- 8 -
Bữa cơm mẹ đẻ ra bữa cơm con, Quí được ông Giám, một giáo sư y-khoa mời ăn cơm ở nhà ông, hôm chàng ngồi gần ông nầy trong bữa đại yến ở biệt-thự sau hồ tắm Chi-Lăng.
Giáo-sư Giám đã nghe chàng nói về hội-họa và thích lối vẽ của chàng nên muốn nhờ chàng vẽ cho một bức tranh tĩnh vật thật to, treo ở phòng ăn.
Vì thế mà có bữa cơm nầy, để họa-sĩ xem lại tận mắt khung cảnh và kích thước của bức tường.
Chàng đến được năm phút, chỉ mới nói vài câu chuyện xã giao với ông Giám, thì một ông khách khác bước vào.
Quí đứng lên chào ông nầy và được giới thiệu đơn phương với ông ta. Chàng trẻ tuổi quá lại vô danh, nên chủ nhà quên giới thiệu ông khách cao niên với chàng. Chàng chỉ nghe chủ nhà gọi ông ây là: « Anh Dương » thôi.
Giữa tuần khai vị, chủ nhà rủ « Anh Dương » ấy cùng đi nghỉ mát ở Đàlạt cho vui, ông Dương đáp:
– Rất tiếc, nhưng tôi phải đi Bạc-Xa-Lôn cuối tuần nầy.
– Vậy à? Công cán hả?
– Đại hội « Hạch-lý-học quốc-tế 1961. »
– Anh đi chừng bao lâu mới về?
– Đại hội chỉ kéo dài có hai tuần lễ thôi. Nếu chỉ có thế thì vừa đi vừa về, tốn hăm mốt ngày là cùng. Nhưng sau đó, chúng tôi lại phải đi Tây-Đức để liên lạc với giới Vật-Lý tổng-quát bên ấy. Chắc ít lắm cũng phải vắng nhà hai tháng.
Quí cố đoán xem ông khách là ai, nhưng chịu là không thể biết được. Một điều chắc chắn là ông ta là một nhà khoa học và chuyên riêng về khoa hạch lý. Giới khoa học không được làm quảng cáo rùm beng như giới cầu tướng đá banh chẳng hạn, nên chỉ một giáo sư khoa học lỗi lạc cũng chẳng được đại chúng biết tên tuổi bằng một cây vợt bóng bàn.
Cơm đã dọn lên. Chủ nhà mời khách và bấy giờ mới day qua nói chuyện với Quí, bông đùa một câu:
– Mong anh lại được một khách hàng thứ nhì hôm nay, nhưng ông Khoa-truởng đây chỉ thích những bức tranh vẽ những ly-tử chạy lạc thôi.
Cả bàn cười xòa và bấy giờ chàng mới hay ông Dương là Khoa-trưởng Khoa-học Đại-học, tức là ông « xếp » trực tiếp của Hòa. Ông Dương khiêm tốn nói:
– Địa hạt của chúng tôi khô cằn quá, không gợi hứng cho các nhà nghệ sĩ được bao giờ. Tôi chắc không ai mà viết một bản nhạc để ca ngợi hạch-lý-học nó có vẻ gì khô khan và man rợ.
Quí cãi:
– Thưa ông, chiếc nấm nguyên tử cũng là một để tài hay cho hội họa.
– Ông có mỉa mai hay không? Chiếc nấm nguyên tử chỉ gợi ý tang tóc thôi.
– À, nè anh Dương – bà Giám hỏi – anh vừa nói khi nãy « chúng tôi », tức là chị Dương cũng sẽ đi với anh hả?
– Vâng, vợ tôi cũng được chính phủ đài thọ cuộc xê dịch nầy, theo truyền thống Âu-Châu, nhưng tôi lại muốn nói đến một người thứ nhì sẽ cùng đi với tôi. Phái-đoàn Việt-Nam gồm hai nhà khoa học.
