Chương 21 NGÀY MAI LÀ MỘT NẤM MỒ
Let us break from every flower
One fine blossom for our power
and two leaves to wind a wreath
NIETZSCHE
Thi sĩ Victor Hugo, trong bài thơ nói về cuộc rút lui khỏi Nga của đại đế Napoleon có câu:
Hôm nay là Austerlitz ngày mai là Waterloo
Và ngày mai nữa là một nấm mồ.
Tháng 9-1941, quân Đức tiến về hướng Leningrad, thành phố lớn thứ nhì của Nga với lệnh đặc biệt của Hitler là không cho Leningrad đầu hàng dù có xin hàng, nơi phát tích của chủ nghĩa bôn sê vích sẽ bị xóa hẳn trên bản đồ.
Ngày 3 tháng 10, Hitler nói với dân Bá Linh:
“Hôm nay, tôi có thể tuyên bố không cần dè dặt, kẻ thù phía Đông của chúng ta đã quị hết đường chỗi dậy. Rồi đây sau lung quân đội ta là một giải đất mênh mông, diện tích gấp 12 lần giang sơn Đức”.
Ngày 8 tháng 10, một tỉnh cửa ngõ phía Nam Mạc Tư Khoa thất thủ. Phát ngôn viên quân sự Đức bay về Bá Linh loan báo: quân đoàn của thống chế Timoshenko phòng thủ Mạc Tư Khoa đang bị kẹt giữa gọng kìm quân Đức, quân đoàn Nga dưới quyền điều động của thống chế Vorochilov bị bao vây ở Leningrad. Phát ngôn viên kết luận số phận Nga Sô Viết đã định xong. Hy vọng hai mặt trận của Anh đã tiêu tan.
Quân Nga bị vây nhưng quyết tử thủ không chịu hàng.
Hitler trông đợi một cuộc nổi dậy chống chế độ Bôn sê Vich ngay sau khi Đức khởi sự tấn công, đến nay đã năm tháng rồi mà vẫn chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có thể nổi dậy. Trái lại, dân Nga còn chiến đấu hăng hái, gan dạ hơn bao giờ hết. Tướng lãnh Đức hoang mang lo ngại, sự thật rõ ràng là Nga không thua như đã dự tính.
Mùa đông của nước Nga mới chính là vị tướng đáng sợ nhất. Gió mưa tuyết giá buốt, nhớt cũng đông, lính Đức lạnh cứng máu, mấy triệu người rét run lên, quần áo trang bị chống rét không đủ phân phát. Sức chiến đấu giảm đi quá nữa.
Nga chỉ chờ có thế để phản công, tung ra hàng loạt vũ khí mới dành những đòn chí tử vào quân Đức.
Hitler lồng lộn đổ lỗi cho tướng Brauchitsch, đuổi ông này ra khỏi chức vụ, cách chức tất cả những vị tướng nào tỏ ý chống đối hay chán nản.
Ông nhất định không rút, quân Đức phải ở lại Nga cho đến lúc toàn thắng. Suốt ngày đêm, ông ngồi bên bản đồ tham mưu mặt trận Nga.
Ngày 7 tháng 12-1941, Nhật tuyên chiến với Mỹ đánh úp Trân Châu Cảng, tiêu diệt quá nữa hạm đội Anh Mỹ ở Thái Bình Dương. Nga phải chuyển bớt quân sang Tây Bá Lợi để phòng Nhật Bản. Nhờ vậy, Đức bớt áp lực mà thoát qua mùa ấm.
Nét mặt tươi vui trở về với Hitler, người ta thấy bớt trầm ngâm suy nghĩ mà tiếp tục nói, nói và nói…
Tháng 3-1942, sức khỏe Hitler kém hẳn vì làm việc quá sức đầu bị những cơn choáng váng muốn vật ông xuống đất. Tuy nhiên, khi đọc diễn văn trước quốc hội, ông vẫn lạc quan nói:
“Quý vị, mùa đông đã hết. Chúng ta hoàn toàn làm chủ vận mạng vượt qua nguy cơ từng quật ngã một người (chỉ Napoléon) hơn trăm năm trước đây”.
Cũng tháng 3-1942, khởi đầu cuộc phản công bằng không lực của Anh-Mỹ. Hàng trăm tấn thảm bom trải xuống thủ đô Bá Linh và nhiều thành phố khác.
Heydrick, một tay chân đắc lực của Gestapo bị ám sát bằng chất nổ tại Moravia (Tiệp Khắc.
Tướng Reichenau, tư lệnh mặt trận miền nam nước Nga, gặp chứng xuất huyết trong óc phải về nước điều trị.
Bộ trưởng quân nhu vũ khí Todt bị rớt máy bay chết cháy.
Hitler đưa kiến trúc sư Albert Speer thay thế súc tiến việc chế tạo loại xe tăng “Tigre” gắn đại bác 88 ly.
Con số thiệt hại ở mặt trận phía Đông về đủ mọi mặt lớn vô kể.
Mặc kệ tướng lãnh phản đối, Hitler hạ lệnh chọc sâu vào vùng Caucase với hy vọng băng qua Ba Tư, Ấn Độ nối liền trận tuyến với Nhật.
Bên Phi Châu, quân của tướng Rommel bắt đầu đuối sức phải dừng lại ở Alexandrie.
Tại Leningrad, tướng Von Paulus bị Nga bao vây, suốt ngày ăn đạn pháo kích cả ngàn trái, cuộc chiến ở đây Đức lâm vào thế sa lầy chới với đỡ đòn.
