- 10 -
Hòa lên đường sáu ngày thì Thu nhận được của chồng một bưu thiếp đề địa điểm gởi là Ba-Ri.
Sau lưng bức ảnh in nhiều màu ấy, Hòa biên vắn tắt những lời sau đây:
Em thân yêu,
Ba-Ri là trạm chót của đường hàng không Đông-Nam-Á – Tây-Âu. Tới đây anh phải mượn ngay đường Bắc-Phi để ghé Bạc-Xơ-Lôn cho kịp ngày khai hội. Mệt lắm. Nhớ em và Lan-Chi lắm. Lo lắng về sức khỏe của em thật nhiều.
Hôn hai mẹ con một trăm cái.
Thu đọc lại bức thư hà tiện lời nầy từng chữ, tìm cách đọc giữa dòng, cố kiếm trong đó những ẩn ý mà chồng nàng không nói ra hết được vì khuôn khổ hẹp của tấm bưu thiếp.
Biết rằng Hòa bắt buộc phải vắn tắt như thế, Thu vẫn nghe mình hơi hờn chồng, vì bưu thiếp nhắc nhở tác phong của anh ấy, một người không chịu sống cho vợ con, tâm trí để ở đâu đâu, chỉ ừ hử qua loa với nàng lấy lệ thôi, trong câu chuyện hằng ngày giữa vợ chồng với nhau.
Nàng nhìn mãi bức thư xa và Hòa hiện lên qua mấy mươi dòng chữ viết vội vàng ấy, hiền từ, nhưng lạnh lẽo gần như là không có tình cảm.
Chàng là một công dân xứng đáng của quốc gia mà có thể của thế giới nữa, một người chồng làm tròn bổn phận ông chủ gia đình. Nhưng mà « con người không phải chỉ sống vì bánh mì ».
Đoạn sau của ý nghĩ trên đây của nàng là nhan một quyển tiểu thuyết đã làm cho cả Âu-Châu đều giựt mình, mấy năm trước đây.
Từ hơn một phần tư thế kỷ nay các phần tử tiến bộ của Âu-Châu đều gào thét đòi cơm áo và quả quyết rằng vật chất chi phối tất cả. Trong khi đó thì họ tiếp tục sống một đời sống tinh thần và tình cảm rất phong phú và đối với những kẻ có bánh mì mà thiếu đời sống tinh thần, tư tưởng phản động lại, thành hình lần lần và được cụ thể hóa bằng cái tác phẩm trên đây nó nói lên những cảm nghĩ thầm kín của nhiều người đối với nhân sinh quan trước kia.
« Con người, không phải chỉ sống vì bánh mì! » Nhứt là khi con người đó là một thiếu phụ trẻ đẹp ra đường là được hằng trăm người ngoái lại nhìn, trong số đó có cả đờn bà con gái. Con người, nhứt là đờn bà, nhứt là đờn bà đẹp, cần tình yêu như cây cỏ cần ánh sáng mặt trời. Đem một chậu cây cảnh vào nhà năm hôm liên tiếp thì thiếu sương nắng, cây cảnh vô phước ấy sẽ héo lá lần lần. Đem một nữ sinh vào một cuộc hôn nhơn theo lý trí, và chung sống với một người chồng chỉ biết có sách vở thì nữ sinh ấy chưa hóa ra bà già bốn năm sau ngày cưới thì cũng lạ lắm.
Thu lật tấm bưu thiếp qua và nhìn bức ảnh của một thành quách cổ thời phong kiến Âu-Châu. Nàng đã lỡ chuyến đi này trong đời nàng và có lẽ cho đến lúc nàng xuống mồ cũng không được xem tận mắt những cảnh nước non xa lạ mà nàng mơ ước từ lúc còn cắp sách đến trường.
Nhưng niềm ân hận hụt đi xa ấy không to, không xót bằng niềm ân hận không được yêu trong thời còn con gái và không dám yêu vào lúc gần cuối mùa yêu nầy.