– Ai đó vậy?
– Cái mới là rắc rối. Ông Viện-trưởng ông chỉ định tôi, còn người thứ nhì thì tìm mãi chưa ra vì ai cũng bận việc cả, những người ông chọn, đều từ chối.
Một tia sáng bỗng loé ra nơi trí Quí. Chàng hỏi:
– Thưa ông Khoa-trưởng, cái người thứ nhì ấy, phải có điều kiện gì mới được đi?
– Thì cố nhiên phải là một nhà khoa học, nói thật đúng ra, phải là một nhà vật-lý-học.
– Có cần phải lỗi lạc lắm không, thưa ông Khoa-trưởng?
Ông Dương mỉm cười:
– Cố nhiên là cần. Nhưng nước ta chưa đủ cán bộ thì xoàng như tôi cũng được đi, chớ biết làm sao.
Không ai nói gì, nhưng trong bụng ai cũng nghĩ rằng ông Dương quá nhún nhường. Ông là một nhà khoa học đã nổi tiếng hồi còn ở bên Pháp.
Quí do dự một lát rồi ấp-úng hỏi:
– Thưa… ông Khoa-trưởng… có… một ông… phụ
– Có.
Ông ta mỉm cười nhìn Quí mà hỏi:
– Ông muốn ám chỉ ai?
– Thưa ông Khoa-trưởng, cỡ như ông giảng nghiệm viên Hòa, ông ấy có đủ khả năng dự đại hội đó không?
Ông Dương thừ người ra giây lát rồi cười lớn lên và nói:
– Trời, sao chúng tôi lại ngốc thế? Cứ tìm mãi trong giới giáo sư! Ừ, Anh Hòa, anh ấy nhiều khả năng và tương lai lắm, xứng đáng làm phái đoàn viên lắm. Được, để tôi gợi ý cho ông Viện-trưởng. Ông Hòa là bạn của ông?
– Thưa không. Tôi chỉ nghe tiếng ông ấy thôi, nên hỏi vậy, chớ tôi không quen với ông ấy bao giờ.
Ông Dương trầm ngâm giây lát rồi than:
– Nước ta nghèo, không đủ phương tiện cho những người như anh Hòa nghiên cứu tìm tòi… Ừ, tôi sẽ cố gắng nói giúp cho anh ấy được đi.
☆
Hôm nay bộ máy đồng hồ Hòa bị trục trặc. Chàng về sớm hơn mọi ngày đến mười phút.
Mọi khi thì lúc chàng về gần tới nhà, Thu đã nấu ăn gần xong, giao cho con nhỏ ở coi chừng rồi tắm rửa cho Lan-Chi và thay y phục cho cả hai mẹ con để cùng nhau ra đường đón chàng. Nhưng vì sự trục trặc ấy mà nàng hành động không ăn khớp được với Hòa.
Nàng chỉ mới gội đầu cho con trong nhà tắm thì đã nghe tiếng chồng ở ngoài:
– Thu ơi!
– Dạ.
– Lan-Chi ơi!
– Dạ, con đây ba, con tắm để đi rước ba đây,
– Ba đã về rồi.
– Hổng thèm đâu. Ai biểu ba về trước khi con tắm xong, làm con hổng được rước ba.
– Bữa nay khỏi rước.
Lan-Chi khóc lên rồi khóc mù. « Rước ba » là một trò tiêu khiển không có không được. Hai mẹ con tối ngày lúc thúc ở nhà hủ-hỉ với nhau, chỉ có dịp « rước ba » vào buổi chiều là nó thấy trời thấy đất, thấy xe, thấy người. Làm cho nó hụt buổi rước ba, nó tức lắm là phải.
– Thôi được, – Hòa hiểu ý con, kêu với vào mà dỗ. – Con tắm xong, ba sẽ đi một vòng rồi về cho con rước.