Để giữ vững tinh thần dân Đức, Hitler về Bá Linh khai mạc hội quyên tiền mùa đông giúp chiến sĩ. Ông nói:
“Chắc chắn bọn Nga không thể chống đỡ nổi sức mạnh cuồng phong của Đức”.
Người tinh ý nhận thấy thấy giọng Hitler bây giờ đã kém oai, hơi ngắn phản ảnh một trạng thái tâm lý hoang mang.
Cuối tháng 10-1942, quân thiết giáp Đức thua nặng trong trận El Alamein.
Ngày 7 tháng 11, lực lượng Anh Mỹ đổ bộ lên Maroc và Algerie ép tướng Rommel vào thế gọng kìm.
Mussolini chán nản khuyên Hitler tìm cách thỏa hiệp với Nga.
Ngày 22 tháng 11, tướng Von Paulus điện khẩn cấp về bộ tổng tham mưu cho biết 22 sư đoàn gồm 300.000 quân đang bị nguy khốn, yêu cầu cho phép ông mở đường máu rút về phía Tây. Hitler không chấp thuận, bắt Paulus giữ nguyên vị trí chờ tiếp viện và chờ giải tỏa áp lực.
Stalingrad bị cắt hết đường tiếp tế. Không lực Đức vì còn yểm trợ Rommel nên không cáng đáng nổi việc tiếp tế cho cánh quân khổng lồ của Von Paulus, Hitler giao trách nhiệm giải tỏa áp lực Nga ở Stalingrad cho tướng Von Manstein. Chỉ vài ngày đầu khả quan đôi chút, về sau cũng thúc thủ vì khắp nơi quân Đức phải đương đầu với hàng ngàn chốt (verrous) kháng cự mãnh liệt. Rút cục, Manstein chẳng làm gì được cho Von Paulus.
Ngày 22 tháng 12, tướng Rommel đề nghị rút khỏi Phi Châu nếu không thể tiếp sức cho ông được.
Qua đầu năm 1942, thống chế Manstein, tướng Milch, tướng Zeizler cùng với các tướng lãnh khác cố gắng làm cho Hitler hiểu tốt hơn là trả quyền điều động quân đội về cho các tướng lãnh để Hitler rãnh tay lo việc chính trị.
Ngược lại, Goebels và Goering muốn Hitler cứ tiếp tục lãnh đạo quân sự, vấn đề chính trị để họ lo.
Riêng Hitler, ông chẳng tin phe nào, ông cho rằng tình trạng càng đen tối thì càng thấy rõ chỉ có một người duy nhất cứu vãn nổi, người đó phải là Adolf Hitler. Ông cố tạo không khí lạc quan cho tất cả đừng thoái chí. Nhưng muộn rồi, vì lạc quan sao được khi các thủ hạ trông thấy vị lãnh tụ tối tăm mặt mũi chui dưới hầm xi măng cốt sắt ngày này qua tháng khác, lạc quan sao được khi Goering nhận rằng vị lãnh tụ, sau ba năm chiến tranh đã già hẳn đi 15 tuổi, lạc quan sao được khi một số người thân cận thì thào rằng vị lãnh tụ đã nói đến cái chết.
Tháng 1-1943, đi họp hội nghị Casablanca về, tổng thống Roosevelt loan báo cho thế giới biết, phe đồng minh phải đánh đến khi nào Đức phải đầu hàng vô điều kiện.
Chiến tranh trên biển, đô đốc Raeder cũng thua liền liền.
Hitler đưa đô đốc Doenitz lên thay thế.
Tình hình Stalingrad bi thảm không thể bưng bít mãi, đài phát thanh Đức truyền lời Hitler nói về những khó khăn, đồng thời Hitler ký sắc lệnh phong cho người hùng Stalingrad Von Paulus lên thống chế.
Ngày 1 tháng 2-1943, thống chế Paulus xin hàng. Quân Nga vào bắt 24 tướng, 2.500 sĩ quan và 90.000 quân Đức.
Vụ Stalingrad làm rung chuyển tình thế Đức quốc. Phong trào chống chiến tranh nổi lên ở Ý, Hung và Phần Lan. Các nước trung lập: Thụy Điển, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ xa lánh chính trị Đức. Quân kháng chiến hoạt động gấp đôi ở những nơi Đức chiếm đóng.
Quân đội cảm thấy chán ghét Hitler, cái thiên tài quân sự của lãnh tụ chỉ là cái thiên tài của đầu óc “caporal”.
Hitler biết quân đội thế nào cũng âm mưu hại mình nên tăng cường lực lượng Wafen S.S. để bảo vệ. Tiện nghi vật chất dành cho S.S. trước rồi sau mới đến quân đội.
Tháng 5-1943, mặt trận Phi Châu sụp đổ, 250,000 quân Đức-Ý bị bắt làm tù binh.
Quân đồng minh lăm le đổ bộ lên Sicile (Ý Đại Lợi) khiến chế độ phát xít lung lay. Mussolini cho Hitler biết Ý đã kiệt sức rồi. Hitler phải bay tới Bellumo gặp Mussolini để chấn tĩnh tinh thần ông bạn.
Ngày 25 tháng 7, Hitler nhận được tin đảo chánh tại Ý, Mussolini mất chức, nhà vua ủy nhiệm thống chế Badoglio lập nội các mới. Chưa biết số phận Mussolini ra sao, bị bắt hay mất tích? Hitler vội phái tướng Rommel bỏ Hy Lạp về ngay trấn giữ mặt trận Ý.