« Hôn mẹ con một trăm cái! »
Thu bật cười. Quả Hòa đã hôn nàng nhiều lần mỗi hôm nhưng nàng biết chắc rằng trong khi làm cái công việc đó, chàng nghĩ đến sự nghiên cứu tìm tòi của chàng. Biết bao nhiêu lần nàng đã lắng nghe những cái hôn rất mạnh nhưng cũng rất lạnh của chàng. Chàng chỉ làm phận sự thôi, cho vợ khỏi buồn, cố ấn mạnh mũi chàng vào má vợ và ấn mạnh quá nên nàng thấy rõ sự cố ý của một cử động không có hồn.
Nàng không oán hận chồng. Hòa yêu nàng thật tình, nhưng hắn không có thì giờ yêu. Hắn đã trót say khoa học, thì không lỗi ở hắn cho lắm. Nếu bắt mọi đờn ông trên đời nầy phải để cả thì giờ nhàn rỗi của họ cho tình yêu thì chắc loài người sẽ không làm được vì không hưởng được nhiều sự nghiệp lớn.
Nàng chỉ tủi thân vì số phận thôi, và tự an ủi rằng phải có một hạng đờn bà bị hy sinh, hay tự động hy sinh như nàng để lo cho những người đờn ông như Hòa, có thế khoa học, văn học, mới tiến tới được. Âu cũng là phận sự một nữ công dân vậy.
Nhưng con ngưòi tình cảm nơi nàng thật bất khuất. Nó trưng ra nhiều bằng chứng không thể chối cãi được là nhiều nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới đã yêu, mặc dầu họ còn bận hơn Hòa nhiều lắm. Họ đã sống như một người thường, tuy có làm việc mỗi ngày nhiều giờ hơn người thường thật đó. Họ vẫn đi xem hát, đi du lịch, họ vẫn chinh phục một người đờn bà trong một thời gian nào đó và sau hôn nhơn họ tiếp tục sống với người bạn đời của họ với những cuộc phiếm du tay đôi, những chuyến đi xa với cả gia đình. Mỗi đầu hôm, họ đã để ra vài tiếng đồng hồ mà đàm đạo với vợ họ về những vấn đề thấp sát mặt đất: vấn đề giá thị trường, vấn đề may mặc, vấn đề thủ tục xã giao.
Không, tại Hòa như vậy, chớ nghề nghiệp hắn nào có bắt buộc hắn ép mình vào một nếp sống khô cằn như thế bao giờ đâu!
☆
– Má ơi, Lan-Chi nhớ ba lắm! Chừng nào ba về má!
– Lan-Chi ngủ rồi thức dậy sáu chục lần như vậy thì ba về.
– Sáu chục lần là bao nhiêu má?
– Là sáu chục lần.
– Nhiều hay ít má?
– Sáu chục là nhiều.
– Nhưng Lan-Chi không biết nhiều đến bao nhiêu.
– Lan-Chi có một cái bánh cầm trên tay là một. Có hai cái bánh cầm hai tay là hai. Có sáu chục cái bánh thì cầm không hết, sắp ra đầy cả bàn mà cũng không đủ chỗ sắp.
– Như vậy sáu chục lần, nhiều quá má ơi!
– Ừ, nhiều quá.
Thu cũng chợt thấy là sáu mươi ngày nhiều quá, dài quá, và sự trông đợi lâu vô cùng.
– Lan-Chi giận ba lắm. Sao ba đi làm lâu về quá. Mọi khi trưa ba về, tối ba về.
– Ba không đi làm như mọi khi nữa. Ba đi xa lắm.
– Ba đi đâu má?
– Ba đi… ơ… hơ, ba đi… ơ… hơ… ba đi học.
– Ba đi học trò hả má?