Nghe vây, Lan-Chi mới chịu nín cho. Thu băn khoăn không biết chồng về bất thường như vậy là lành hay dữ. Đối với người khác thì trễ một tiếng đồng hồ, sớm nửa tiếng đồng hồ là sự thường, nhưng Hòa đúng giờ, đúng khắc, đều đặn quá mức nên sai một phút là nàng nghe lo, cũng như nàng đã thường phải sợ hãi một khi Hòa về trễ một phút đồng hồ, nghĩ ngay đến tai nạn xe cộ rất dễ xảy ra trong thời buổi nhiều xe nầy.
Vì lời hứa với con nên Hòa chỉ cởi giày ra thôi, không thay đồ mát. Chàng bước xuống mở cửa nhà tắm, nhìn hai mẹ con mà cười.
– Tắm mau mau cho con đi nhá, kẻo ba đợi.
– Không, con cứ tắm thong thả đi chớ.
Thu hỏi chồng:
– Sao nay anh về sớm được?
– Anh không ghé thư viện như mọi lần. Như vậy đáng lý về sớm hơn nhưng vì phải nói chuyện với ông Viện-trưởng hơi lâu, nên thật ra là về trễ đây.
Thu đã tắm con xong. Nàng chẫm rãi lau Lan-Chi nhè nhẹ, bỗng nghe chồng nói:
– Thu ơi, ta có tin mừng.
– Vậy à? Tin gì?
– Em đoán thử xem.
– Trúng số?
– Bữa nay đâu có xổ số.
– Anh phát minh được cái máy treo mùng?
Hai vợ chồng cười xòa với nhau. Hòa rất ghét bỏ mùng lúc chàng còn thức. Nhưng khi mỏi mòn gần thiếp thì không có can đảm đứng dậy để làm công việc đó nữa. Thu thì đêm nào cũng ngủ sớm hơn chàng, không thể thức mà đợi mãi kẻ mê sách, để mà phục dịch hắn vào lúc chót. Thành thử chàng hay ao ước bâng quơ một cái máy gì mà bấm nhẹ vào một cái nút thì máy được huy động để thay cho kẻ buồn ngủ hầu buông mùng xuống.
Thu không còn biết đoán gì nữa, vì đời của hai vợ chồng không có gì vui buồn cho lắm, cả hai đều không mong đợi một tài sản nào để thừa tự, Hòa cũng chẳng còn thi cử gì nữa, trừ cái bằng tiến sĩ, nhưng chuyện ấy còn lâu.
– Em xin chịu thua đó.
– Lát nữa anh nói cho nghe.
– Còn treo em làm chi? Anh nói kẻo em nóng lắm..
– Dài quá, nói không hết ngay được.
Lan-Chi đã được mặc quần áo. Hòa ẵm con lên hôn, cho vợ rảnh tay để thay y phục cho chính nàng. Chàng nói nựng với con.
– Lan-Chi có nhớ ba hông?
– Nhớ lắm.
– Ở nhà má có đánh Lan-Chi không?
Lan-Chi mếu máo mét:
– Có ba à.
– Sao má đánh Lan-Chi?
– Khi không má đánh.
– Nói láo, má cưng Lan-Chi còn hơn ba cưng nữa. Khi không, không bao giờ má lại đánh Lan-Chi,
Bí lối, Lan-Chi giận dỗi, hờn ba đã không tin nó, còn bắt nó khai sự thật ra nữa. Hòa lại phải dỗ:
– Má mặc áo rồi kìa, Lan-Chi đi hóng mát với má với ba nha.
– Sướng a!
Lan-Chi muốn nhảy lên, nhưng ba đang ôm chặt nó, nó cục cựa không được. Trông Lan-Chi như con chim sắp sổ lồng. Thu vừa bước ra khỏi nhà tắm, mỉm cười hỏi:
– Đi chơi mát, hay đi rước ba?