Đảo chánh tại Ý gây ảnh hưởng dây chuyền sang các nước khác ngay cả Đức, con đường mới là lật đổ chế độ độc tài. Hitler vội vã đưa Himmler làm bộ trưởng nội vụ đề phòng đảo chánh.
Không lực đồng minh oanh tạc dữ dội, đời sống dân Đức khổ cực thiếu thốn đủ thứ.
Tướng Jeschonek, tham mưu trưởng không quân Đức tự sát tại văn phòng vì không muốn nhìn thấy Đức bị thua trận.
Sau khi dò biết Mussolini đã bị bắt giam, để cứu vãn mặt trận Ý, Hitler sai đại tá Skorzey dùng đặc công nhẩy dù xuống nơi cầm giữ Mussolini cứu ông này. Skorzeny mang theo một tác phẩm của triết học Nietzsche đóng gáy da chữ vàng có chữ ký của Hitler đề tặng Mussolini. Sứ mạng của Skorzeny thành công tốt đẹp.
Mùa thu 1943, xẩy ra nhiều bất hòa giữa Anh, Mỹ và Nga Sô. Staline đập bàn đập ghế trong điện Cẩm Linh thống mạ bọn tư bản thất hứa không mở ngay mặt trận phía Tây cốt ý kéo dài bắt Nga gánh chịu hết tai họa chiến tranh để Nga yếu chừng nào tốt chừng ấy.
Hitler lại hy vọng Nga sẽ chán nản, lúc đó ông đưa đề nghị hòa bình, chắc Nga phải chịu.
Ngày 8 tháng 9-1943, quân đội đồng minh đổ bộ miền Nam nước Ý, chính phủ Ý xin đầu hàng.
Nhờ Anh Mỹ tiếp tế qua ngã Ý, quân Nga mạnh hẳn lên mở cuộc tổng phản công chiếm lại vùng Ukraine. Mussolini ở vùng Bắc Ý, lực lượng còi cọp chẳng làm gì được. Chua sót, Mussolini cho rằng cớ sự này là do chính con rễ mình gây nên, nó chỉ biết chưng diện, kiêu hãnh, ông hạ lệnh xử bắn Ciano cùng một số đảng viên Phát Xít khác.
Ngày 8 tháng 11, Hitler tới Munick họp đại hội đảng, ông nói:
“Ngoài mặt trận, bổn phận mọi người là biến những gì không có thể thành có thể, trong nhà bổn phận mọi người là chống đỡ và tăng cường cho mặt trận, trong đấu tranh thực hiện những điều khó thực hiện nhất, trong đấu tranh hãy chịu đựng tất cả những gì hầu như không thể chịu đựng được. (Le role du front est de rendre finalement possible ce qui parait impossible, le role de l’interieur est de soutenir et de renforcer le front dans sa lutte pour-realiser ce qui parait impossible a realiser, pour supporter ce qui parait impossible a supporter).
Tháng 2 năm 1944, bác sĩ Frank, toàn quyền Ba Lan trở về thấy lãnh tụ gầy ốm hẳn đi, nét già và dáng mỏi mệt hiện rõ lên mặt, hào khí xưa mà Frank chiêm ngưỡng kính nể đi đâu mất hết. Đời sống dưới hầm quá lâu ngày tạo ra những tư tưởng đi xuống.
Lại thêm Martin Bormann cứ đẩy Hitler sống cho xa thực tại, sống với các yên lặng vây chặt chung quanh Hitler cùng với ánh sáng đèn đều đều làm tâm trạng bải hoải, chán nản.
Bệnh choáng váng bột phát, Hitler muốn ngủ phải uống thuốc ngủ mới ngủ được. Ông sợ nhìn tuyết phủ trắng giống như vuông vải liệm người chết.
Không quân Đức hao mòn mà không được bổ sung. Bá Linh tơi tả dưới những trận mưa bom, kỹ nghệ Đức vẫn chạy nhưng phải chạy dưới hầm hố, hao tốn và chậm chạp.
Hy vọng cuối cùng của Hitler là mâu thuẫn nội bộ đối phương sẽ nổ thành xung đột. Ông cho hệ thống gián điệp gửi tin tức về điện Cẩm Linh một số tài liệu vừa thực vừa ngụy tạo liên quan đến mật đàm hòa bình Anh-Đức đang diễn ra ở Tây Ban Nha.
Mùa hè 1944, Đức thua đậm trên mặt trận Ý. Quân Nga tiến sát biên giới Lỗ Ma Ni.
Ngày 6 tháng 6-1941, đồng minh đổ bộ vào bờ biển Pháp vùng Normandie. Ngày 17, Hitler bay qua Pháp trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Thống chế Rommel cố thuyết phục Hitler hãy chấm dứt chiến tranh trước khi quá muộn vì đồng minh hiện tại dồi dào phương tiện gấp mười lần Đức, Normandie chắc khó lòng đương đầu. Hitler gay gắt bảo Rommel nên làm tròn nhiệm vụ của mình, tiếp tục chiến tranh hay không thì đấy là việc của ông.
Thấy tướng Rundstedt có vẻ về hùa với Rommel, Hitler cất chức luôn, đặt Von Kluge lên chức tổng tư lệnh mặt trận Tây Âu.
