← Quay lại trang sách

Chương 19

Khu vực của Boston được gọi là Downtown Crossing [*] đó nằm ở phía bên kia của công viên Boston Common. Nó đã từng là nơi tập trung nhiều cửa hàng tạp hóa lớn mà nổi bất nhất là Filene’s và Macy's mặc dù hiện tại cả hai tòa nhà đều đang trống không. Những gì còn lại từ một thời huy hoàng là những cửa hàng giày thể thao chen chúc cùng những sạp bán bánh kẹp xúc xích, một vài quán bar và nhà hàng thời thượng đã ngày đêm mong ngóng thành phố đổi tên khu vực này thành Quận Ladder suốt mấy năm nay.

[*]

Giao lộ trung tâm, đây là một khu vực mua bán tập trung các quầy hàng, giống với phố đi bộ.

Rõ ràng là quán cà phê Ladder cũng muốn góp một phần trong cuộc vận động thay đổi thương hiệu đó. Nằm kẹp giữa một cửa hiệu bán vải và một quán bar thể thao [*] , Ladder là một căn phòng hẹp dài trần cao với lối trang trí tối giản và người pha chế đầy những hình xăm. Tôi đến sớm, gọi một ly café au lait lớn và ngồi xuống chỗ có thể nhìn ra cửa chính. Tôi cho rằng khi Jillian Nguyen tới nơi, cô ấy sẽ có rất nhiều câu hỏi tại sao tôi lại muốn hỏi thăm về gã bạn trai cũ Nicholas Pruitt. Tôi định kể ít nhất có thể, không gì hơn việc anh ta đang được xem xét vào vị trí biên tập cho một tuyển tập sắp ra mắt từ một nhà xuất bản lớn nhưng chưa có quyết định chính thức do một vài tin đồn về đời tư cá nhân của ứng viên. Nếu bị gặng hỏi tôi sẽ nói với cô ấy rằng mình là một thám tử tư được thuê để điều tra lý lịch của Nicholas Pruitt. Hy vọng cô ấy sẽ tin và không yêu cầu kiểm tra giấy chứng nhận hành nghề.

[*]

Kiểu quán bar luôn mở các chương trình thể thao.

Đúng ba giờ ba mươi phút, tôi nhận ra người phụ trông giống như những hình ảnh tôi tìm được về Jillian xuất hiện chỗ cánh cửa. Vóc người nhỏ bé, bọc trong một chiếc áo khoác phòng phồng có mũ. Cô ấy hẳn đã nhận ra cái nhìn của tôi và ngay lập tức tiến về phía này, tôi đứng lên tự giới thiệu bản thân.

“Tôi chỉ có tầm hai mươi phút thôi.” Cô ấy lên tiếng, tôi tự hỏi liệu có phải cô đã trở nên cảnh giác hơn sau khi chúng tôi ngắt cuộc gọi.

Tôi mời cô ấy một ly cà phê nhưng cô muốn uống trà thảo mộc nên tôi đứng lên xếp hàng để gọi đồ. Tôi không thể nào không liên tưởng đến Claire được vì cả hai có cùng sở thích uống trà thảo mộc ở quán cà phê làm tôi muốn phát điên khi phải trả ba đô la hoặc hơn cho một thứ thức uống không hơn gì trà túi lọc nhúng vào nước sôi.

Khi quay lại bàn, tôi nói, “Một lần nữa, tôi phải cảm ơn cô rất nhiều vì đã dành thời gian gặp mặt. Tôi biết điều này có vẻ kỳ lạ nhưng tôi được giao nhiệm vụ kiểm tra lý lịch của Nick và phải nhanh chóng có kết quả vì các nhà xuất bản muốn đưa ra quyết định ngay lập tức.”

Nghe đến cụm từ nhà xuất bản làm cô ấy nhổm dậy, không ngoài dự đoán của tôi. “Ồ, thế.”, cô ấy nói.

“Tôi thực sự không thể tiết lộ tên nhà xuất bản được nhưng anh ta đang được xem xét làm biên tập viên cho một tuyển tập lớn và dường như có ai đó đặt ra những câu hỏi về đời sống cá nhân của người ứng viên này, họ lo ngại nó có thể ảnh hưởng tới hiệu suất công việc.”

