← Quay lại trang sách

- 9 -

Mọi việc đều xong xuôi cả, chỉ còn đợi ngày để lên đường. Thật là bận rộn, những ngày cuối cùng nầy. Trong tuần lễ chót, Thu phải đi thăm tất cả các nơi quen biết, phải chạy tìm người tin cậy để nhờ giữ nhà giùm trong hai tháng vợ chồng nàng vắng mặt. Và nôn nao kỳ lạ là những ngày đợi chờ nầy.

Đây là dịp may hiếm có, có lẽ là dịp may độc nhứt trong đời nàng. Nàng đợi ngày đi như trẻ con đợi Tết, như những kẻ yêu đương đợi giờ hẹn đầu tiên trong đời tình ái của họ.

Trưa hôm ấy Hòa đi giảng về, mang về ba vé máy bay mà ông Khoa-trưởng vừa trao cho chàng khi sáng.

Chàng nói với Thu:

– Lạ quá em à! Anh mà được đi đây là nhờ một kẻ khuất mặt. Lúc ông Khoa-trưởng trao anh vé máy bay nầy, ông hỏi anh có quen với họa sĩ nào tên là Quí hay không…

Vừa nghe tên của người hạn bí mật của nàng, Thu tái mặt, tim đập thình thình, sợ hãi vô cùng vì không rõ ông Khoa-trưởng ấy đã tiết lộ những gì và chồng nàng đã biết những gì về Quí và nàng.

Hòa hoảng hốt hỏi:

– Em sao vậy?

– Em chóng mặt!

Nói rồi nàng giao công việc cho con nhỏ ở, chạy lên giường mà nằm. Hòa quấn quít quanh vợ, hỏi thăm lăng xăng. Một lát sau, Thu đã trấn tĩnh lại được, da mặt trở lại hồng hào như thường nhưng mồ hôi đã toát ra như tắm.

Hòa lấy khăn lông trao cho vợ lau đầu lau cổ, rồi nói tiếp câu chuyện bỏ dở khi nãy:

– À, ổng hỏi anh có quen với họa sĩ nào tên là Quí hay không. Anh bảo rằng không, và ổng cho biết chính người đó đã gợi ý cho ông tiến dẫn anh với ông Viện-trưởng. Thật là lạ. Tại sao lại có người không quen, núp trong bóng tối để giúp anh thì thật anh không hiểu sao được.

Thu bối rối lắm, nhưng cố gượng giải thích cho chồng hết thắc-mắc:

– Có lẽ đó là một phụ huynh của sinh viên mến tài anh, nên can thiệp giúp anh chớ gì.

Lời cắt nghĩa nầy khá ổn, nên chi Hòa an lòng ngay mà không nghĩ đến chuyện lạ đó nữa. Chàng nựng con, nói chuyện với nó giây lát, rồi đi thay y phục để ăn cơm. Chàng sẽ quên luôn chuyện ấy, mà không, chàng đã quên mất rồi, một khi được thỏa mãn vì lời giải thích của vợ.

Riêng Thu, lòng nàng xao xuyến lạ kỳ. Nàng nghe rõ ràng như Quí đang nói với nàng: « Em, anh đã vận động cho anh ấy đi xa. Em có biết để chi vậy hay không? »

Và lạ lùng thay, kể từ giây phút mà Hòa nói lên thắc mắc của chàng về sự can thiệp của người lạ mặt thì Thu chóng mặt thật sự. Chẳng những thế, nàng còn nghe đau nhức trong bụng, không biết là dạ dầy, ruột, gan, lá lách hay lá mía gì của nàng đã hỏng trong đó.

Bàn về khoa phân-tâm-học, một vị bác-sĩ người Mỹ có nói:

«Trên đời, có lắm người cần phải bịnh cho hợp với tình thế riêng của họ. Họ muốn bịnh ghê hồn và ý chí của họ mạnh cho đến đổi họ bịnh thật sự, với những triệu chứng có thật, chớ không phải bịa.

Họ chơn thật với họ, với y sĩ, nghe đau đớn rõ ràng nơi nào đó trong người họ, và cứ gầy sút đi, không làm việc được.

Gặp những trường hợp nầy, y sĩ thường chỉ có hai đường, một là bức đầu, bức tai vì thấy triệu-chứng mà tìm mãi không ra bịnh, hay là kết luận rằng con bịnh giả vờ.