Tình hình Normandie bấp bênh vô phương giải quyết thì quân Đức lại phải chống giữ với hai mặt trận khác, quân Nga từ Ba Lan tiến rất mau tới vùng Đông Phổ, quân Anh-Mỹ từ Ý đánh thốc lên.
Trước mặt quân đội, Hitler bây giờ là một tên khùng reo tai họa cho dân tộc Đức, cần phải trừ khử.
Ribbentrop tuyệt vọng xin Hitler giao cho mình sứ mạng điều đình với Nga. Một lần nữa, Hitler lại gạt đi vì không muốn vụ Hess thứ hai xảy ra bôi nhọ thanh danh Quốc Xã.
Tướng lãnh chống Hitler bắt liên lạc với nhau tổ chức giết “lãnh tụ tối cao”, họ đặt tên âm mưu này là “Operation Walkyrie”. Người đóng vai trò quan trọng nhất trong âm mưu là bá tước Stauffenberg.
Vào cuối tháng 6-1944, nhóm âm mưu bắt được cơ hội bằng vàng: Stauffenberg được thăng chức đại tá và đổi về bộ tham mưu của tướng Fromm tư lệnh lực lượng phòng vệ lãnh thổ Đức. Ở chức vụ này, Stauffenberg có nhiều dịp gặp thẳng Hitler. Stauffenerg bị mất một mắt, cụt một tay ở mặt trận Phi Châu.
Kế hoạch của họ lúc đầu tính làm binh biến, dùng một hay hai tiểu đoàn vây bắt Hitler. Suy tính kỹ ra thì kế này không ổn vì phải dùng nhiều người quá dễ bị lộ, hơn nữa nếu Goering, Himmler trốn thoát tất là hỏng việc. Giết một mình Hitler chưa đủ. Họ chọn kế hoạch thứ hai là đặt chất nổ giữa phòng họp tham mưu cho chết hoặc làm bị thương những tên đầu sỏ Quốc Xã, xong đâu đó quân đội mới ra tay. Chỉ có hai nơi là Hitler dùng làm chỗ họp cao cấp: đại bản doanh Rastenburg và tư thất Obersalzberg.
Đa số tướng lãnh rải rác trên toàn Âu Châu hiện tại chưa theo họ nhưng trong trường hợp mấy tướng thân cận Hitler, những người trực tiếp chỉ huy cũng chết luôn thì tình hình có thể xoay chuyển. Tuy nhiên, mục tiêu quan trọng nhất là vẫn giết cho được Hitler.
Ngày 11 tháng 7, Stauffenberg đến Obersalzberg để trình với Quốc Trưởng một số vấn đề hệ trọng, Stauffenberg mang theo cặp da đựng khối chất nổ định bụng cho nổ để mình cùng chết luôn với Hitler, Goering và Himmler.
Lúc tới nơi mới hay Himmler bật đi công tác, Stauffenberg vội chạy lại nhà tướng Olbricht hỏi ý kiến, hay chỉ là giết Hitler và Goering thôi.
Tướng Olbricht khuyên nên rời qua một ngày khác để giết cả ba.
Vào gặp Hitler xong, Stauffenberg về nói với các tướng Beck và Olbricht hôm nay ông đã bỏ mất cơ hội bằng vàng, lần sau có dịp ông sẽ cứ làm, dù chỉ giết một mình Hitler.
Ngày 15 tháng 7, Stauffenberg đến trình với Quốc Trưởng những việc hôm 11, khối chất nổ lại được nhét vào cặp. Nhóm âm mưu tin chắc thành công nên ra lệnh Walkyrie số 1 để điều động quân về sát Bá Linh chờ lệnh Walkyrie số 2 sẽ chiếm thật mau các cơ sở quan trọng. Đúng 13 giờ, Stauffenberg sách cặp vào phòng hội ở Rastenburg, Hitler đã có mặt ở đó.
Stauffenberg tìm cớ ra gọi “phôn” cho tướng Olbricht báo tin tốt đẹp cả, bên ngoài cứ việc sửa soạn. Phôn xong trở lại phòng họp thì Hitler vừa đi khỏi. Hốt hoảng, Stauffenberg điện thoại gấp về Olbricht bảo hủy bỏ ngay lệnh Walkyrie, để chậm là chết cả lũ.
Thất bại lần thứ hai khiến nhóm tướng lãnh âm mưu lo lắng, họ muốn đổi giải pháp. Goerdeler đề nghị Beck hãy sang Paris gặp tướng Von Kluge tìm cách bắt tay với Anh-Mỹ để ngưng tấn công, để Đức mang toàn lực sang mặt trận phía đông tiêu diệt chủ nghĩa bôn sê vích.
Beck, đầu óc sáng suốt nói: “Giải pháp tìm hòa bình riêng với Anh-Mỹ là ảo tưởng. Anh-Mỹ không bao giờ tin nếu Hitler chưa chết và chế độ Quốc Xã chưa sụp đổ. Vì thế vấn đề phải giải quyết trước nhất là phải giết Hitler lật đổ chế độ Quốc Xã bằng mọi giá”.
Stauffenberg theo ý kiến tướng Beck.
Sáu giờ sáng ngày 20 tháng 7-1944, đại tá Stauffenberg sách cặp ra trường bay đi đến đại bản doanh của Quốc Trưởng.
Buổi họp được khai mạc đúng 12 giờ.
Lúc 12 giờ 42 phút, trái bom nổ long trời. Trước đó chừng 5 phút, Stauffenberg đã thoát ra ngoài.
Khi bom nổ, Hitler đang chăm chú ngồi nghe một vị tướng thuyết trình.