– Đi hai thứ hết. – Lan-Chi đáp.
– Tham lắm đa nhe cô.
Thu véo vào má con nhè nhẹ rồi đưa má nàng bảo:
– Hôn má một cái.
Bé hôn má kêu đánh chụt rồi day qua hôn ba cũng kêu to như vậy.
– Thôi Lan-Chi xuống đất mà đi, không được bắt ba ẵm nữa. Để ba còn tắm chớ.
– Không, hôm nay anh tắm trễ. Ta đi dạo mát một vòng, anh nói cái nầy cho em nghe.
Nãy giờ Thu ngỡ chồng gạt con cho nín. Giờ hay là đi thật, nàng cũng mừng rối rít. Đưọc đi ra ngoài với chồng là nàng thích rồi, không cần đi đâu xa, không cần xem cái gì hết.
Hòa đã đem xe vào nhà khi nãy, và họ thả bộ lên hướng Cầu-Mới. Lan-Chi đi giữa đưa tay lên cho ba má nắm như còn bé lắm, mới tập đi và chưa vững bước.
Hòa muốn nói ngay với vợ cái tin báo trước nãy giờ và Thu cũng muốn nghe ngay cho đỡ sốt ruột. Nhưng con chim non Lan-Chi vừa sổ lồng nói líu-lo không ngớt miệng, hỏi đủ thứ chuyện, ba má trả lời đã mệt mà nó chưa cho miệng nó kéo da non.
Cũng may là qua khỏi cầu là nó mỏi chơn, bắt ba ẵm. Ba giao điều kiện hễ ba ẵm là nó phải làm thinh. Chi-Lan nhận điều kiện và Hòa mới chuyện trò được với vợ.
– Em nè, hồi chiều nay, hết giờ giảng, anh sắp sửa bước qua thư viện của phân khoa để chọn vài quyển sách thì được một cú điện thoại của ông Viện- trưởng gọi anh lên văn phòng của ổng.
– Chắc anh được ban khen giảng bài hay?
– Không, anh không có tài như em tưởng đâu. Ông Viện-trưởng ta là một nhà bác-học đã nổi danh hồi ông còn ở Ba-ri, ổng đã thấy không biết bao nhiêu nhơn tài bên ấy thì anh có nghĩa gì đâu đối với ổng. Được gọi, anh chỉ lo bị quở đã làm không xong phận sự thôi. Khi anh bước vào văn phòng của ổng thì ổng mời ngồi rồi đột ngột hỏi anh đã có gia thất chưa. Anh đáp: “Thưa ông Viện-trưởng, tôi có vợ và một con.”
– Thôi em biết rồi, ổng muốn cho anh làm phò mã chớ gì. Chắc anh làm ổng thất vọng lắm.
– Bậy mà, ổng còn trẻ, chưa tới bốn mươi.
– Chắc ổng băm bảy. Vậy con gái ông có thể được mười bảy, tức là đã tới tuần cập kê. Hồi anh cưới em, em cũng chỉ mới mười bảy thôi.
– Bậy. Để anh nói hết cho nghe. Anh đáp xong, ổng nói:
« Tháng tới tại Bac-Xơ-Lôn có Đại-hội thế-giới về Hạch-lý-học. Việt-Nam được mời tham dự. Tôi đã chỉ định nhiều người mà họ bận cả trừ ra ông Khoa-trưởng Khoa-học Đại-học thôi. Tôi đang tìm một người nữa thì ông nầy giới thiệu ông với tôi. Tôi xem lại hồ sơ của ông thì thấy ông xứng đáng đi dự Đại-hội ấy.