Jillian định nhấp một ngụm trà nhưng ngừng lại và đặt nó xuống đĩa. “Anh đã nói rằng cuộc hội thoại này sẽ hoàn toàn bí mật phải không?”

“À, chắc chắn rồi.” Tôi nói. “Một trăm phần trăm, tôi thậm chí sẽ không làm biên bản hay ghi vào báo cáo.”

“Tôi đã không gặp và liên lạc với Nick trong hơn ba năm rồi, kể từ hồi tôi rời New Essex. Rõ ràng là anh đã biết tôi đã xin tòa ra lệnh hạn chế cự ly đối với anh ta, nếu không thì anh đã không ở đây để nói chuyện với tôi, đúng không?”

“Đúng vậy.” Tôi nói, rồi bổ sung thêm. “Hai người ở bên nhau bao lâu?”

Cô ấy nhìn lên trần nhà. “Không tới một năm. Ý tôi là, chúng tôi yêu nhau trong vòng không đến một năm. Tôi quen biết với anh ta từ một năm trước khi bắt đầu hẹn hò và sau khi mọi chuyện đổ bể thì tôi vẫn còn ở New Essex thêm tầm sáu tháng nữa.”

“Vậy cô có thể tiết lộ nguyên nhân cô phải trình đơn yêu cầu lệnh cấm tiếp xúc không?”

Cô ấy thở dài một hơi. “Anh ta chưa bao giờ thực sự làm đau tôi về thể xác hoặc đe dọa bằng vũ lực, tuy nhiên sau khi chúng tôi chia tay, Nick cứ gọi cho tôi suốt ngày, có mặt ở mọi nơi tôi định tới và có một lần, chỉ một lần thôi, anh ta uống say và đột nhập vào nhà tôi, đấy chính là nguyên nhân chính tôi phải xin lệnh hạn chế tiếp xúc.”

“Ôi chà!” Tôi thốt lên.

“Vấn đề là... tôi vẫn cho rằng anh ta là một người đàn ông tử tế nếu không có tật nghiện rượu. Anh có biết... liệu Nick có còn uống rượu hay không? Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện thì anh ta kể rằng mình đã không dính vào rượu bia được một tháng rồi.”

“Tôi sẽ điều tra chuyện đó, vậy anh ta không bao giờ có hành vi bạo lực với cô đúng không?”

“Không, chắc chắn. Anh ta chỉ bám dai như đỉa thôi, coi tôi là tình yêu của đời mình.”

“Anh ta viết cuốn sách dành tặng cho cô đấy.” Tôi nói.

“Ôi lạy Chúa.” Cô ấy ôm mặt như thể đang vô cùng xấu hổ. “Tôi biết, cuốn sách đó còn ra đời sau khi chúng tôi chia tay nữa. Nghe này, tôi không hề muốn cản trở đường thăng tiến của Nick hay gây tác động xấu tới công việc mà có lẽ anh ta sẽ cần. Tôi đã có một trải nghiệm tồi tệ nhưng nếu người này ngừng uống rượu thì có thể sẽ là một nhân tuyển hợp lý đấy. Anh ta đọc nhiều và hiểu rất rộng.”

“Vậy, kể từ khi quen biết đến giờ cô không cho rằng Nick có khả năng bạo lực với bất kỳ ai phải không? Chưa bao giờ cảm thấy rằng anh ta có khả năng trả thù sau khi chia tay?”

Trông cô ấy có vẻ bối rối làm tôi tự hỏi có phải mình đã quá lố rồi hay không. Cô ấy há miệng định nói, rồi ngập ngừng, rồi nói, “Tôi chưa từng thấy được một mặt bạo lực của anh ta, nhưng người này... rất hứng thú với bạo lực theo góc nhìn văn học. Anh ta bị thu hút bởi những câu chuyện về báo thù. Nhưng đó... chỉ đơn thuần là trên góc độ nghề nghiệp, theo tôi biết là thế. Anh ta thực sự là một giáo sư tiếng Anh khá điển hình đấy. Kiểu mọt sách.”