Stauffenberg quay lại nhìn thấy khói và lửa bốc cao, xác người tung ra ngoài, phòng họp tan tành. Stauffenberg chắc chắn không một ai có mặt trong phòng hội thoát chết.
Mừng rỡ Stauffenberg vội báo tin hoàn toàn thành công cho đồng bọn, chuyển Walkyrie sang giai đoạn 2.
Nhờ lanh trí, giỏi bịp bợm, nhờ lũ quân canh khờ khạo, nhờ cấp bậc đại tá và bộ mặt quen biết, Stauffenberg mới ra khỏi đại bản doanh để lên máy bay về Bá Linh. Ruột nóng như lửa đốt, Stauffenberg cảm thấy giờ dài bằng mười năm.
Máy bay vừa hạ cánh xuống Bá Linh, Stauffenberg đã sấp ngữa liên lạc với tướng Olbricht xem quân ta đã làm được chủ tình thế chưa? Bên kia đầu giây trả lời chưa làm gì hết khiến Stauffenberg hết sức ngạc nhiên. Olbricht cho hay Walkyrie phải dừng lại vì không có một tin tức nào về cái chết của Hitler, chết rồi hay chưa chết? Bị thương hay không? Tất cả đang chờ Stauffenberg về.
Trái hẳn với sự dự đoán của Stauffenberg, Hitler không chết chỉ bị vài vết xây xát không đáng kể. May nhờ đại tá Brandt vô tình xách chiếc cập da của Stauffenbert vứt trên một cái bàn bỏ trống ở cuối phòng cách xa chỗ Hitler ngồi.
Bom nổ, Hitler bị xém một mảng tóc, bỏng chân, bầm tím nơi tay, ù tai, đằng lưng áo rách. Keitel là người ôm Quốc Trưởng ra khỏi gian phòng, mặt Keitel đầy tro bụi, tóc bốc khói, quần áo tã tơi và cũng may không hề hấn gì. Nhưng tất cả những ai ngồi gần chiếc bàn trống nơi cuối phòng đều bị chết hoặc bị thương nặng.
Việc điều tra thủ phạm vụ mưu sát không khó vì Stauffenberg đã để lại dấu vết trên mấy quyển sổ ghi tên những người ra vào, ghi giờ phút đến, đi tại ba trạm gác. Rồi từ đó, những người có mặt tại buổi hội mới nhớ ra Stauffenberg để lại chiếc cặp giết người đó.
Buổi tối, đài phát thanh loan đi tiếng nói quen thuộc của Hitler:
“Các bạn hữu người Đức!
Hôm nay tôi nói chuyện với các bạn, trước hết là để các bạn nghe tiếng nói của tôi để biết rằng tôi không sao cả, sau là để các bạn hay một tội ác dơ bẩn nhất lịch sử Đức.
Có nhóm người nhỏ nhoi đầy tham vọng, vô trách nhiệm, đã âm mưu ám sát tôi và bộ tham mưu tổng chỉ huy quân đội.
Trái bom do đại tá Stauffenberg đặt nổ cách tôi hai thước làm bị thương nặng một số người cộng tác thân tín trung thành của tôi, có một người đã chết. Tôi hoàn toàn vô sự, chỉ bị xây sát soàng với vài vết phỏng nhẹ, chứng tỏ quyết tâm của Thượng Đế vẫn bảo vệ sinh mạng tôi.
Bọn người âm mưu thoán đoạt rất ít ỏi, chúng chỉ là vài phần tử bất hảo, chúng sẽ bị trừng phạt không nương tay.
Từng lời, từng lời của Hitler như từng nhát búa bổ vào đầu những người nhúng tay trong âm mưu.
Tâm lý Quốc Xã vốn là tâm lý kết tinh bởi lòng thù hận. Thù hận càng thêm nung nấu đối với bọn người dám định hạ một đòn chót cho chế độ Quốc Xã đang xuống dốc.
Hitler làm đúng như ông nói là trừng trị không nương tay.
Ngày 7 tháng 8-1944, tòa án nhân dân họp tại Bá Linh để xử vụ mưu sát Quốc Trưởng, trên hàng ghế tội nhân có:
- Thống chế Von Witzleben.
- Tướng Hoepner, Stieff, Von Hase.
- Sĩ quan: Klausing, Bernadis, Yorck, Watenburg.
Tất cả trông tiều tụy, không ai được mang dây lưng thành thử hai tay cứ phải ôm lấy quần trông rất thảm thương. Thống chế Witzleben miệng móm, vêu vao vì hàm răng giả của ông đã bị đập vỡ.
Chưởng lý Freisler chỉ vào mặt thống chế nói lớn: “Lão già bẩn thỉu kia không biết lễ độ hả, vào chổ này mà hai tay còn ôm quần ư? “
Phiên tòa cứ thế mà kéo dài để quan tòa tìm đủ cách hạ nhục phạm nhân. Goebels cho quay phim từng chi tiết vụ xử án.
Phiên tòa chấm dứt bằng một bản án với mấy chữ: “Xử chết treo như loại trâu bò”.
Một giờ sau khi tuyên án, tám can phạm bị đưa vào gian phòng nhỏ của nhà tù Ploetzensee, đưa cổ vào chòng lọng làm bằng dây đàn dương cầm. Máy quay phim chụp các can phạm đang chới với giữa khoảng không, quần chụt xuống.