Chỉ có y sĩ chuyên về phân-tâm-học mới khám phá được bí ẩn sâu xa của các chứng bịnh giả mà thật ấy.

Họ len lỏi vào những xó hiểm hóc của tiềm thức của con bịnh để khám phá ra các nguyên nhơn không thể thú nhận, bị chính con bịnh đẩy lùi vào đáy lòng của hắn.

Nguyên nhân bị nhốt ấy âm thầm làm việc, xui giục tiềm thức tạo ra một thứ bịnh nào hợp nhứt với tình thế, để cứu con bịnh ra khỏi một nước bí mà mặt ngoài, y không thể công khai lẫn tránh nước bí ấy »

Thu thuộc vào loại con bịnh đó. Khi nghe văng vẳng Quí nhắn lời: « Em, em đừng đi, ở lại với anh nhé! » nàng hoảng sợ vô cùng. Quả thật đó là con người tối nguy hiểm. Hắn đã có thành tích liều mạng và giờ hắn càng liều mạng hơn trước nhiều. Nếu ở lại thì sẽ ngã, không thể khác được. Vả lại, nếu không ngã thì cũng hụt mất cái dịp ngàn năm một thuở nầy.

Nhưng thâm tâm của nàng lại len lén nhủ: « Cái dịp yêu đương của có cũng là dịp ngàn năm một thuở, còn mong manh hơn là viễn du nhiều lắm cô à! Hụt chuyến nầy, cô còn có thể hy vọng vào chuyến khác trong đời cô. Chớ như chiếc đò tình ái thì nó chỉ ghé bến có mỗi một lần thôi. Rồi xuân của cô qua, đò cũng qua, đi mất không hẹn ngày tái ngộ! »

Người thiếu phụ có nết hạnh và quyết trung kiên với chồng nầy kinh hãi vội dồn ép những tà ý của nàng, những yêu-ngôn thì thầm bên tai nàng vào đáy tiềm thức, đậy nắp lại kỹ lưỡng và ngỡ yên lòng được.

Về mặt ý thức, nàng không hề muốn bịnh, trái lại còn lo rằng bịnh sẽ ngăn trở chuyến đi của nàng. Nếu trường hợp không may nầy xẩy ra thì uổng không biết bao nhiêu.

Nhưng bịnh cứ âm thầm tiến triển sau ngày đột phát. Nàng cứ đau bụng, bợn dạ, nôn ọe luôn, chóng mặt, ngồi dậy thì thấy nhà cửa ghế bàn đều quay chung quanh nàng trong một điệu vũ cuồng loạn.

Thấy những triệu chứng ấy, Hòa hỏi:

– Hay là em cấn thai?

– Không, đường kinh vẫn đều đặn như thường và kỳ sau cùng chỉ xảy ra cách đây một tuần lễ thôi.

Hòa đưa vợ đến một bác sĩ mà chàng biết là giỏi nội thương: ông ấy là cựu nội trú các dưỡng đường ở Ba-ri, hiện làm phụ giáo ở Y-Khoa Đại-học.

Khám bịnh đã ba lần rồi, phân chất đủ thứ, nước tiểu, phân, máu, mà ông ấy chưa tìm thấy gì cả. Chỉ còn có bốn hôm nữa là lên đường mà Thu không thuyên giảm chút nào lại có phần nặng hơn lúc đầu nữa là khác.

Hòa hỏi thăm riêng vị bác-sĩ xem vợ chàng có thể đi xa bằng tàu bay được hay không. Nhà chuyên môn ấy nói:

– Tốt hơn là đừng đi, một khi chưa biết được bà mắc bịnh gì. Có thể đó chỉ là những xáo trộn xoàng rồi tự nó, nó sẽ qua. Nhưng cũng có thể đó là triệu chứng của những bịnh cần nghỉ ngơi.

Chàng châu mày, và khi ra khỏi phòng khám bịnh, Hòa buồn dàu dàu. Chàng tự nhận rằng đã ít sống với vợ con và ý thức được nỗi cô đơn của Thu. Mỗi một lần có dịp may hi hữu giúp chàng làm tròn phận sự người chồng thì chuyện rủi ro bất ngờ lại xảy ra.