Tôi định hỏi thêm xem liệu Jillian có biết gì về cái chết của người em gái hoặc gã chồng cũ của cô ấy là Norman Chaney hay không. Nhưng tôi có linh cảm mình như đang đi trên miếng băng mỏng. Jillian Nguyen đang quan sát tôi như thể ghi nhớ để làm chứng sau này vậy. “Tôi biết là những câu hỏi này rất kỳ quái, tôi nói, “có vẻ như là, mà đây chỉ là chia riêng giữa tôi và cô thôi nhé, có ai đó đến khiếu nại với nhà xuất bản rằng Nicholas Pruitt đã có hành vi bạo lực.”

“Ồ” Jillian nói và nhấp một ngụm trà.

“Phía nhà xuất bản không tin vào lời buộc tội đó, cũng không tin tưởng người khiếu nại nhưng họ cũng muốn chắc chắn.”

“Ôi Chúa ơi, anh cho rằng tôi là người khiếu nại!” Jillian vừa nói vừa ngồi bật dậy.

“Ôi không, không, không” Tôi nói. “Không hề, chúng tôi có danh tính của người khiếu nại mà, giờ chỉ đơn giản là cần ai đó củng cố thêm thôi.”

“Vậy sao.” Cô ấy vừa nói vừa đặt tách trà xuống. “Xin lỗi, tôi thực sự cần phải đi rồi, hơn nữa tôi không nghĩ mình còn gì để bổ sung nữa.”

Cô ấy đứng dậy. “Cảm ơn vì những lời chia sẻ hữu ích.” Tôi đứng lên theo vào nói. Rõ ràng là tôi đã đánh mất lòng tin của cô gái này rồi nhưng vẫn muốn cố thử một lần cuối xem vận may của mình đến đâu. “Một điều cuối cùng thôi, theo như cô biết thì Nick Pruitt có sở hữu súng không?”

Cô ấy nghe vậy thì lắc đầu, trong lúc đang khoác lên mình chiếc áo to sụ. “Tôi nghĩ là không,” cô ấy nói, “trừ những khẩu súng cổ ra, nhưng tôi không nghĩ là chúng còn hoạt động được đâu.”

“Súng cổ sao?”

“Anh ta thích sưu tầm súng, không phải để bắn. Những khẩu lục ổ quay kiểu cũ, bất kỳ thứ gì giống như trong những bộ phim trinh thám cổ điển. Chỉ là sở thích mà thôi.”

Cô phục vụ đặt bia của chúng tôi xuống bàn. Một chai Stella cho Marty còn của tôi là Belhaven. Chúng tôi ngồi ở một gian riêng phía cuối quán Jack Crow’s Tavern, có cảm giác như một căn phòng bé tí tẹo gợi tôi nhớ tới những băng ghế dài ở Nhà thờ Old South.

Hai chúng tôi nhấp một ngụm bia. “Gặp nhau vui nhi, Marty” Tôi nói. Thực ra tôi cũng mới gặp anh ấy gần đây thôi nhưng không hiểu sao trông Marty có vẻ già hơn, mái đầu đinh bạc trắng trông có vẻ thưa thớt và làn da cũng lấm tấm đồi mồi. Bàn tay to với những khớp ngón tay sưng và co quắp bất thường giống như bị viêm khớp vậy.

“Tôi đã quên béng về chỗ này rồi đấy.” Anh ấy vừa nói vừa nghiêng người ra nhìn quầy bar tấp nập. “Lần cuối cùng mình đến đây chúng ta đã có một bữa nachos ra trò với mầm cải bó xôi nhỉ.”

“Thật á?” Tôi nói. “Sao tôi không nhớ nhỉ?”

“Tôi không bao giờ quên được. Ai đời lại cho cải bó xôi vào nachos chứ?”

“À nhớ ra rồi.” Tôi nói. “Thôi hôm nay hãy bỏ qua món đó nhé, chỉ uống bia thôi.” Hai chúng tôi cụng ly.