Lan-Chi thường thấy những trẻ bé ôm cặp đi ngang qua nhà nó. Má bảo rằng những anh, chị ấy là học trò. Lan-Chi rất thích làm học trò như các anh chị đó, và chỉ biết có danh từ học trò thôi, mà không biết động từ đi học.
– Sao ba người lớn mà cũng đi học trò nữa má?
– Ừ, người lớn cũng đi học trò.
– Sao mấy ông ở nhà bên kia không có đi học trò má?
Thu ôm con mà hôn trơ trất. Nàng cười và đáp:
– Người lớn thì chỉ có ba là đi học trò thôi.
Bỗng nàng chú ý đặc biệt đến điều mà nàng vừa nói cho con nghe. Người lớn chỉ có Hòa và một số hiếm hoi vài người khác là học hỏi. Đành rằng hằng vạn người đã đi học thêm Ăng-Lê, hoặc khoa cứu cấp, hoặc một nghề phụ nào đó. Nhưng họ học có thời hạn một năm, hai năm, và có giờ giấc, chớ không miệt mài, không quyết học cho tới lúc bạc đầu như Hòa.
Hòa thuộc vào một hạng người riêng biệt trong xã hội, không sống như người thường. Lúc ưng lấy Hòa, nàng không ý thức về điều nầy, quên mất loại người riêng biệt này đi. Không thể nói hôn nhơn của nàng với một nhà bác học tập sự là một rủi ro mà nàng phải chịu. Nàng đã trọn quyền tự do chọn lựa, và sở dĩ chọn lầm một… siêu-nhân chỉ vì vô ý thức thôi.
« Nhưng mà, nàng nghĩ, theo lẽ phải thì Hòa phải báo trước cho mình biết sở thích của hắn, hoài bão của hắn, để nhắc cho mình nhớ đến loại người bị xã hội quên mất vì quá hiếm hoi, vì hàng ngũ của họ quá thưa thớt.
« Khi mà người ta theo hoặc định theo một nếp sống riêng biệt, không ăn khớp với nếp sống của mọi người chung quanh, người ta có bổn phận phải đặt rõ vấn đề cho người hôn phối tương lai xem xét.
« Mình không hề được xem xét trường hợp đặc-biệt của Hòa, thì giờ mình có quyền thắc mắc, có quyền trách móc Hòa nữa là khác. Và nếu không phải là đờn bà Á-Đông, mình có cả đến cái quyền đặt lại vấn đề. Quyền đây là quyền đối với phong tục, luân lý và lòng mình, chớ thật ra pháp luật vẫn cho mình cái quyền ấy, trọn vẹn hay một phần nào đó.
« Hòa có quyền sống theo sở thích chàng, nhưng không được phép bắt người khác phải theo chàng. Đành rằng trên đời nầy có những người đờn bà thích hi sinh, quên mình để lo cho những người chồng mà họ phục ngành hoạt động, nhưng mình không phải, không được hân hạnh làm những người đờn bà cao quí ấy, mình thấp lè tè với hoài bão sống một đời tầm thường của mình, thì lôi kéo mình vào một đời sống như vậy – cho dẫu là vô tình đi nữa – có phải là không tốt bụng lắm chăng? »
– Má ơi má có nhớ ba như Lan-Chi vậy hay không má?
Lan-Chi hỏi mẹ mà không đợi nàng trả lời, nó ôm mẹ mà hôn một cái thật mạnh và nói tiếp:
– Lan-Chi cưng má lắm. Lan-Chi cũng cưng ba lắm.
Thu hôn lại con cũng thật mạnh.
– Má cũng cưng Lan-Chi lắm.
– Má có cưng ba hôn má.
Thu hiểu rằng con muốn hỏi nàng có yêu thương cha nó hay không, nó lầm lẫn động từ cưng với động từ yêu thương.
– Có, má cưng ba lắm.
Nàng thành thật mà đáp như vậy. Nàng yêu Hòa, yêu nhiều lắm, và vừa xấu hổ sau lời đáp nầy, mà nhận ra rằng mình đã tìm đủ lý lẽ để mà trách chồng.