« Đây chỉ là một hội-nghị khoa-học thôi, nhưng cũng có tánh cách ngoại giao phần nào vì phái đoàn Việt-Nam sẽ sang Tây-Đức với một sứ mạng văn hóa. Và theo truyền thống ngoại giao Âu-Châu thì những người đi công cán cần mang vợ con theo. Vậy nếu ông đi thì đi cả gia đình. Chánh phủ sẽ đài thọ tất cả chi phí về xê dịch và ăn ở hai nơi ấy trong vòng hai tháng rưỡi. Nếu có ghé đâu khác thì cá nhân du khách phải tự-lực tự-túc bằng tiền riêng của mình. Ông bằng lòng đi hay không? »
Anh ngồi suy nghĩ mãi mà không biết phải đáp thế nào vì đó là một đề nghị đột ngột nó bắt chợt anh thình lình. Rốt cuộc anh nói với ông Viện-trưởng để anh về hỏi em lại.
Thu cười ngất mà rằng:
– Hỏi lại vợ là một chuyện xấu lắm, anh không sợ ổng cười hay sao?
– Không, người Âu-Châu luôn luôn hỏi ý vợ về mọi việc, ông ấy ở Âu-Châu rất lâu, đã nhiễm thói tục bên ấy rồi. Hỏi vợ là một hãnh diện. Ổng căn dặn phải trả lời nội trong hăm bốn tiếng đồng hồ để ổng còn gởi đề nghị lên Chánh-Phủ và nếu trên ấy chấp thuận thì người ta còn phải làm giấy tờ và mình còn phải xin thông hành nầy kia. Vậy em tính lẽ nào?
Thu vui mừng trông thấy, tuy nhiên nàng bối rối không biết tính sao. Đối với những người thường xuất ngoại thì đi Tây, đi Tàu, như là đi chợ chớ không có gì phải lo nghĩ. Nhưng hai vợ chồng đều chưa ai ra khỏi nước nhà lần nào, nên cả hai đều hoang mang.
– Em cũng chẳng biết tính sao. Tùy anh liệu định.
– Nhưng em có thích đi hay không chớ?
– Anh khéo hỏi thì thôi. Sao lại không thích. Đáng lý gì ta đi ngay hồi mới cưới nhau. Nhưng trễ còn hơn không bao giờ. Ta hưởng tuần trăng mật mà có Lan-Chí thì càng thú hơn.
Hòa nghe nhắc, nhớ sực lại con mà chàng ẵm trên tay. Chàng day lại hôn nó trơ trất rồi hỏi:
– Lan-Chi thích đi máy hay hôn?
– Máy bay bay cái vù phải không ba?
– Ừ!
– Bay cái vù như xe tắc-xi?
– Bay mau bằng mười tắc-xi, mà bay trên trời chớ không phải chạy dưới đường.
– Lan-Chi thích đi lắm. Bay như chim vậy.
– Ừ như chim vậy. Thu nè, vậy ta đi em nhé?
– Dạ, nhưng không biết có tốn kém lắm hay không?
– Cũng khá tốn. Ta phải sắm y phục ấm cho cả nhà, ít lắm cũng phải hai chục ngàn bạc… Nếu ghé các nơi khác như Pháp, Thụy-sĩ, Ý-đại-Lợi thì phải xài tiền riêng, mạt lắm cũng vài chục ngàn nữa.
– Em còn nghe họ nói muốn xài hai mươi ngàn phải tốn ba mươi ngàn.
– Sao lạ vậy?
– Vì ta đổi tiền theo lối chính thức không được nhiều lắm. Một du khách chỉ được chút ít ngoại tệ thôi, mà nhứt định một thứ ngoại tệ nào đó thôi của một quốc-gia mà mình xin đến viếng. Muốn tiêu pha cho vừa đủ, phải đổi thêm trong giới chợ đen, tức là phải mua mắc ngoại tệ, mà ghé nhiều nước quá, càng mua khó khăn vì phải tìm nhiều người, mỗi tay chợ đen chỉ có một thứ ngoại tệ thôi.
– Rắc rối quá, anh không thạo những vấn đề ấy.
