Chương 14
Tôi dậy rất sớm sau giấc ngủ chập chờn, chuẩn bị đồ đạc, bỏ vào ba lô và đi đến tiệm Old Devils. Tôi không thể ngừng nghĩ về anh ta, đương nhiên rồi. Tôi thấy rằng mình nên gán cho người này một cái tên chính thức thay cho cách gọi cái bóng của tôi như từ trước đến nay, nghe nó giống nhân vật truyện tranh quá. Tôi nghĩ mình sẽ lấy tên Charlie - cái tên mà tôi và Gwen cùng nghĩ ra. Charlie, cũng được đấy.
Sau khi tôi mở khóa cửa chính, Nero thò đầu ra khỏi ô cửa dành cho mèo dẫn xuống tầng hầm. Thỉnh thoảng nó sẽ chui xuống đó ngủ cho gần lò sưởi nhưng chỉ khi xung quanh không có người thôi. Nó nằm phịch xuống và lăn ra trước mặt tôi, tôi cúi xuống xoa bụng và gãi cắm cho nó. Có lẽ sẽ có một lúc nào đó khi Nero vươn người làm nũng, tôi sẽ thôi nhớ tới thi thể bê bết máu của Norman Chaney, nhưng ngày đó vẫn chưa tới.
Tôi mở máy tính lên và kiểm tra email, sau đó gửi nhanh một bức thư cho Brandon xem cậu ta có thể giúp tôi đóng cửa sau khi tan ca hay không. Tôi biết là kiểu gì cậu ta cũng làm thôi nhưng muốn chắc chắn một chút. Hôm nay là Chủ Nhật, vẫn còn sớm nên tôi không nghĩ là mình sẽ nhận được thư phản hồi ngay đâu.
Tôi ngồi uống cà phê và tiếp tục suy nghĩ về kế hoạch của mình cho sáng nay. Tầm chín giờ, hoặc tám rưỡi có vẻ là lúc phù hợp để gọi điện cho Marty Kingship - một cựu sĩ quan cảnh sát mà tôi quen, giờ đang làm cố vấn an ninh bán thời gian cho mấy khách sạn hạng sang ở khu trung tâm. Tôi gặp Marty tầm ba năm trước khi anh ấy đến tham dự buổi ký tặng sách của Dennis Lehane. Khi tác giả đã rời đi rồi anh ấy vẫn ở lại khá lâu và hỏi nhiều điều về truyện trinh thám, bảo rằng mình cũng muốn viết truyện dựa vào quãng thời gian trong ngành. Tối hôm đó lúc rời đi, anh ấy rủ tôi thỉnh thoảng đi làm vài ly. Tôi đồng ý và càng ngạc nhiên hơn khi Marty ngay lập tức đề nghị thời gian và địa điểm: một quán rượu tên là Marliave nằm bên cạnh công viên trung tâm vào tối thứ năm lúc tám giờ.
Tôi chưa từng đến chỗ đó bao giờ, quán Marliave, nằm khuất trong con phố nhánh gần khu mua sắm Downtown Crossing. Đi qua lối vào chật hẹp là một quán rượu lát gạch vuông mang phong cách Pháp - không giống nơi một cựu sỹ quan sẽ muốn ngồi uống. Marty Kingship ngồi ngay trên quầy và nói chuyện với người pha chế. Anh ấy trông khá kinh ngạc khi tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, như thể đã quên mất cuộc hẹn của chúng tôi rồi vậy.
“Cậu đến thật hả?” Anh ấy hỏi.
“Dĩ nhiên rồi.”
“Cậu muốn uống gì nào? Tôi đang làm một chai bia Miller Lite nhưng anh chàng Robert đây” - anh ấy nói đến người pha chế - “nói rằng khẩu vị của tôi chả ra sao cả.”
Tôi gọi một vại bia Hefeweizen. Marty cũng gọi thêm một ly bia nữa cùng một ít đồ ăn - món sên escargot và một đĩa bánh kẹp thịt viên.