Đấy mới là đợt đầu. Còn đợt hai đợt ba và nhiều đợt nữa, lần lượt các tướng khác ít nhiều có dính líu đến âm mưu đều bị treo cổ hết. Chỉ có vài ba người chạy thoát được. Tổng số tướng là 20 vị, sĩ quan hơn 100, tổng số người bị xử tử là 1.980.
Ngày 17 tháng 8, Hitler cử thống chế Walther Model tới thay tướng Von Kluge vì Hitler nghi Kluge cũng ở trong phe phản nghịch. Kluge biết số phận sẽ ra sao nếu không sớm tự xử. Ông lên xe về nhà, đi dọc đường nuốt trọn gói thuốc độc cyanure.
Sau này, người ta tìm thấy trong hồ sơ quân đội Đức lá thư của Kluge gửi cho Hitler, lời lẽ như dưới đây:
“Khi ngài đọc những dòng này thì tôi đã từ giã cõi đời. Sống hay chết vô nghĩa đối với tôi… Cả tôi và Rommel từng tiên liệu từ lâu tình trạng rồi sẽ như bây giờ nhưng ngài chẳng bao giờ thèm nghe.
Tôi không hiểu thống chế Model đầy kinh nghiệm chiến trường có thể làm chủ đươc tình thế hay không. Nếu không thì lời cuối cùng của tôi là xin ngài hãy chấm dứt chiến tranh. Dân tộc Đức đến nay đã phải chịu nhiều đau khổ chồng chất, bây giờ chính là lúc cần ngừng cơn ác mộng đó.
Tôi vẫn hằng kính phục chí lớn của ngài nhưng nếu định mệnh mạnh hơn thì âu cũng là ý muốn từ nơi Thượng Đế, tôi xin ngài một lần nữa hãy chuyển chí lớn ấy vào nỗ lực chấm dứt cuộc chiến đấu vô vọng của chúng ta hiện thời”.
Sau Kluge đến lượt thống chế Rommel. Vì đại tá Hofacker không chịu nổi hình phạt tra tấn của Gestapo nên đã khai thống chế Rommel cũng có nhúng tay vào âm mưu ám sát Quốc Trưởng.
Rommel là một vị tướng danh tiếng được dân tộc Đức khâm phục. Nếu bắt ông thì dư luận sẽ bất lợi cho chế độ. Riêng Hitler lại rất trọng nể Rommel nhưng khi đọc lời khai của Hofacker đến đoạn Rommel bảo Hofacker rằng: “Hãy nói với dân chúng Bá Linh, họ có thể tin cậy nơi tôi”. Hitler khó chịu và quyết định tiết Rommel.
Hitler bảo Keitel nếu Rommel tự sát để khỏi phải đưa ra tòa án thì sẽ làm lễ quốc táng cho Rommel. Chẳng biết Keitel có nói lại ý đó hay không. Mấy ngày sau Rommel chết vì bị chẩy máu trong óc.
Theo thông cáo chính thức, vị thống chế thân yêu của Đức đã chết bởi vết thương ở đầu tại mặt trận Pháp. Hitler gọi giây nói phân ưu với bà quả phụ Rommel:
“Tôi đau đớn chia buồn về cái chết của thống chế, một vị anh hùng mãi mãi được dân Đức nhớ ơn”.
Lễ quốc táng Rommel rất lớn.
Tướng Rundstedt đọc điếu văn: “Trái tim thống chế nay đã quấn vào tâm hồn Quốc Trưởng…”
Đầu tháng 8-1944, phòng tuyến Pháp bị phá thủng, quân Đức phải rút khỏi đất Pháp Bỉ. Kho xăng Lỗ Mã Ni lọt vào tay Nga. Kỹ nghệ Đức tê liệt. Quốc Xã động viên toàn lực dân chúng, từ 16 đến 60 tuổi có thể bị xung vào quân ngũ bất cứ lúc nào.
Sức khỏe Hitler suy yếu ghê gớm, bệnh đầu choáng váng chuyển thành chân tay run lẩy bẩy, nhất là tay trái và chân trái. Ông phải chống gậy nhưng ông cấm tuyệt đối không cho chụp một bức hình nào ông cầm gậy trong tay. Vì chích Strychnine và uống Atigaz nhiều quá nên thuốc gây độc cho cơ thể, tóc bạc trắng, lưng còng tuy nhiên, Hitler vẫn làm việc như điên không chịu nghỉ. Cả đêm Hitler xem xét và thúc đẩy hai dự án mới: hỏa tiễn V2 và tầu ngầm tối tân, ông chứa chan hy vọng dùng hai thứ võ khí mới để lật ngược tình thế.
Tháng 12 năm 1944, Hitler thu thập nhặt nhạnh lực lượng ném ra một trận phản công trên chiến trường phía Tây. Phản công thất bại, những sư đoàn còn lại đã nướng hết vào ván bài chót.
Ngày 1 tháng 1 năm 1945, Hitler qua bài phát biểu, với giọng vui mừng tuyên bố về phép lạ của thế kỷ 20, Quốc Xã phục sinh trong cảnh hoang tàn.
Dân chúng nghe mỉm cười mai mỉa. Họ nghĩ rằng lãnh tụ của họ hết thời rồi và đang hóa điên, sống với những ảo giác.
Đại sứ Nhật gặp Hitler đề nghị Nhật sẽ đứng vai trò môi giới để Đức ký với Nga hiệp ước hòa bình xé lẻ (paix séparée).