– Em thấy rằng ta khỏi băn khoăn về gì cả, mà chỉ xem coi ta có đủ tiền hay không và nếu đủ, có nên tiêu xài cho việc nầy hay không.
– Đủ, ta có đủ. Còn nên thì cũng nên. Không mấy thuở mà được đi một lần, mà chỉ phải trả một phần tổn phí thôi, phần kia công quỹ đài thọ. Vậy, đi em nhé?
– Nếu anh không sợ tốn tiền thì em hoan nghênh lắm.
Từ đó cho đến lúc về nhà, hai vợ chồng chỉ nói toàn chuyện xuất ngoại không mà thôi, cả hai đều phấn khởi, nô nức đi cái chuyến đi xa đầu tiên trong đời họ, và họ định ngày mai lại là đi sắm đồ ngay.
Lần đầu tiên trong đời Hòa, chàng chịu bỏ sách vở một đêm để sống như một người thường. Hai vợ chồng moi dưới đáy tủ sách lấy ra một quyển «Thông ngôn bỏ túi Anh-Pháp có âm giọng đọc ».
Giới bác học thế giới đều giỏi ngoại văn, nhưng nói không thạo ngoại ngữ cho lắm, Hòa cũng ở trong trường hợp ấy, chàng đọc những quyển đại luận rất dầy viết bằng Anh-văn thì hiểu cả, nhưng muốn hỏi « Ở đây có bán thuốc ho hay không? » Thì chàng bối rối vô cùng.
Thu bàn:
– Ta nên mua thêm năm ba quyển loại nầy do nhiều nhà xuất bản khác nhau ấn hành. Thế nào mỗi tác giả cũng nghĩ ra những câu khác các tác giả khác. Đem theo đường độ chừng năm quyển, khi muốn nói ý gì, ta cũng nói được hết.
Họ lại bàn nhau về việc chọn vải và chọn hiệu may. Hòa rất bảnh trong địa hạt nầy vì chàng thường nghe bạn hữu mách cho nhau các mánh khóe mua sắm: là họ chỉ sắm mỗi người một bộ xoàng xoàng thôi. Qua tới Âu-Châu, vào hiệu mua đồ may sẵn, đã rẻ lại vải tốt.
– Nhưng lại tốn ngoại tệ, – Thu nói, vì phải mua tiền chợ đen nhiều hơn, chung quy không rẻ hơn mấy ở nước nhà, mà không được hưởng cái lợi có y phục thật vừa vặn.
Thành ra Hòa chỉ bảnh có một đoạn đầu rồi cũng phải chịu thua vợ. Chàng ít sống quá, nên rất vụng về và mù tịt trong việc lặt vặt của phàm nhân.
Hai vợ chồng lại nói đến địa lý nhân sinh của những nơi họ sắp đi qua: Bạc-xơ-Lôn chỉ là thành phố hạng ba của Tây-ban-Nha thôi, nhưng lại là kinh-đô văn hóa của xứ ấy, nên chi các đại hội quốc tế, thường nhóm ở đấy. Cả hai đều nhớ rằng Tây-ban-Nha ngày xưa đã bị Á-Rập xâm lăng mấy trăm năm và người Á-Rập đã để lại nhiều dấu vết rất là ngoạn mục, những lâu đài, thành quách cổ kính đẹp một cách hùng mạnh.
Chuyện xưa Hòa rất sành, vì đã học rồi hồi ở trung học. Sang chuyện nay, chẳng hạn như cuộc phục sinh vĩ đại của Tây-Đức thì chàng phải kém Thu rõ rệt vì không theo dõi thời cuộc.
Thu vui như đêm mới về nhà chồng. Chỉ đêm nay nàng mới thấy là nàng đã lấy chồng, đã lấy một người thường, y chịu hòa trí, hòa hồn với người chung quanh. Chỉ đêm nay là Thu nghe mình không còn là người lữ hành cô độc trên đời nữa.