Chàng giấu lời khuyên của bác sĩ cho đến ngày chót và ngày nầy, chàng hỏi lại ý kiến nhà chuyên môn ấy một lần nữa, bận nầy hỏi công khai, trước mặt Thu.

– Không, bà không nên đi! Tôi không biết được gì sẽ xẩy ra cho bà thì không dám bảo đảm cho chuyến đi mệt nhọc nầy. Ông đừng tưởng đi máy bay là sung sướng lắm đâu. Nó mệt nhọc không kém đi xe hơi, có phần mệt nhọc hơn đối với những cơ thể không hợp với lối xê dịch ấy.

Hòa nhẫn nại chịu số phận, và sợ hãi an ủi Thu, hôn nàng trước mặt bác sĩ. Chàng rơm rớm nước mắt, thương vợ quá, người vợ mà chàng đã bỏ bê và muốn đền bù sự lạnh nhạt của chàng một phen, nàng lại không được hưởng sự hồi tâm trễ muộn của chàng.

Thu nghe ý kiến của bác sĩ thì nhẹ nhõm cả người. Nhưng nàng khỏi phải che giấu sự vui mừng của nàng, nó không có lộ ra ngoài! Sự vui mừng mà chính nàng cũng không biết nguyên nhơn, bị nỗi tiếc rẻ không được đi xóa mờ mất.

Nàng ngạc nhiên lắm, không hiểu sao mình tiếc rẻ thì phải lẽ, nhưng lại vui mừng bên trong. Niềm vui nầy lẩn lút, nàng muốn chụp lấy nó để cật vấn cho biết nó ở nơi bí ẩn nào mà xuất hiện ra một cách kỳ quặc như vậy, nhưng nó tránh né tài tình, không sao bắt được nó.

Nhờ thế mà mặt nàng đăm chiêu khiến Hòa ngỡ vợ buồn tiếc và càng thương vợ hơn lên, càng dỗ dành hơn lên.

Máy bay cất cánh hồi ba giờ trưa và Hòa nài nỉ Thu nằm nhà nghỉ ngơi, nhưng Thu nhứt quyết ráng theo Hòa lên Tân-Sơn-Nhứt để tiễn chồng.

Lạ quá, đang bịnh nặng, lại bỏ giấc nghỉ trưa – họ lên tắc-xi hồi một giờ rưỡi – thế mà Thu nghe khỏe khoắn như thường, và nghĩ cỡ nàng đi cũng không việc gì. Vé máy bay của hai mẹ con chưa trả lại cho Chánh-Phủ và nàng còn cất trong ví. Giờ quay trở về nhà lấy quần áo cho nàng và cho Lan-Chi vẫn còn kịp, và từ khi Hòa gọi tắc-xi cho đến khi đứng chờ Hòa chịu thủ tục cảnh sát và quan thuế bên trong, rất nhiều lúc Thu có ý muốn thi hành quyết định mong manh của phút chót ấy. Nhưng lần nào một sức mạnh vô hình khó hiểu cũng ngăn cản nàng.

Hòa thì cử băn-hăn, bó-hó lo cho vợ mệt nhọc, cứ năm ba phút thì hỏi thăm nàng một lần, từ Saigon lên tới phi-trường, chàng bắt mạch tay vợ hơn mười bận.

Khi thủ tục xong đâu đấy cả, Hòa bước qua phòng chờ. Hai vợ chồng đứng bên nầy và bên kia chấn song sắt để nói chuyện với nhau cạnh nhiều đôi vợ chồng khác.

Hòa đưa tay vuốt má con, mắt không rời Thu, băn khoăn hỏi:

– Em đứng nãy giờ, nghe đuối sức lắm không?

Thu không nghe gì khác lạ cả. Nhưng nàng không dám thú thật sự khỏi bịnh thình lình nầy nó làm cho chính nàng cũng phải ngạc nhiên. Nàng có vẻ đóng kịch quá, chỉ giả đau ốm vì một mục đích nào đó thôi chớ không làm sao mà ai tin được rằng nàng thành thật, đã đau ốm thật sự, và vừa khỏi thật sự.

Thu châu mày đáp:

– Anh đừng lo, em ráng được. Anh nhớ uống hai viên thuốc trừ say sóng đi.