Lý lẽ của nàng rất vững, nhưng then chốt là ở cái điểm yêu chồng hay không. Yêu thì chồng thế nào nàng cũng theo được, lên thác, xuống ghềnh, qua đèo lặn suối, còn không yêu thì không còn vấn đề gì để mà thắc mắc nữa cả.
« Mình yêu chồng, Thu tự xác nhận điều ấy lại với chính nàng. Chồng mình đáng yêu lắm. Nhưng mà, trời ơi, mình cần sống đầy đủ về mọi mặt, vật chất lẫn tinh-thần.
« Cái khía cạnh tinh-thần ấy, trước đây mình chỉ thoáng thấy thôi, rồi nó mờ đi và mình quên mất nó trong mớ bổn phận phức-tạp của một người nội trợ, một người mẹ.
« Nhưng cuộc gặp gỡ năm nào đã ngẫu nhiên tô đậm lại ý thức mang máng của mình, và chung qui rủi ro của đời mình chính là cuộc gặp gỡ ấy chớ không phải hôn nhơn không hòa hợp lắm của mình với Hòa.
Thật là đường tơ kẽ tóc, sự thay đổi đường đi của mỗi cá nhân trong kiếp người. Nếu mình không gặp Quí, nếu đừng có trận giông tố, nếu vua Quang Trung không chết sớm, nếu người Pháp đến trễ vài mươi năm?
Đời người, cuộc thế bị treo lơ lửng bằng một sợi chỉ mành là « Nếu ».
« Và nếu mình chống lại được với sự quyến rũ! Ừ, mình phải chống lại, không thôi thì đổ vỡ cả. Lan-Chi, đứa con yêu quí của mình, nguồn an-ủi độc nhứt của mình, ngày sau lớn lên nó sẽ nghĩ thế nào về mẹ nó, một người đờn bà yếu đuối, kém hèn, không có can đảm hi sinh cho chồng cho con? Ừ, mình phải nỗ lực, không thôi thì hỏng cả ».
Thu nằm nhà được mười hôm yên lành, sau khi chồng nàng lên đường.
Qua ngày thứ mười một, nàng ra Saigon, định mua sắm vài thứ… không cần thiết. Nàng ý thức rõ rệt rằng những món ấy không cần thiết nhưng không hiểu sao, cứ muốn đi mua sắm, và dự định mua sắm được nàng săm soi từ năm ngày nay, nó ám ảnh nàng ngày đêm, không sao yên tâm với nó được.
Ra tới chợ Bến-Thành, lòng nàng được giải thoát khỏi sự bồn chồn đi chợ ấy, nhưng tiềm thức của nàng lại bị một người khách lạ và vô hình len vào. Thu nghe mình cứ lo lo, như là có một sứ mạng gì phải làm xong hôm nay, sợ quên sứ mạng, nhưng lại không biết rõ nàng phải làm gì.
Nàng rảo quanh các hiệu ba-da nhỏ bằng chiếc khăn mù-xoa đặt ở bìa chợ, rồi băng qua Lê-Thánh-Tôn, đổ ra Lê-Lợi, tốn hơn một tiếng đồng hồ rồi mà chỉ mua được một cái gạt tàn thuốc. Hòa đi vắng rất lâu, nhà nàng chẳng tiếp khách đờn ông bao giờ vì Hòa rất ít giao thiệp, thì món này thật vô ích, nhưng lúc lựa chọn, nàng không ý thức rõ lắm là mình sắm cái gì.
Thu từ trước nhà thuốc Nguyễn-Văn-Cao, băng qua mặt chợ, rồi từ đó, băng qua nhà thuốc Kim-Quan.
Mười phút sau nàng bắt chợt nàng đứng nơi một cửa hiệu đồ sứ cũ ở dãy tiệm buôn trước ga xe lửa. Nàng ngạc nhiên hết sức, không biết mình đến đây để làm gì. Đáng lý gì, không còn mua sắm gì nữa, nàng đã lên xe mà về nhà rồi.