Tôi chưa bao giờ giỏi kết bạn cả. Đôi khi tôi cho rằng đó là do tôi là con một, bố mẹ tôi (trừ lúc say) cũng không phải người quảng giao. Nhưng có lẽ vấn đề nằm sâu hơn thế, tôi không có khả năng kết nối một cách chân thành với mọi người. Tôi càng nói chuyện với ai lâu thì tôi càng cảm thấy xa cách hơn. Tôi có thể cảm thấy thân thiết với một du khách lớn tuổi người Đức đến tiệm của mình trong mười phút và mua một cuốn tiểu thuyết cũ của Simon Brett nhưng cảm giác đó sẽ nhạt dần. Cứ như thể khi tôi bắt đầu hiểu ai thì hào quang của họ cũng dần lụi tắt, giống như giữa tôi và họ có một bức vách ngăn bằng kính mờ ngày càng dày thêm. Càng hiểu về họ, tôi càng khó nhìn nhận và lắng nghe một cách ý nghĩa và sâu sắc. Đương nhiên có những ngoại lệ, như Claire là một, hoặc cậu bạn thân của tôi hồi trung học tên Lawrence Thibaud là hai - cậu ấy đã chuyển đến Brazil hồi cuối năm lớp tám. Đương nhiên cả những nhân vật trong truyện và thơ cũng là ngoại lệ, tôi càng đọc càng thấy thích họ.
Marty - tôi gặp anh ấy lần đầu tiên khi đang tìm kiếm bạn bè, và có một thời gian tôi cố gắng làm tốt vai trò đó. Anh ấy từng là sỹ quan cảnh sát ở vùng tây Mass nhưng rời khỏi ngành không lâu sau khi các con bỏ nhà đi và vợ anh ký đơn ly dị. Anh ấy chuyển tới một căn hộ nhỏ một phòng ngủ gần quảng trường Dudley và tự coi như mình đã nghỉ hưu sớm, dù thỉnh thoảng vẫn làm mấy công việc liên quan tới an ninh. Marty đang viết dàn ý cho một cuốn tiểu thuyết trinh thám nhưng tôi khá chắc rằng anh ấy sẽ không bao giờ hoàn thành nó. Marty là một người vui tính, cũng thông minh hơn rất nhiều so với mái đầu đinh, cái mũi gãy và thân hình quả lê bên ngoài. Anh ấy dễ dàng đọc được năm cuốn sách mỗi tuần và có một thời gian thường xuyên đến tiệm sách sát giờ đóng cửa để mua thêm vài đầu sách mới trước khi chúng tôi dắt nhau đi đâu đó làm vài ly. Anh ấy luôn có chuyện để kể, hoặc những câu đùa vui vui. Chúng tôi không bao giờ thiếu cái để nói với nhau. Ban đầu mọi thứ đều đâu vào đó nhưng giống như mọi mối quan hệ khác của tôi, một thời gian sau tôi cảm thấy giữa chúng tôi có một bức tường, nhưng thể chúng tôi đã đạt tới giới hạn tự nhiên của tình bạn và nó sẽ không bao giờ tiếp tục phát triển thêm nữa. Bây giờ tôi và Marty chỉ thỉnh thoảng tụ tập ăn uống vào dịp Giáng Sinh mà thôi.
Tôi không biết liệu Marty có giúp tôi không, nhưng thử thì cũng không mất gì. Anh ấy có cả thời gian và tài nguyên để tìm ra thông tin về Norman Chaney. Mạo hiểm thật đó, nhưng đây là rủi ro tôi cần chấp nhận. Charlie, dù là ai đi nữa, cũng mong muốn Norman Chaney phải chết, tôi cũng biết rằng anh ta không muốn tự mình làm điều đó. Điều này cho thấy Charlie hẳn là người nằm trong diện tình nghi của cảnh sát trong vụ án năm ấy.
Tôi gọi cho Marty vào lúc chín giờ.
“Ô chào người lạ.” Anh ấy nói.
“Tôi đánh thức anh hả?”