– Anh vừa uống xong khi nãy. Thôi, em nên về, đừng lên lầu làm gì cho mệt.

– Đã trót tới đây, thì ít ra cũng phải cho Lan-Chi nó xem Ba bước lên phi-cơ chớ.

Hòa đưa má qua hai cây song sắt cho con hôn, và hôn lại con cũng qua hai cây song sắt ấy. Vợ chồng ông Khoa-trưởng cùng đi với Hòa, nãy giờ bận nói chuyện với bạn hữu, giờ hai ông bà thấy cảnh bịn rịn vợ con của người bạn trẻ, họ bước lại đó và bà Dương hỏi:

– Bà Hòa đây có phải không?

– Thưa bà, phải.

Thu cúi đầu chào bà ta, và bà ta nói:

– Tôi nghe ông nhà tôi nói có cả bà cùng đi với ông, tôi mừng quá mà có bạn đường, nhưng đến phút chót, nghe bà bịnh thình lình, tôi thất vọng lắm. Bà bịnh làm sao?

– Thưa em đau bao tử và gan.

Thu không muốn kể lê dài dòng về bịnh trạng bí hiểm của nàng mà đến bác sĩ cũng bí. Nói bừa chứng bịnh gan nầy mà ai cũng biết, câu chuyện bịnh tật sẽ khỏi kéo dài.

– Vậy à? Bịnh đó làm mệt con người lắm. Bà ở nhà mà nghỉ là phải.

Rồi bà Dương thò tay qua song sắt mà nựng cằm của Lan-Chi và nói:

– Cháu dễ thương quá! Cháu lên mấy đây bà?

Thu không kịp đáp thì ống loa đã ong óng lên kêu gọi hành khách bằng ba thứ ngôn ngữ khác nhau:

– Mời quí vị đi Tây-Âu ra sân!

Những cái siết tay cuối cùng, những cái hôn qua song cửa rồi kẻ ở vội mau chơn lên lầu và người đi biến ra sân.

Đứng dựa lan can rào hành lang tiễn biệt, một tay ôm con đang ngồi trên đầu lan can ấy, Thu vẫy tay khi thấy Hòa ngoảnh lại.

Lan-Chi cũng vẫy tay và kêu to:

– Ba! Ba!

Nhưng không thế nào Hòa nghe nó được vì xa quá. Chắc Hòa và bao nhiêu hành khách khác cũng không ai nhận ra người thân của họ. Họ ngoảnh lại, trông lên lầu, nhìn tổng quát vào đám đông, cười và vẫy tay chào chung tất cả.

– Má ơi, sao ba còn có chút xíu vậy má? Sao ba bây giờ lại nhỏ lại vậy má? – Lan-Chi hỏi.

– Tại xa, với lại ta ở trên lầu cao, còn ba đi dưới đất.

Hành khách ngoảnh lại lâu mỏi cổ, lại khó đi, nên tất cả đều nhìn tới trước như thường. Kẻ tiễn đưa chỉ còn thấy lưng của họ thôi.

– Má ơi! Lan-Chi buồn quá, ba hổng thèm ngó Lan-Chi nữa.

– Để ba đi chớ. Nhưng lát nữa ba sẽ ngó lại.

Quả thật thế, người hành khách nào lên tới đầu thang cũng ngoảnh lại cười và vẫy tay trước khi khung cửa đen thui của chiếc Constellation hả ra như cái miệng để nuốt họ.

– Ba! Ba! Cho con theo với!

Lan-Chi kêu thét lên khi Hòa hạ tay xuống để bước vào trong, khiến Thu rất đau lòng, buồn tiếc sao mình lại không ráng mà đi.

– Rồi, ba mất rồi má ơi!

– Ba vào ngồi ở trong.

– Trong ấy có ghế hén má?

– Có, có đủ thứ hết, nằm ngủ cũng được, ăn uống cũng được.

Chiếc Constellation khổng lồ đóng kín cửa lại khi công nhơn phi trường rút cái thang ra khỏi mình nó để đẩy vào kho mà cất.

Chong chóng quay vù vù và máy nổ rầm rầm. Phi cơ chạy tới chầm chậm về hướng Saigon, rồi tới một chỗ trống kia, nó quay mình lại.