Nàng ngơ ngác đứng nhìn hành khách rộn rịp bên ga, nghĩ vơ vẩn đến những chuyến đi gần, nghĩ đến người đi xa, rồi liên tưởng đến người… can thiệp cho Hòa đi xa.
Nàng bỗng hoảng sợ vô cùng mà khám phá ra rằng nàng đã bất giác đi về hướng đường Lê-Lai là nơi mà Quí ở, và điều nầy còn đáng kinh khiếp hơn nữa là hôm nay, nàng đi ra đây rất trưa, tức là nếu có ghé thăm Quí thì Quí đã đi dạy học về tới nhà rồi.
Phải, đúng là tiềm thức nàng đã âm thầm xui nàng hành động trái với thói quen, trái với lẽ phải như thế. Hôm nay nàng không cần mua sắm gì mà vẫn ra Saigon, ra đây xong, lại sắm một món đồ mà chồng nàng không cần dùng, trái lại cái anh chàng hút thuốc như ống khói tàu là Quí rất cần, mua sắm xong lại không lên tắc xi hay không đi vào bến xe buýt vàng là thứ xe đưa về khu nàng ở mà lạc bước về hướng Lê-Lai này.
Thu bối rối quá khi bắt chợt được lòng nàng, bắt chợt được khuynh hướng vô giác nó đưa bước của nàng đến những nẻo đường mà nàng không muốn đi.
Không do dự, nàng vội bắt lại một chiếc tắc-xi rồi như kẻ đi bắt ghen, nàng hối thúc tài-xế:
– Xóm Cầu Mới, chạy cho mau!
Về tới nhà, Thu hổn hển đẩy cửa bước vào, như vừa chạy trốn một kẻ thù ác hiểm. Đóng cửa lại xong, nàng mới nghe đã thoát nanh vuốt của địch thủ vô hình.
Bé Chi đang chơi búp-bê, đứng lên reo:
– Má về….ê..
Rồi a lại ỏm mẹ hỏi lăng xăng:
– Má có mua kẹo cho Lan-Chi hôn má? Má có gặp ba hôn má? Má ơi, ở nhà chị Sáu ghẹo Lan-Chi má à!
Nàng cúi xuống bồng con lên, hôn nó thật mạnh, lòng hối hận vô cùng. Nàng không có mua quà gì cho con hết vì bận lo ra, có rảnh trí đâu để mà nghĩ đến chi tiết ấy. Nàng nói láo với con:
– Bữa nay má đi thầy thuốc nên không có mua gì được cho con. Mai mốt má sẽ mua nhiều thật nhiều để bù lại.
– Má có gặp ba hôn má?
– Có, ba bận việc, sẽ về sau, ba gởi về Lan-Chi lu bù cái hôn đây.
Lan-Chi cười, để cho mẹ hôn mình rồi lại mét:
– Má ơi, chị Sáu ghẹo con, lêu lêu con, nói con nhớ ba.
– Đừng sợ. Con nhớ ba thì tốt chớ có xấu hổ gì đâu.
– Sao chỉ nói « mắc-cỡ », má?
– Chỉ nói chơi. Không nhớ ba mới là đáng mắc-cỡ.
Thu đáp xong câu ấy, cứ nghe nó vang lên bên tai nàng, và nghe như đó là lời kẻ khác khiển trách nàng chớ không phải là lời của nàng nữa.
Nàng đã mắc-cỡ với chính nàng quá kể từ cái lúc mà nàng bắt gặp cái hình nộm của người đi thất thểu bơ vơ về hướng Lê-Lai. Đó là hình nộm của chính nàng mà tâm trí đã ra khỏi xác, chỉ còn lại trong ấy một chút xíu linh hồn nên nó yếu đuối quá mà hành động theo lời sai khiến của một tay phù thủy ẩn mặt.