“Anh tìm được gì mới không?” Tôi hỏi. Tôi đã suy nghĩ nãy giờ xem có nên nói với anh ấy rằng tôi cũng mò được một chút thông tin về Nick Pruitt hay không, đặc biệt là về bộ sưu tập súng cổ kia nữa, nhưng mà vẫn còn ngần ngại.

“Có thêm được một chút.” Marty nói. “Không biết có nên công chuyện gì không nhưng gã đó không tốt lành gì đâu. Nick Pruitt ấy”

“Không á?”

“Ừ, tay này bị bắt hai lần rồi, một lần do lái xe trong lúc say xỉn và một lần là say rượu gây rối sau khi tham gia tình nguyện vào đêm Giáng Sinh. Người ta bắt tận tay gã đang trộm một hộp nến giáng sinh mà người ta hay đem phát miễn phí ấy. Còn nữa, gã đang gánh hai cái lệnh hạn chế tiếp xúc. Chờ chút.” Anh ấy thò tay vào trong túi áo khoác len và lấy ra một sổ tay gáy xoắn và cặp kính đọc sách. “Người thứ nhất là Jodie Blackberry - ở Michigan, sau khi tốt nghiệp đại học. Cô ấy khai rằng mình phát hiện ra gã này nhìn trộm cửa sổ phòng mình và bám đuôi mọi nơi mọi lúc trong trường. Người thứ hai thì gần đây hơn nhiều, tầm ba năm trước thôi, do Jillian N-G-U-Y-E-N đệ trình. Thôi không cố phát âm tên họ người ta nữa nhé. Cũng vì lý do từa tựa như vậy. Cô người yêu cũ nói rằng anh ta không chịu để mình yên. Gã đột nhập vào nhà cô ấy.”

“Vậy là không có tiền án bạo lực nào nhỉ? Không có gì dính dáng đến súng đạn sao?”

“Không có, nhưng thế lại hợp lý, không phải sao? Nếu như tay Nick Pruitt này muốn Chaney chết thì gã sẽ cần người khác làm điều đó. Tay này không thực sự là kẻ giết người dù rõ ràng là một gã hay nhìn trộm và nghiện rượu quắc cần câu. Hơn nữa, tôi kiểm tra bằng chứng ngoại phạm của hắn rồi, chắc như định đóng cột luôn.”

“Bằng chứng ngoại phạm trong thời gian Norman Chaney tử vong ấy hả?”

“Đúng vậy” Marty nhìn xuống sổ một lần nữa. “Đó là tháng Ba năm 2011. Nick Pruitt đang ở California tham dự buổi họp mặt gia đình. Kiểm chứng xong xuôi hết rồi, nhưng như tôi đã nói đấy, tôi không tin tay này là người có thể đánh em rể đến chết được, nhưng có thể tìm người làm chuyện đó thay mình. Cũng có thể là gã chỉ nhờ ai đó đến dằn mặt Chaney thôi rồi người kia lỡ tay. Dù thế nào đi nữa thì gã cũng thoát án trót lọt. Tôi đoán là nếu mình thực sự muốn biết sự thật thì chỉ có cách bắt hắn tự nói ra thôi, kiểu tự thú ấy. Tôi biết thừa kiểu mấy thằng cha này, mình rắn tí thôi có lẽ hắn sẽ bỏ cuộc và khai ra hết. Không gợi ý gì nhé, đang nói chơi thôi”

“Hiểu rồi.” Tôi nói. “Không, tôi chỉ cần thông tin thôi. Cảm ơn nhiều, Marty, thông tin có ích lắm.

“Không, tôi phải cảm ơn cậu mới đúng. Tôi thực sự đã cảm thấy mình có ích, lần đầu tiên trong không biết từ bao giờ nữa. Bên FBI vẫn đang hỏi cậu về vụ án của Chaney à?”

Tôi uống một ngụm lớn, phân vân, lại một lần nữa không biết nên cho Marty biết tới đâu. “Dạo này thì không thấy nữa.” Tôi nói. “Có vẻ là nó liên quan đến một bản danh sách tôi viết cho tiệm Old Devils từ cả trăm năm trước rồi.”