Bấy giờ động cơ nổ dữ dội, và chiếc máy bay chạy tới thật mau. Ngang qua chỗ khách đứng, nó rời khỏi mặt đất và lên cao lần lần theo một chiều dốc lài.

Phi cơ đã qua khỏi đó xa rồi và đã lên cao. Nó rẽ sang tay trái rồi lần lần Lan-Chi thấy nó nhỏ chỉ còn bằng con chim, đen thui trên nền trời trong xanh.

– Thôi đi về con.

Chỉ có một mình! Mặc dầu Hòa đã trầm lặng quá, đã rút mãi trong cái vỏ của chàng, sự vắng mặt người chủ nhà ít lời nầy cũng lộ ra rõ ràng quá.

Tiễn chồng xong, Thu trở về với sự trơ trọi của nàng, đã cô đơn bên trong, giờ lại cô đơn bên ngoài nữa.

Chỉ có một mình! Nhưng lạ lắm là trong cảm giác quạnh hiu nầy, nàng nghe mang máng có kẻ vô hình nào ở bên cạnh nàng. Nàng không hoàn toàn cô độc hẳn, mà trái lại nữa, nghe như là kẻ ấy thoáng hiện đâu đây.

Từ hôm đau ốm đến nay, Thu nghe nhiều cảm giác kỳ lạ lắm, nhiều ý nghĩ không rõ rệt đã xẹt ngang qua nền trời đen tối, và như ngôi sao băng, những ý nghĩ mập mờ ấy mất hút luôn, không tìm thấy lại được nữa.

Hôm nay ngoài những ý nghĩ ấy nàng lại cảm nghe một sự có mặt vô hình quanh quất đâu đây.

Nàng hốt hoảng ngỡ mình sắp điên đến nơi, vì kỷ niệm đọc sách giúp nàng nhớ ra những đoạn sách nói về vài triệu chứng của bịnh điên nhẹ, con bịnh có nhiều ảo giác ban đầu chỉ lờ mờ thôi, nhưng về sau hắn thấy rõ trước mặt hắn những cảnh, những người mà kẻ khác không trông thấy.

Nàng cố xua đuổi những điều ghê rợn ấy và chú tâm vào hiện tượng vật chất đang xẩy ra rõ rệt nơi nàng: là nàng khỏe khoắn như không bao giờ mang bịnh, đi đứng nhanh nhẹn, chớ không choáng váng mỗi lần ngồi dậy để bước xuống giường như hổm nay.

Con nhỏ ở cứ nhìn nàng mãi bằng đôi mắt soi bói vì cho dẫu nó đần độn bao nhiêu, sự thay đổi rõ rệt và đột ngột ấy cũng không qua mắt nó được.

Thu khó chịu quá và mắc cỡ với nó. Nàng nghe như là nó nói thầm: « Cô ơi, cô giả đò bịnh để ở lại, em biết rồi mà! »

Thành thử nàng phải đóng trò lần nầy. Trước đây nàng bịnh thật, đau đớn thật sự, giờ hết bịnh rồi, thỉnh thoảng lại phải giả đau. Đang mạnh dạn đi xuống nhà sau để tắm, nàng phải giả vờ bị xây xẩm mặt mày thình lình, ôm lấy khung cửa, nhắm mắt lại mà rên.

Khổ nhứt là bữa cơm chiều hôm đó. Nàng không ăn uống được bao nhiêu từ một tuần lễ nay. Có lẽ cơ thể đòi hỏi nhiều để bù đắp vào chỗ thiếu thốn, một khi nàng khỏi bịnh, nên nàng đói lắm, ăn cơm ngon miệng như nhà nghèo được nhà giàu đãi tiệc. Nàng cho con nhỏ ở cùng ăn cho vui miệng, và ăn được hai chén nàng giựt mình, nhìn nó rồi buông đũa.

Nó sẽ tự hỏi, sao bỗng dưng cô chủ nó lại ăn tợn như thế, và lòng hồ nghi của nó về sự nàng giả bịnh, càng được vững bền thêm. Nó có thể bép xép, đi đọc chuyện dị kỳ của nhà nầy cho hàng xóm nghe, và thiên hạ sẽ dị nghị mà thêm phiền.