Nga bằng lòng thừa nhận biên giới Đức của năm 1937, một phần lớn nước Áo sát nhập Đức quốc, nhưng Nga đòi xứ Boheme và Moravie. Đề nghị này càng làm cho Hitler tin rằng kẻ thù của ông cũng đang kiệt quệ, nước Đức chỉ cần cố gắng thêm chút nữa là nắm chắc phần thắng.
Hạ tuần tháng 1-1945, đợt tổng tấn công mới của Nga chiếm trọn Tây Ba Lan, xứ Silesie và toàn khu vực Đông Thổ. Quân Đức không còn máu mà chảy nữa.
Hitler vội vã trở về Bá Linh, dinh Quốc Trưởng đổ nát vì bom nên phải làm việc dưới hầm bê tông cốt sắt.
Tháng 2-1945, Anh Mỹ vượt sông Rhin để mở đường đánh thẳng vào Bá Linh, nhiều cánh quân Đức bị bao vây ở hạt Ruhr. Hitler hạ lệnh tiêu thổ, để tiếp tục chiến đấu.
Thấy Röhm và tập đoàn hoành hành, tổng trưởng Nội vụ của chính phủ Bavière tìm cách ngăn chận, ông cho điều tra các vụ đồng tình ái của Röhm rồi cho báo đăng một tập thư gửi cho ‘‘người tình đực rựa’’ của vị tham mưu trưởng S.A.
Hitler cho gọi Röhm đến để hỏi về những tai tiếng xấu xa đó. Röhm nhận hết, bào chửa rằng ông thuộc loại ‘‘ bi- sexuel’’.
Tuy bực tức nhưng Hitler vẫn tìm cách che chở cho Röhm vi lẽ nếu bỏ Röhm thì đoàn S.A. chắc sẽ tan rã. Vả lại chung quanh ông biết bao kẻ thù đang rình rập mưu ám hại, ấy là chưa kể các đồng chí thân thiết cũ Strasser, Drexler, Pfeffer v.v… bây giờ là địch nhân một mất một còn với ông.
Röhm và tập đòan hung dữ, man rợ nhưng tuyệt đối trung thành. Mà chúng hung dữ với ai? Với bọn cộng sản thì còn gì còngì cần thiết hơn nữa. Cộng sản cũng
hung dữ man rợ không kém đối với đảng viên quốc xã, Hitler nghĩ vậy.
Nạn thất nghiệp mỗi ngày thêm trầm trọng từ 3 triệu người lên 5 triệu nguời trong khoảng thời gian chưa đến nửa năm. Cả một đạo quân đói rách vĩ đại đang chờ đợi chính phủ phải giải quyết cách nào cho có đủ cơm ăn. Trước quốc hội, uy thế thủ tướng Bruning tụt xuống thảm hại. Ông ta gần như bị đẩy vào con đường cùng. Cả tả lẫn hữu đều công kích dữ chính sách Bruning trên mặt kinh tế và đối ngoại. Ông ta cứ phải đi đây mãi và bắt đầu thấy mệt mỏi, mất thăng bằng.
Các quốc gia tư sản Âu Châu vừa lo sợ lại vừa tin tưởng vào phong trào Quốc xã. Họ lo sợ tính chất quá khích của Hitler, họ tin cậy hiệu quả tiểu trừ cộng sản của Quốc Xã, thành thử họ chẳng làm gì để nâng đở chính phủ cộng hòa Bruning.
Được trớn, Hitler lợi dụng luôn vụ tướng Groner, tổng trưởng quân lực cộng hòa cấm quân đội không được gia nhập đảng Quốc xã vì lý do quân đội không làm chính trị và đã đưa ba sĩ quan: Scheningern Ludin và Wendt ra tòa về tội bất tuân lệnh. Hitler cử Hans Frank làm luật sư biện hộ cho bị can đồng thời cũng chính mình ông ra tòa với tư cách nhân chứng.
Trước tòa, Hitler đả kích nguyên tắc bắt quân đội tách rời chính trị. Ông nói:
‘‘Xin các ngài hãy nhìn sang một quốc gia khác, ở đấyquân đội có quan niệm thức thời hơn các ngài. Ở đấy tháng 10-1922, một số người, chỉ Mussolini đã lên nắm chính quyền đoạt từ tay bọn ăn cướp mà quân đội Ý không hề nói:’‘ Chúng tôi có nhiệm vụ phải giữ trật tự và hòa bình’’. Trái lại, quân đội Ý còn tuyên thị rằng: ‘‘Chúng tôi có sứ mạng bảo vệ tương lai dân tộc’’. Quân đội dứt khoát từ bỏ các đảng phái thối nát phá hoại để kết hợp hành động với đảng mang sức mạnh vũ bảo của toàn dân cũng sẵn sàng bắt tay với quân đội để bảo vệ tương lai đất nước. Còn tại quốc gia chúng ta, có biết bao nhiêu sĩ quan vẫn đang quanh quẩn với thắc mắc vẩn vơ về sự trung thành với những kẻ lúc nao cũng tìm mọi cách làm cho tan rã quan doại? Chiến thắng nào thì cũng phải phần lớn trông cậy vào sức mạnh quân sự dù là chiến thắng của Mác xít hay chiến thắng của chúng ta. Nếu tả phái thắng nhờ ở thái độ khống thiên vị của quý ngài, tức là quý ngài đã làm cái công việc tự đào lấy mộ chôn mính. Bởi vì, thư quý ngài, rồi đây quý ngài sẽ buộc phải làm chính trị khi mà chiếc ‘‘casquette’’ màu đỏ đã ấn lên đầu. Quý ngài rất có thể sẽ là các chính ủy, một loại đao phủ thu của chế độ, quý ngài từ chối ư? Vợ con quý ngài sẽ bị vứt vào nhà tù, sau đó quý ngài trễ nải hoặc kém cỏi với công tác ư? Thì quý ngài sẽ bị đuổi ra hoặc đem đến pháp trường’’.