“Vậy ý hả?”

“Ừ, anh lên coi blog của tiệm bao giờ chưa?”

“Tôi còn đếch biết được cái blog là cái quỷ gì kìa. Marty nói.

“Tôi không viết nữa rồi nhưng hồi mới vào làm ở Old Devils tôi vẫn hay lên đó để viết những bài viết ngắn nhận xét về sách mới, liệt kê tác giả ưa thích, kiểu kiểu vậy. Tôi có viết một bài về tám vụ giết người hoàn hảo trong truyện trinh thám và có ai đó ở bên FBI thấy được mối liên hệ giữa bản danh sách của tôi và mấy vụ án chưa phá được diễn ra trong thời gian gần đây, nên là tôi không nghĩ là FBI sẽ quay lại đâu?”

“Bên đó hỏi cậu về vụ nào ấy?” Anh ấy nói, rõ ràng đang rất hứng thú.

“Một chuỗi mấy vụ án ở Connecticut, nạn nhân được tìm thấy trên đường tàu. Với cả họ hỏi tôi xem cái cô dẫn chương trình đó, Robin...”

“Robin Callahan, chắc chắn rồi.” Anh ấy nói. “Lão chồng làm đấy, tôi không thể tin được là tay này vẫn chưa bị bắt.”

“Anh biết về vụ đó hả?” Tôi hỏi.

“Tôi không biết, nhưng, ờ, cô ta là người đã viết quyển sách gì mà ngoại tình có ích cho hôn nhân mà, nên nghi ngờ ông chồng là hung thủ cũng hợp lý thôi, đúng không?”

Tôi bật cười. “Ồ đúng rồi nhỉ, tôi phản ứng thái quá mất rồi.”

“Tôi không biết cậu có phản ứng thái quá hay không nhưng có vẻ bọn họ thì có đấy. Bên kia hỏi cậu về cả mấy vụ án này hả?”

Tôi có thể thấy rằng Marty đang ngày càng trở nên hứng thú hơn và tôi không hề muốn lôi anh ấy vào vụ này. Anh ấy làm tôi liên tưởng đến một con cún và khúc xương, nếu mà tôi tiết lộ về kẻ bắt chước các vụ án bây giờ thì chắc chắn anh ấy sẽ bắt đầu điều tra, đã thế anh ấy còn biết đến cái tên Norman Chaney rồi.

“Bọn họ chỉ hỏi xem liệu tôi có dính dáng gì tới mấy vụ đó không thôi, Norman Chaney này, gã gì đó ở Connecticut, rồi Robin Callahan. Tôi đã phủ nhận rồi. Tôi hỏi anh về vụ của Norman Chaney vì không hiểu tại sao họ có vẻ quan tâm nhiều đến vụ đó, Thực lòng mà nói thì chắc không có gì đâu. Ít nhất tôi hy vọng là không có gì. Con gái anh vẫn sẽ đến chơi hả?”

“Cậu cho những quyển nào vào trong danh sách thế.” Anh ấy hỏi, tảng lờ câu hỏi của tôi về Cindy.

Tôi giả vờ như mình khó khăn lắm mới nhớ lại được và nói cho anh ấy tên sách và bỏ qua cuốn Người lạ trên tàu . Marty rút cuốn sổ tay be bé ra ghi lại như mọi khi, anh ấy lúc nào cũng mang theo để ghi lại mấy đầu sách được giới thiệu.

“Sát nhân A.B.C. à?” Anh ấy nói. “Nghe có vẻ thú vị đấy. Độ này tôi thích đọc truyện của Agatha Christie hơn James Ellroy. Không biết tại sao, chắc là độ này tôi mềm yếu đi rồi.”

“Dạo này anh đọc Agatha Christie ấy hả?”

“Ừ, thì cậu bảo tôi đọc còn gì? Mới đọc xong cuốn Ten little Indians .”

“ Và rồi chẳng còn ai (And Then There Were None) chứ?” Tôi bật thốt. Đó là cái tên được dùng cho các bản tái bản sau này cho đỡ nhạy cảm.