“Không, vừa mới tắm xong thôi. Mất bà nó tầm hai mươi phút mới làm cho mảnh xà phòng cũ dính vào bánh mới đây này. Chắc là tôi mua nhầm loại khác nên tụi nó chả dính được vào nhau. Mà có phải là mua hai màu khác hẳn nhau đâu chứ, trông màu giống hệt mà sao lại kị nhau thế không biết. Tôi nghĩ là vì thế nên cậu mới gọi hà? Để xem tôi tắm rửa như nào đúng không?”
“Không hẳn. Nhưng giả thuyết đó không tệ đâu, cuộc sống của anh có vẻ bận rộn ghê nhỉ?”
“Ờ, thực ra là đúng, Cindy sẽ đến và ở đây vào kỳ nghỉ xuân. Thật luôn, không đùa, con bé hình như cảm nắng thằng ranh nào đó ở đại học Boston. Ít nhất cuộc sống vẫn có gì đó đáng để mong đợi nhỉ.”
Cindy là con gái của Marty, là thành viên duy nhất trong gia đình còn giữ liên lạc với anh ấy.
“Ồ tin tốt đấy. Marty này, thực ra tôi cần nhờ anh một việc.”
“Ồ, vụ gì thế?”
“Nếu như nó là một việc gì đó ngoài khả năng, hoặc cảm thấy không ổn thì cứ nói nhé, cũng không phải cái gì quan trọng lắm đâu.”
“Cậu cần tôi giết ai à?” Anh ấy bật cười.
“Không, nhưng thực ra tôi cần thông tin của một người đã bị sát hại. Anh làm được không, với đầu mối liên lạc của một cựu cảnh sát?”
“Kiểu thông tin như thế nào?”
“Chuyện bí mật giữa hai ta thôi nhé.” Tôi nói. “Anh không thể kể cho ai khác đâu.”
“Không vấn đề gì, cậu gặp rắc rối à?”
“Không, không” Trong lúc nói chuyện, tôi dần nhận ra rằng tôi sẽ cần một vài lý do cho những điều mình đang hỏi. Tôi quyết định bịa ra một câu chuyện dựa trên một phần sự thật.
“Bên FBI liên lạc với tôi nhờ trợ giúp điều tra một vụ án cũ, một người đàn ông ở New Hampshire bị sát hại tầm bốn năm trước. Norman Chaney. C-H-A-N-E-Y. Họ không nói hết mọi thông tin nhưng có vẻ là ông ta có rất nhiều sách từ tiệm này và họ nghĩ là có thể có liên hệ nào đó ở đây.”
“Mối liên hệ kiểu gì?”
“Họ có nói đâu mà biết. Chỉ là... tôi bị vụ này làm cho quay cuồng nên mới hỏi xem liệu anh có thể ngó qua một chút giúp tôi xem có thể tìm hiểu được gì về gã này hay không. Tôi cho rằng họ không tiết lộ hết toàn bộ câu chuyện, rằng có thể nó có gì đó liên quan đến Claire hay đại loại như thế.”
“Ừ thì tôi có thể nhờ vả vài người, được chứ.” Marty nói, giọng có vẻ bối rối. “Chắc là không có gì đâu Mal. Thỉnh thoảng sẽ có những người được giao mấy vụ án treo từ lâu rồi xem có manh mối nào bị bỏ sót hay không, như kiểu sách của nạn nhân được mua từ đâu chẳng hạn và quyết định điều tra thử xem. Kiểu chết đuối vớ cọng rơm thôi. Cậu bảo rằng bên FBI đến tìm cậu hả?”
“Đúng thế. Kỳ lạ ghê nhỉ?”
“Đừng lo lắng. Để tôi gọi thử xem. Chắc là không có gì đâu.”
“Cảm ơn nhiều, Marty”
“Dạo này cậu ổn không?”
“Cũng bình thường, mua sách, bán sách thôi.”
“Thế thì đi làm cốc bia đi, tôi sẽ gọi lại cho cậu khi tìm được thông tin gì đó về gã Donald Chaney này nhé, lúc đó thì gặp nhau.
