn soạt. Lớp kính càng lúc càng bẩn hơn. Tâm trí tôi cũng dần dần trở nên mờ mịt. Vậy là Oh Young Je còn sống sao? Dường như Moon Ha Young tin như vậy. Liệu đó có phải là niềm tin có căn cứ? Liệu có phải niềm tin đó xuất phát từ một niềm tin khác – niềm tin rằng không có lý gì y lại chết? Liệu có phải chú đã biết người truy đuổi tôi là Oh Young Je? Lá thư của Moon Ha Young có vẻ như vậy. Chú biết từ khi nào nhỉ? Sao Oh Young Je lại không hủy hoại tôi? Nếu nói về cơ hội thì thời gian qua có vô số cơ hội để y làm thế, vậy lý do gì y lại ngừng việc đẩy tôi ra khỏi thế giới này?

“Cháu ơi.”

Nghe tiếng gọi, tôi ngừng tay. Hội trưởng Hội thanh niên đang đứng trước cổng.

“Giờ còn đứng đó làm gì thế hả? Nồi còn đặt trên bếp kìa.”

Đến lúc đó tôi mới nghĩ ra. Thứ tôi định lấy ở trong chạn ra không phải chiếc khăn lau này, mà là mỳ gói.

“Cháy nồi rồi ạ?”

“Chỉ có cái nồi cháy thôi chắc, cái thằng khốn khổ này. Ông đang ngủ thì thấy có gì là lạ, may mà ông dậy ra ngoài xem, nếu không suýt nữa đã nướng chín cả cái nhà này rồi.”

Tôi quay vào phòng, đã quên mất cơn đói từ lâu. Tôi cũng quên mất mình ra khỏi phòng để làm gì. Theo thói quen, tôi ngồi xuống trước bàn, cứ thế nhìn màn hình máy tính đang mở. Trên cửa sổ USB, hiện lên hai folder nằm cạnh nhau.

“Hồ Se Ryung.”

“Tư liệu.”

Tôi mở folder “Tư liệu”. Trên cùng hiện ra file phim có tên là “Atlantis”. Phía dưới là một loạt file MP3. Tôi mở file đánh số 1. Sau một đoạn tạp âm, thì vang lên một giọng nam trầm nặng nề.

“Điều làm tôi vui nhất là khi tưởng tượng Seo Won đã lớn lên như thế nào. Ảnh cậu Seung Hwan gửi mỗi dịp sinh nhật thằng bé, tôi dán đầy lên tường. Càng nhìn càng thấy thật thần kỳ. Đến tận lúc 15 tuổi nó vẫn là một cậu bé, vậy mà lên 16 tuổi một cái nó vọt lên thành một cậu thanh niên. Nếu lúc nào cũng ở bên cạnh con, có lẽ tôi đã chẳng thể chứng kiến cú nhảy vọt tựa một phép màu đó. Đến tận bây giờ, tôi như vẫn còn thấy trước mắt tôi hình ảnh thằng bé hôm nhập học ở trường Tiểu học. Trong hàng trăm đứa trẻ tập trung ở hội trường, không có đứa bé nào có tư chất như Seo Won của tôi. Tôi đã cảm thấy kiêu hãnh biết bao, tôi định sau này khi nó đã thành một người đàn ông, nhất định phải nói cho nó biết…”

Tôi thất thần tắt file đó đi. Ngón tay tôi run bần bật. Giọng nói này, tôi đã cố hết sức mình để quên đi. Giọng nói mà dường như tôi đã thực sự quên. Vì phải nghe một lúc tôi mới nhận ra đó là ai. Có khi đó cũng là chuyện đương nhiên. Vì giọng nói cuối cùng của bố mà tôi còn nhớ là tiếng gọi “Seo Won à” trong điện thoại.

Tôi tắt máy tính đi. Tôi không muốn nghe giọng nói đó nữa. Tôi cũng không muốn đọc bản thảo cuốn tiểu thuyết. Nếu nói vì quá đau đớn khi phải thừa nhận những việc bố đã gây ra, thì đó là nói dối. Điều làm tôi đau đớn chính là bản thân bố. Người đó không còn là người khổng lồ trong ký ức của tôi nữa. Đấy là một kẻ nhát gan ngu ngốc và yếu đuối. Tôi ghét phải đối diện với người đàn ông nhỏ bé và khó coi đó. Cuộc đời thê thảm của người đàn ông mang tên Choi Hyun Soo khiến tôi nghẹt thở. Vậy nhưng mặc dù file đã đóng rồi, máy tính đã tắt rồi, giọng của người đàn ông đó vẫn không thể nào tắt đi được.

“Seo Won à.”

Tôi ngồi quay lưng lại bàn, mở cửa tủ lạnh ra. Tôi cứ giữ cánh cửa tủ lạnh và ngồi im đó. Tôi lại quên mất mình định lấy gì. Chỉ vì giọng nói đó.

“Seo Won à.”

Tôi đóng tủ lạnh lại, vào ngồi trong góc phòng. Bên ngoài, gió đang ầm ầm thổi. Trong tiếng gió, người đó đang gọi.

“Seo Won à.”

Tôi cứ tưởng mình sẽ không còn hoang mang nữa. Tôi cứ tưởng sẽ chẳng còn việc gì để hoang mang nữa. Nhưng không phải. Cứ nghe giọng nói ấy từ phía trước lao thẳng về phía mình, là tôi lại hệt như một đứa bé ngu dại, không biết phải làm sao. Tôi muốn ra ngoài kia, túm lấy bất cứ ai mà hỏi – Tôi phải làm sao đây? Phải làm thế nào để cho giọng nói kia dừng lại đây?