“Ờ đúng, quyển đó đó. Đấy mới gọi là vụ án hoàn hảo chứ, thế mà tên sát nhân lại không chịu học theo”

“Ý ông là giết người xong rồi tự sát luôn ấy hả?” Tôi nói. Tôi không hề nhớ rằng mình đã dặn anh ấy đọc Agatha Christie nhưng chắc là do tôi quên mất thôi.

Chúng tôi gọi một cốc bia khác và nói chuyện về sách, lảng một chút sang chuyện gia đình anh ấy. Marty định rủ tôi ngồi uống thêm chầu thứ ba nhưng tôi quyết định ra về. Như mọi khi, tôi thích dành thời gian ngồi với người bạn này nhưng một hồi lâu sau chúng tôi sẽ chẳng còn gì để nói cả, chỉ còn lại cảm giác buồn chán và cô đơn. Tôi luôn thấy rằng khi ở bên người khác, dù không phải là ở một mình nhưng cảm giác cô đơn lại có thể trở nên sâu sắc hơn.

“Cậu có tính làm gì về vụ Nick Pruitt không?” Anh ấy hỏi lúc tôi đang kéo khóa áo khoác.

“Không” Tôi nói. “Chắc là không, trừ khi FBI quyết định nói chuyện lại với tôi về vụ Norman Chaney. Khi đó có lẽ tôi sẽ đề cập đến anh ta, nói rằng mình đã xem xét kỹ lưỡng vụ đó và Pruitt cực kỳ khả nghi.”

“Tôi không muốn tên mình bị đề cập đến đâu.” Marty nói. “Nếu cậu không phiền.”

“Tất nhiên là không. Tôi sẽ không đề cập đến anh đâu. Kiểu như tôi chỉ tò mò thôi ấy, có một chút bối rối khi nghĩ rằng họ bằng cách nào đó lại liên hệ những vụ án này tới bản thân mình thôi.”

“Thế mà tôi cứ tưởng là cậu sẽ nói nó có liên quan đến Nero.” Marty vừa nói vừa dốc nốt chỗ bia còn lại vào miệng.

“Hả?” Tôi hỏi.

“Làm tôi tưởng là bên FBI đến với đống câu hỏi về Norman Chaney bởi vì con mèo của cậu ở cửa hàng, Nero ấy.”

“Tại sao?” Tôi nói, cố tỏ ra bình tĩnh.

“Tôi đã đọc báo cáo rằng Norman Chaney có một con mèo, màu vàng cam giống như Nero, mất tích sau vụ án. Tôi đọc thấy... rồi nghĩ là có khi đấy chính là lý do.”

“Nghe buồn cười thế?” Tôi nói.

“Nó khá là nổi tiếng đó, Nero ấy, cậu biết không?”

“Tôi biết mà. Chắc phải một nửa số người đến tiệm chỉ là để gặp nó thôi đấy. Emily bảo tôi rằng nó có cả một trang riêng trên Instagram dù tôi chưa thấy nó bao giờ. À mà nó cũng không tới từ Vermont đâu.” Tôi cười, tiếng cười nghe thật giả tạo, ít nhất tôi thấy vậy.

“Chắc tôi sẽ ở lại làm thêm chầu nữa.” Marty nói.

Tôi cảm ơn anh ấy một lần nữa và bước vào trong màn đêm. Trong lúc chúng tôi nói chuyện thì nhiệt độ bên ngoài đã tiếp tục giảm sâu. Tôi rón rén bước về nhà, cố gắng né tránh những mảng băng đen thui trên vỉa hè chật hẹp. Khi về đến đầu phố nhà mình, dù không nhìn thấy bóng dáng đang đứng trong bóng đổ của cây bồ đề khô trước cửa nhà nhưng tôi chợt có linh cảm, là cảm giác tôi hay trải qua dạo gần đây, cảm giác bị ai đó theo dõi.

Cô ấy bước ra từ trong bóng tối lúc tôi đến chỗ bậc cầu thang và nói, “Chào Mal.”