"Norman Chaney.”
“Ừ, ừ, Norman Chaney.”
“Ừ. Cứ vậy đi.” Tôi nói. “Đi làm vài ly.”
Tôi cúp máy. Xong xuôi đâu đó tôi mới nhận ra rằng từ nãy đến giờ mình gồng cứng hai vai, quai hàm ê ẩm. Norman Chaney là cái tên tôi đã cố quên hàng năm trời rồi. Chỉ nói ra mồm thôi cũng làm cơ thể tôi căng thẳng. Tôi lại một lần nữa phân vân không biết mình lôi Marty vào vụ này là đúng hay sai nhưng tôi cần biết là ai muốn Chaney phải chết. Tôi xoay vai, cổ làm cơ bắp căng cứng giãn ra, đúng lúc Emily bước qua cánh cửa và cởi chiếc khăn quàng cổ. Đến giờ mở cửa rồi, tôi bật hết đèn trong tiệm lên, ra cửa xoay tấm biển “Đã mở” ra ngoài. Có một chồng sách mới ở nhà sau cần xếp lên giá và sau khi Emily hoàn tất việc tháo bỏ lớp vỏ bên ngoài, hai chúng tôi bắt đầu làm việc, gần như là trong im lặng. Khi chúng tôi nói chuyện, tôi cảm thấy giọng cô ấy hơi khàn, như kiểu đi làm khi bị cảm lạnh hoặc là do nói quá nhiều vào đêm hôm trước. Tôi nhớ là cô ấy có nói cái gì về cuộc hẹn nhưng thật khó để hình dung Emily nói chuyện với ai đó nhiều tới mức đau họng. Khó mà hình dung được Emily cũng hẹn hò.
“Dạo này có gì mới à?” Tôi hỏi.
“Ý anh là sao?” Cô ấy nói.
“Không có gì. Tôi chỉ tò mò không biết dạo này cuộc sống của cô có gì thay đổi không thôi. Cô vẫn sống ở Cambridge nhỉ? Có đang hẹn hò ai không?”
“Ừm.” Cô ấy ậm ừ.
“Có xem được bộ phim nào hay không?” Tôi hỏi, cho cô ấy một cái cớ để thoát khỏi khoảng lặng im kéo dài đến khó chịu.
“Tôi mới xem Under the skin .” Cô ấy nói.
“Ồ, đúng, bộ phim mà Scarlett Johannson đóng người ngoài hành tinh đúng không?”
“Chính xác.”
“Phim hay không?”
“Hay cực kỳ.”
“Ô thế thì tốt.” Tôi nói và quyết định không hỏi thêm câu nào nữa. Tôi không có con cái nên cũng chịu không biết được có một đứa con tuổi teen tự dưng không nói một lời là như thế nào, nhưng đôi khi tôi nghĩ chắc nó cũng không khác tôi với Emily là mấy.
Chúng tôi lại tiếp tục xếp sách lên giá, tâm trí tôi lại trôi về cuộc nói chuyện với Marty. Có lẽ tôi đã sai khi nhờ anh ấy tìm hiểu về Norman Chaney nhưng tôi cảm thấy mình cần phải làm thế. Chaney là sợi dây kết nối tôi và Charlie. Ừm, cả Elaine Johnson nữa, nhưng có lẽ bà ấy trở thành nạn nhân vì Charlie biết đấy là người quen của tôi. Nếu tôi giả định rằng những vụ án khác cũng không phải là trùng hợp ngẫu nhiên thì đầu mối dẫn tôi tới danh tính của Charlie chắc chắn là vụ Norman Chaney. Nếu tìm được nguyên nhân Chaney phải chết thì tôi có thể biết được Charlie là ai.