Bữa cơm tối lưng lửng, cứ theo các bác sĩ thì rất tốt cho giấc ngủ và cho sức khỏe. Nhưng Thu ăn đói, lại ngủ không được. Đêm nay nằm một mình sau ba năm lấy chồng, nàng đâm ra nghĩ vẩn vơ. Bụng không no lại xua giấc ngủ đi, thành thử nàng cứ thao thức mãi không sao nhắm mắt.

Đêm tối giống như màn bạc của rạp chiếu bóng, và kẻ mắc phải chứng mất ngủ bị cưỡng ép xem rất nhiều phim.

Phim đầu chiếu lại cái buổi nàng tiễn chồng hồi xế nầy. Nhiều hình ảnh nàng không thấy lúc chuyện xẩy ra, giờ lại hiện lên một lượt với câu chuyện chánh. Chẳng hạn như khi hai mẹ con đứng ngoài chấn song sắt, nàng được tất cả mọi người, bên trong và bên ngoài chấn song chú ý tới kể cả người ngoại quốc nữa mà nhan sắc phụ nữ Việt Nam không quyến rũ bao nhiêu.

Tất cả những cô chiêu-đãi-viên hàng không dân sự, tất cả những cô bán hàng ở phòng chờ đều không ai bằng nàng về dung mạo cả.

Cái thời trẻ đẹp của con người thường không thọ được bao nhiêu năm. Vài năm nữa đây, những lần sanh nở liên tiếp sẽ làm cho thân thể nàng méo mó, sẽ đào lên những luống cày nơi trán nàng, và sẽ không còn người đàn ông nào ngoảnh lại để nhìn nàng nữa cả.

Thu đã lấy cái sự được khách qua đường nhìn nàng làm niềm an ủi, bù cho cảnh không được yêu trong thời con gái của nàng, cho cảnh không được yêu đúng mức trong thời làm vợ của nàng.

Cuộc thất tiết nhè nhẹ, hiền hiền ấy có lẽ cũng là cái tội mà muôn triệu phụ nữ khác đã phạm phải, mặc dầu họ không thiếu thốn như nàng. Họ không ý thức về tội của họ hay ý thức mà bỏ qua đi, vì thấy tội ấy không gây hại gì cả.

Đứng vào mặt luân lý cổ Á-Đông thì là nàng có tội với chồng đứt đi rồi, không còn chối cãi được nữa. Người đờn bà nết hạnh nầy phạm tội một cách ý thức chỉ cốt để gỡ gạc về mặt tình cảm đôi chút thôi.

Phim thứ nhì chiếu ra cảnh sông nước bến đò Rạch-Miễu mà nàng vừa qua phà hôm trước. Nhưng những hình ảnh nầy bị những hình ảnh khác tương tự như thế, in chồng lên ngay: hình ảnh quá giang đò nhỏ, hồi hai năm về trước.

Đáng lý gì ký ức của nàng lần dò theo ngày tháng mà bước từ chuyện mới, qua chuyện không mới lắm rồi sang chuyện cũ. Nhưng nó lại nhảy một cái từ nay đến xưa, đốt giai đoạn trên bước đường ngược dòng năm tháng.

Quá giang đò nhỏ, sấm, chớp, gió, mưa, chìm đò, đêm lạnh trên hoang đảo. Đoạn phim nầy qua rất nhanh. Người chiếu phim hình như vội vàng để cho đoạn sau hiện lên. Đó là đoạn về Saigon, tái ngộ với người con trai liều lĩnh.

Người con trai ấy! Chơn dung của hắn cứ nằm mãi trên màn bạc như là máy chiếu phim bị hỏng thình lình, và trong khi bị sửa chữa người chiếu không muốn cho đèn sáng lại, cũng không thích dìm khán giả vào bóng tối hoàn toàn.

Chơn dung của hắn ngự trị trên màn bạc rất lâu. Con người dáng điệu hiên ngang ấy cầm một đóa hoa trên tay, lặng ngắm màu sắc và hình dáng của đóa hoa, vừa ngắm hoa, vừa lắng nghe nhạc gió. Hắn là một người thường, rất gần gũi con người và vì thế rất dễ ưa.