Nói thì nói vậy, chủ trương chiến lược của Hitler vẫn không thay đổi, ông cố bám chặt lấy cái hợp pháp và nỗ lực tranh thủ quân đội về phe mình, ông tiếp lời:
‘‘Đoàn xung phong S.A được trổ chức với mục tiêu duy nhất là bảo vệ đảng trong công tác tuyên truyền chứ hoàn toàn không để chiến đấu như một lực lượng chống nhà nước. Bản thân tôi đây đã từng phục vụ quân đội cho nên tôi phải hiểu hơn ai hết. Một tổ chức chính trị không thể nào đương đầu với lực lượng quân kỷ nghiêm minh là quân đội. Tôi luôn luôn ngăn chống việc để cho tổ chức S.A có những hành động và tính chất như quân đội. Tôi đã minh thị nhiều lần rằng tất cả mọi mưu định thay thế quân đội đều vô nghĩa, vô ích. Chẳng ai trong tổ chức chúng tôi muốn thay thế quân đội. Ước vọng của tôi chỉ là chính quyền Đức và dân tộc Đức phải hòa vào với nhau bằng một tinh thần mới. Bởi vậy hành động làm tan rã quân đội, theo tôi nó hoàn toàn điên dại. Chúng tôi không thấy có một lợi nào bên cạnh sự giải thể của quân đội.’’
Quan tòa ngắt lời Hitler rồi đưa ra nhận xét cho rằng đảng Quốc Xã xuyên qua bao việc làm từ trước tới nay khó mà thực hiện lý tưởng qua lề lối hợp pháp.
Hitler bác bỏ nhận xét trên nói:
‘‘Vấn đề đó thì lệnh của tôi cùng nguyên tắc căn bản của tôi sẽ giải quyết nếu có điều nào gây xung đột với luật pháp, điều đó sẽ không đem áp dụng, tôi sẽ trừng phạt kẻ nào bất tuân kỷ luật đảng. Nhiều đảng viên cao cấp của đảng đã bị khai trừ vì lý do kỷ luật như Oto Strasser chẳng hạn..’’
Ông chánh án hỏi:
‘‘ Tôi chưa rõ quan niệm của ông về cách mạng dân tộc.’’
Hitler trả lời:
"Theo quan niệm Quốc Xã, mấy chữ cách mạng dân tộ có nghĩa là một cuộc nổi dậy của dân tộc Đức đang bị áp chế. Phong trào Quốc xã đại biểu cho cuộc nổi dậy đó nhưng nó không cần phải sửa soạn cho nổi dậy bằng những phương tiện bất hợp pháp. Chủ trương Quốc xã là tạo dựng cách mạng tinh thần cho dân tộc Đức cho nên không cần phải bạo động. Một ngày kia toàn dân Đức sẽ biết lý tưởng của chúng tôi, vã ngày ấy hơn năm mươi triệu người Đức sẵn sàng đứng vào hàng ngũ Quốc xã".
Những năm 1931 -1932, đảng Quốc Xã lảnh đạo bởi 3 người: Hitler, Röhm, Gregor Strasser (bây giờ thần phục hoàn toàn), Goering. Goebbels và Flick.
Địa vị của Röhm khá quan trọng, vì có nhiều liên hệ quân đội để móc nối lại là người rất tài tổ chức.
Goering giữ việc ngoại giao, vận động xã hội thượng lưu Đức cho đảng.
Goebbels phụ trách công tác chinh phục Bá Linh.
Gregor Strasser điều khiển chính trị họ.
Frick điều hành đảng vụ.
Ngoài ra còn có Walther Darré chuyên viên về vấn đề nông dân. Baldur Von Schirach thủ lãnh thanh niên ‘‘Hitlérienne’’. Hess bí thưn Schwarz thủ quỹ đảng, Boudler chuyên viên về thương mại của đảng, Hans Frank coi nghành tư pháp, Otto Dietrich liên lạc báo chí, Max Amann trông coi xuất bản văn hoá đảng.
Báo chí ngoại quốc liên minh tới phỏng vấn Hitler do sự môi giới của bác sĩ Hanfstaengl, mỗi lần phỏng vấn nhà báo phải trả cho Hitler một ngàn đô la. Bài phỏng vấn quan trọng nhất là bài của tờ Daily Express (Anh) do Lord Beaverbrook đích thân đến Munich.
Qua báo chí quốc tế Hitler trình bày với thế giới chính sách tư tưởng mềm dẻo, yêu chuộng hòa bình của đảng Quốc Xã để thế giới yên lòng. Mọi hành động cứng rắn đều chỉ nhằm vào việc chống chủ nghĩa bôn sê vích. Hitler chú ý đến tòa thánh và thế lực công giáo nên phái Goering qua La Mã (tháng 5-1931) gặp Đức Giáo Hoàng trước khi gặp Mussolini để Đức Giáo Hoàng biết rằng nếu có vài việc đáng tiếc xảy ra đối với công giáo thì cùng in hệt Mussolini đã bài xích chính sách tầm thường của đảng dân chủ Thiên chúa giáo mà thôi.