Tầm buổi trưa thì chuông điện thoại tôi reo lên. Là Gwen, nhắn tin để báo cho tôi biết rằng cô ấy đang trên đường tới. Tôi đã báo với Emily là hôm nay tôi phải về sớm, Brandon sẽ đóng cửa tiệm và có khả năng cô ấy sẽ phải mở cửa vào sáng hôm sau. Cả Brandon và Emily đều có chìa khóa riêng vào tiệm. Emily không có vẻ gì là tò mò xem tôi định đi đâu, nếu có thì cũng không hề biểu hiện ra mặt.
Tầm một giờ tôi bắt đầu để ý nhìn ra cửa chính hướng về phố Bury. Tôi đã chuẩn bị ba lô đầy đủ quần áo và đồ dùng cá nhân cho hai ngày một đêm. Dẫu cho vẫn còn lo lắng về tình hình hiện tại, về những điều mà Gwen có thể phát giác ra tôi vẫn khá mong đợi chuyến đi này. Tôi cảm thấy gò bó và tù túng ở Boston vào mùa đông năm nay. Tôi mong đợi được nhìn thấy đường cao tốc, cảnh vật phủ tuyết trắng xóa và tới thăm nơi tôi chưa từng tới.
Tầm một giờ ba mươi tôi ngó đầu ra cửa trước và nhìn thấy Gwen đi một chiếc Chevy Equinox màu be, đang đánh lái vào chỗ trụ cứu hỏa. Tôi tạm biệt Emily và bước ra ngoài ngay khi điện thoại bắt đầu đổ chuông. Tôi thấy số điện thoại của Gwen, lờ nó đi và bước sang đường tới bên ghế lái phụ và gõ lên kính xe. Cô ấy liếc thấy tôi, ngắt cuộc gọi và vào trong xe. Mùi xe còn mới làm tôi thắc mắc liệu đây có phải là xe riêng của cô ấy không. Tôi cài dây an toàn và đặt cái ba lô của mình xuống chỗ sàn giữa hai chân.
“Chào.” Cô ấy nói. “Tôi đã đặt sẵn hai phòng ở Rockland rồi, để đề phòng thôi. Anh mang đủ đồ dùng chưa?”
“Đủ rồi.” Tôi nói.
Cô ấy lái xe xuôi theo phố Burry hướng về đường Storrow. Cả hai chúng tôi đều im lặng, tôi không định lên tiếng trước, cô ấy đang tập trung hết sức để ra được khỏi Boston. Khi chúng tôi rẽ vào đường 93 phố Bắc, thì Gwen lại cảm ơn vì tôi đã đi cùng.
“Thực ra thì thỉnh thoảng ra khỏi thành phố cũng hay mà.” Tôi nói. Tôi quay sang và nhìn cô ấy lần đầu tiên kể từ khi vào trong xe. Cô ấy đã cởi áo khoác ra cho dễ lái và giờ đang mặc một chiếc áo len đan vẫn loại sợi to và quần bò tối màu. Hai bàn tay đặt chuẩn xác ở vị trí hai giờ và mười giờ trên bánh lái và đôi mắt nhìn chăm chú vào con đường trước mặt như thể người bị cận cố nheo mắt nhìn cho rõ vậy. Cô ấy quá tập trung nên tôi có thể nghiên cứu khuôn mặt cô một chút. Mũi hơi hếch, vầng trán cao và mịn màng, làn da nhợt nhạt và đôi chỗ ửng hồng, Gwen hiện tại dễ phân biệt hơn hẳn, không còn mờ nhạt nữa. Bất cứ khi nào chăm chú quan sát một người tôi cũng không thể ngăn mình hình dung ra họ rất già hoặc rất trẻ. Với Gwen, tôi thấy cô ấy như một đứa trẻ năm tuổi, mắt tròn xoe mở thao láo, bặm môi dưới, trốn sau chân bố mẹ. Sau đó tôi lại hình dung cô ấy như một bà lão, mái tóc dài bạc phơ tết lại sau lưng, làn da mỏng như giấy và nhăn nheo khá bình thường ở người già nhưng trông vẫn đẹp lão với đôi mắt to lanh lợi. Trông cô ấy khá quen, đặc biệt là khuôn mặt trái xoan nhưng tôi vẫn chưa nhớ ra được mình từng thấy gương mặt này ở đâu.