Và đêm nay nàng được chồng yêu và được yêu chồng như vào đêm tân hôn. Hòa đã gần vợ bằng cả tâm hồn, hai dòng tình cảm của hai người trái ngược chiều rồi giao lưu nhau nơi cái hôn mà trong đó nàng tin chắc rằng Hòa chỉ nghĩ đến độc một mình nàng thôi, chớ không phải như những đêm khác mà chàng gần vợ vì xác thịt thúc đẩy, nhưng tâm trí lại bấn loạn những phương trình, những công thức, những giả thuyết trừu tượng và xa vời. Trời ơi, hạnh phúc sao mà có được dễ dàng quá, nào có tốn hao công của gì đâu cho cam. Miễn chàng chịu mỗi ngày bỏ ra độ hai tiếng đồng hồ để sống với vợ với con là đủ cho nàng lắm rồi, nàng có đòi hỏi gì nhiều đâu?
Thu được ấp yêu trong tay chồng, đã khóc ra những giọt lệ sung sướng, mà cũng là những giọt lệ tủi thân, vì nàng biết rằng đêm hạnh phúc nầy là đêm hạnh phúc cuối cùng trong đời nàng.
Rồi ngày mai, qua cơn phấn khởi được viễn du, chàng sẽ trở về với cô tình nhơn mà chàng say mê đắm đuối. Cô tình nhơn nguy hiểm đó không có đạo luật gia đình nào dự liệu cái khoản trừng trị cô ta, mặc dầu cô ta cũng phá gia cang người khác như bất kỳ cô nhơn tình nào. Cô nhơn tình nguy hiểm đó chẳng những sẽ không già, không xấu xí cùng với tháng năm để cho chàng hồi tâm, mà trái lại, càng cao niên cô ta càng lộng lẫy ra, và chàng sẽ mê mệt vì cô ta đến hơi thở cuối cùng của chàng. Đó là cô Khoa-học.
Nàng tủi thân vì viễn ảnh phải đi dạo phố một mình ở những thành Bạc-Xơ-Lôn, thành Bôn, thành Ba-ri, trong khi ở phòng hội, Hòa lắng tai nghe các cuộc thuyết trình khoa-học như nghe nhạc du dương,
Sau một tuần lễ mua sắm và chạy giấy thông hành, Thu ẵm con về Bến-Tre để thăm cha mẹ và giã từ cha mẹ nàng. Chưa bao giờ đi xa, nàng hơi tin dị đoan, và nghĩ rằng biết đâu chuyến đi nầy cũng là chuyến đi cuối cùng, sang thế giới âm hồn và không bao giờ trở về nữa. Tai nạn máy bay xảy ra rất thường thì tốt hơn nên thấy mặt cha mẹ lần chót vậy.
Hai bận qua đò Rạch-Miễu, nàng đều ngậm ngùi nhớ lại buổi chiều mưa gió đêm xưa. Xa lắm rồi, những phút giây êm đềm và hồi hộp trong đó nàng suýt ngã. Nàng mừng đã thoát nhưng lại ân hận đã không ngã.
Con người ít lắm trong đời phải được một lần yêu. Cái lần ấy đã đến với nàng, nhưng nàng lại không dám hưởng. Dầu sao, đó cũng là một mối tình và bến đò nầy là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm mà nàng xếp lại, giấu kín tận đáy lòng nàng.
Chiều hôm nay lộng gió, đứng trên phà nhìn cảnh sông nước mênh mông, nhìn khối lá xanh của hòn đảo Tân-Vinh, lòng Thu quằn quặn đau, nghe như người xưa đã đi xa lắm, hay không còn nữa trên đời nầy.
« Vĩnh-biệt nhé, mối tình ngắn ngủi mà ta không dám nhận! Vĩnh-biệt, nhưng ta sẽ ấp yêu trọn kiếp cái kỷ niệm êm đềm của một lần yêu ấy! »