Bỗng người khán giả cô độc, đang ngồi một mình trong chính rạp chiếu bóng mà cô kiêm luôn việc quay máy chiếu phim, giựt nẩy mình: cái cảm giác rằng quanh cô đang có một kẻ vô hình lẩn quẩn, giờ đã rõ hẳn ra. Kẻ vô hình ấy là kẻ nầy, kẻ thưởng hoa trên màn bạc.

Hắn không ở gần nàng lắm như nàng đã cảm giác, người ở đầu thành phố, kẻ ở cuối châu thành, nhưng nàng biết chắc rằng tâm trí hắn luôn luôn quanh quẩn bên cạnh nàng và tâm trí nàng luôn luôn phiếm du ra phố Lê-Lai, nơi mà hắn ở.

Và Thu lại bỗng khủng khiếp quá mà chợt đoán rằng sở dĩ nàng đau ốm là vì hắn.

Nàng chỉ đoán thế thôi vì những dấu hiệu kỳ lạ, khó hiểu của sự trùng phùng cơ hội: nàng nhuốm bịnh thình lình khi hay rằng chính hắn đã can thiệp cho chồng nàng đi, và khỏi bịnh thình lình khi chắc ý rằng mình ở lại.

Nàng chỉ đoán thế thôi mà không dám tin là đúng vì quả nàng bịnh thật tình chớ không phải giả vờ. Thu không hề biết khoa phân-tâm-học, không hề biết sự đểu cáng của tiềm thức, nó giả dối mà không nhận với ai rằng giả dối, cũng không tự thủ rằng giả dối.

Lâu rồi, nàng không có đi thăm người bạn nguy hiểm ấy vì sợ hắn, không, vì sợ chính lòng nàng – vì bận việc, rồi vì bận chuẩn bị chuyến đi hụt nầy.

Không thăm, nhưng luôn luôn thấy hắn trước mặt, nhứt là những giờ nằm đợi Hòa đọc sách, những giờ mà anh chồng ham học nầy gầm đầu xuống những tờ giấy chi chít toàn những chữ A chữ B, những con số dài hằng triệu, hằng tỷ đơn vị gì không rõ.

«Phải chăng là mình nhuốm bịnh thình lình vì hắn? Vì trời xui khiến cho mình ở lại với hắn? Không, mình không hề muốn ở lại, mặc dầu biết hắn can thiệp cho chồng mình đi. Trái lại mình còn ghê tởm thủ đoạn bần tiện của hắn nữa là khác. Nhưng mình lại ngã xuống mà đau ốm ngay đúng vào lúc hay tin ấy. Phải chăng vì trời xui đất khiến, mà ý người, muốn tránh, cũng không thoát được?

« Nhưng không, quyết là không. Phép lịch sự đối với người vắng mặt, hạnh phúc riêng của mình cấm hẳn mình đi thăm hắn trong suốt thời gian Hòa vắng nhà.

« Thôi đi tà tâm của ta ơi! Cút đi cho rảnh, ta không nghe mi đâu »

Rồi Thu lại làm việc nhiều hơn bao giờ cả. Gạch nền nhà láng bóng như được đánh sáp, những kẽ nhỏ đóng bụi của bàn ghế, được tẩy trần bằng những que tăm bọc gòn, bìa da sách nổi mốc của Hòa được đem ra lau chùi và phơi nắng, tất cả những cái nút áo gần đứt của cả ba người trong nhà đều được tra lại kỹ lưỡng, áo len được đan sẵn cho mùa lạnh sau, y phục của Lan-Chi bốn tuổi, của Lan-Chi năm tuổi, của Lan- Chi sáu tuổi được may trước hai ba năm.

Nhưng cô đơn vẫn bền chí rình mò đâu đó để xâm chiếm hồn nàng.

Có những ngày mà Thu nghe cuộc đời thật vô vị và nghĩ xằng rằng nếu nàng chết chìm trong tai nạn năm xưa, có lẽ sung sướng hơn. Năm đó mặc dầu không thỏa mãn tình cảm về hôn nhơn, nàng vẫn chịu được số phận, không ý thức rõ lắm về nỗi khổ của mình.

Chợt một người con trai bước đến trong đời nàng, hắn là hiện thân của ông hoàng tử đẹp trai của những giấc mơ của nàng, và mấy tháng phiêu lưu tình cảm nhè nhẹ và vô tội với hắn đã cho nàng nếm tiền vị của yêu-đương.