“Chúng ta có hẹn với sỹ quan Cifelli ở nhà của Elaine Johnson lúc sáu giờ. Anh đã ăn trưa chưa vậy?”
Tôi bảo rằng mình ăn sáng muộn và chúng tôi dừng chân ở trạm nghỉ nằm đâu đó giữa Kennebunk, Maine. Có một tiệm Burger King và Popeyes ở đó. Cả hai chúng tôi đều gọi bánh kẹp và cà phê, ngồi xuống bàn gần cửa sổ và ăn thật nhanh. Thời tiết bên ngoài khá đẹp, bầu trời không có mây và mặt đất phủ trong tuyết mới, ánh sáng được phản chiếu càng thêm chói chang khiến cả hai phải nheo mắt lại. Sau khi ăn xong cái bánh và mở nắp cốc cà phê, Gwen nói, “Hôm qua có người đã bị bắt vì vụ của Daniel Gonzalez, cụ thể là tối qua.
“Ồ” Tôi nói. “Anh chàng bị bắn trong lúc dắt chó đi dạo ấy hả.”
“Đúng vậy, hóa ra gã đó cũng đang buôn ma túy đá MDMA cho đám học sinh ở trường mình, kẻ nổ súng là đối thủ cạnh tranh của gã. Tôi cho rằng chúng ta đã sai về vụ đó rồi.”
“Nhưng mà vẫn còn những vụ khác.” Tôi nói.
“Đúng vậy, chúng ta vẫn còn những vụ đã được xác định. Sát nhân A.B.C. là chắc chắn rồi, Khoản bồi thường gấp đôi cũng được xác nhận và tôi cảm thấy rằng chúng ta sẽ tìm được gì đó khi đến nhà Elaine Johnson à Rockland.”
“Tìm gì mới được?” Tôi hỏi.
“Bất cứ thứ gì. Gã đó sẽ để lại gì đó. Tên này kịch lắm, Charlie ấy. Như thể giết ba người thôi là chưa đủ, hắn còn phải đánh tiếng nữa, như vụ gửi lông vũ.”
“Lông vũ gì cơ?” Tôi hỏi.
“Ồ, xin lỗi, tôi quên là mình chưa kể cho anh. Đồn cảnh sát thụ lý vụ án của Robin Callahan, Ethan Byrd và Jay Bradshaw có nhận được một phong bì chứa một sợi lông vũ. Tôi đáng ra không nên nói với anh vụ này vì nó không được công bố với giới báo chí nhưng giờ tôi nghĩ rằng anh có thể tin được.”
“Tin tốt đấy, tôi nghĩ thế.” Tôi nói.
“Giờ thì anh hiểu sao tôi lại nói gã này rất kịch rồi đấy. Đó là lý do tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm được gì đó ở hiện trường vụ án. Và vì anh biết nạn nhân, vì kẻ đang thực hiện những vụ giết người mô phỏng này biết anh. Tôi không có ý nói rằng anh biết về họ... ý tôi là, có thể, nhưng họ có biết anh. Charlie biết về anh. Tôi nghĩ rằng ta sẽ tìm thấy đó. thứ gì đó liên kết vụ án tới bản danh sách, một thứ chứng cứ chắc chắn. Tôi có linh cảm không tệ về lần này. Anh ăn xong chưa đấy?”
Tôi nhận ra rằng mình đã cầm nửa cái bánh suốt hai phút vừa qua. “Ồ, xin lỗi.” Tôi vừa nói vừa cắn một miếng to mặc dù không còn thấy đói nữa. Tôi biết mọi thứ Gwen vừa nói đều đúng nhưng nghe thấy nó được nói thành tiếng thay vì vang lên trong đầu mình kể cũng rờn rợn.
“Anh có thể mang theo ăn dọc đường nếu muốn nhưng chúng ta phải lên đường thôi. Ít nhất còn phải lái thêm hai tiếng nữa mới tới được Rockland cơ.”