Ở nhà tranh mãi, ai nào biết nhà gạch là hơn. Rủi ro được tạm trú trong một biệt thự một thời gian ngắn, rồi lùi về nếp nhà tranh cũ mới thấy cảnh luộm thuộm ở đây.

Con nhỏ ở cứ thấy nàng thẫn thờ mãi, và thường bắt gặp nàng ngồi ngó mông ra ngoài, như là nhìn vào một nơi xa xôi nào, nó độ rằng cô chủ nó nhớ chồng. Nó thỏ thẻ nói nhận xét của nó cho Bé Chi nghe. Lan-Chi cũng đang nhớ ba, nghe con nhỏ nói thế nó mừng lắm, vì tìm thấy nơi mẹ nó một người «bồ ruột» đồng tâm với nó. Nó rình má nó, hễ thấy Thu lo ra một chút là nó chộ:

– Ê, mắc cỡ ê, má nhớ ba ê!

Nó ngỡ chỉ trẻ con mới nhớ ba, còn người lớn thì khỏi nhớ ai cả.

Thu giựt mình rồi ôm con vào lòng, vừa cười vừa hôn nó mà nước mắt rưng rưng. Nàng nói nựng với con:

– Ừ, má nhớ ba. Nhưng đâu có xấu hổ gì con. Con cũng nhớ ba đó thì sao?

– Con nhỏ, má lớn.

– Lớn hay nhỏ gì, ai cùng nhớ hết.

– Lan-Chi nhớ ba, má dỗ Lan-Chi, còn má nhớ ba, ai dỗ má, má ơi?

– Má ráng mà chịu. Người lớn không được ai dỗ cả.

Không ai dỗ! Đáp lời với con như vậy, nhưng chính nàng, nàng cũng tự hỏi có ai dỗ nàng hay không? Nàng còn đáng được dỗ, cả những lúc Hòa ở nhà, chớ đừng nói chuyện khi chàng đi vắng. Có, có người đủ khả năng an ủi nàng, nhưng nàng lại không dám nhờ, không dám để người ấy dỗ nàng. Và chính vì thế, nàng lại càng hận và càng thêm sầu để mà được vỗ-về hơn.

Những lúc ôm con như vậy, Thu nhìn nó trân trối, tìm thấy được Hòa trên gương mặt nó, và rất hối hận mà đã nghĩ vẩn vơ. Lan-Chi giúp nàng nhớ lại bổn phận nàng, bổn phận của người vợ Á-đông tiết hạnh, bổn phận của một bà mẹ không được phép làm đổ vỡ gia đình để bảo tồn hạnh phúc trọn vẹn cho con cái.

Thuở còn học ở Marie-Curie nàng đã cho nhiều phong tục của người Nhựt-Bổn là mọi rợ, chẳng hạn như tục vào đêm tân hôn, tân lang tặng tân giai nhân một lưỡi đoản đao nhỏ như lá lúa và ngắn một gang tay. Lưỡi đoản đao bén ngót ấy thầm khuyên nhủ người vợ rằng nếu rủi ro thất tiết thì chỉ có một giải pháp ấy thôi, chớ không còn con đường nào cho một người đờn bà biết bổn phận của mình cả.

Ngọn đoản đao Nhựt-Bổn đã bị thời gian xóa mất nơi trí nàng từ khi nàng rời mái học đường, nơi mà người thiếu niên, thiếu nữ nào cũng hăng say với những tư tưởng cực đoan của tuổi máu nóng cả.

Nhưng giờ đây, khi mà chính người Nhựt-Bổn cũng đã lần lần từ bỏ cái tục man rợ ấy, thì nàng lại thấy tất cả sự quan trọng của lời khuyên nhủ cụ thể ấy.

Trong một triệu người vợ, chưa chắc đã có một người gặp rủi ro. Nhưng hằng giờ, hằng phút đều có hằng trăm người đàn bà nghĩ vẩn vơ vì một hình ảnh nào đó đã thoáng hiện trong đời họ.

Và ngọn đoản đao lá liễu kia là một vị thần giữ cửa, một viên quan giám sát mà đôi mắt nghiêm khắc sẽ làm cho kẻ sắp tuột dốc phải hoảng sợ mà gượng lại cho vững bước đường đạo đức.