Không khí ấm áp ở đây, những hình ảnh quen thuộc, hai gương mặt bầu bạn của con nàng và của con nhỏ ở đã giúp nàng lấy lại can đảm vừa suýt mất.
Thu đã bình tĩnh hẳn và yên lòng như một toán bại binh vào được trong thành trì kiên cố, kéo điếu kiều lên, bỏ đạo quân đuổi bắt lại ngoài hào xa.
Nàng thay y phục và lo đi làm cơm, làm những món ăn rắc rối y như là chồng nàng còn ở nhà. Bao nhiêu công việc dọn quét, vá may, Thu đã làm hết sạch rồi, giờ nàng chỉ có thể giết thì giờ bằng những món nấu phiền phức, những món bánh lạ thôi. Đọc sách cũng nguy hiểm lắm, vì đọc một lát là có thể buông sách để nghĩ vẩn vơ, còn cố gắng lắm thì tiếp tục đọc mà không hiểu gì, tâm trí vẫn phiêu lưu nơi khác như là ở không vậy.
Tuy nhiên chỉ độ một tiếng đồng hồ sau là người vợ hiền nầy đã phải hoảng sợ trở lại y như khi sáng.
Những rác rến bừa bãi quanh tâm trí nàng sao mà như là rác ma. Nàng lấy chổi quét nó đi, thì một lát sau, nó bò trở lại như cũ. Đó là những rác bẩn nó làm dơ cả căn buồng sạch sẽ thơm tho của lòng nàng.
Hễ hở tay chổi, bận nhồi bột hay thái thịt là chúng kéo đến, chẫm rãi nhưng chắc chắn. Nàng lại phải tảo thanh, cứ mười lăm phút một là đánh một trận quyết liệt, không bại, nhưng không bao giờ toàn thắng cả.
Thu nhớ lại quyển tiểu thuyết Hoa-Kỳ «Nanh trắng» của J. London mà nàng đã được đọc hồi còn ở nhà trường.
Chuyện kể đời một con chó, nhưng bắt đầu bằng một cảnh chiến đấu y hệt như cảnh chiến đấu của nàng hôm nay: một tay đánh bẫy kia – hay làm rừng gì đó, nàng đã quên mất – vào mùa đông, đưa xác của bạn từ trong rừng sâu về làng mạc.
Dọc đường, hắn bị một bầy chó sói đói đuổi theo, và hễ tối lại, dừng chơn hạ trại thì lũ chó nầy tràn đến vây lấy hắn, toan ăn thịt hắn. Hắn phải thức suốt đêm và trong nhiều đêm dài như vậy để dùng lửa trại mà đuổi xua chúng.
Hễ hắn vung lên một thanh củi, than đỏ bắn ra thì sói nới rộng vòng vây, nhưng năm phút sau là đâu trở vào đấy khiến hắn mệt mỏi vô cùng vì cuộc chiến đấu không ngừng này.
Kẻ băng rừng tuyết hễ ngủ quên là chết. Nàng cũng thế, hễ ngừng tay quét là rác bẩn sẽ tràn tới phủ ngập tâm hồn, và mãi như vậy cho đến tối. Thu uống một viên thuốc ngủ mới bình tĩnh lại được.
Loại thuốc ngủ này vừa có dược tánh dỗ giấc, vừa an thần, nên lúc chưa ngủ, người uống vẫn nghe được cảm giác bình yên thơ thới.
Nàng tránh được một đêm trằn trọc, phải vật lộn với những ý nghĩ không hay.
Sáng hôm sau, Thu thức dậy mệt nhọc vô cùng vì hậu quả của thuốc ngủ, và vì những cơn ác mộng của đêm rồi. Nàng thấy những gì, không còn nhớ cho hết, chỉ giữ được có một hình ảnh sau cùng thôi là đang đứng trên miệng một vực thẳm, nhìn xuống dưới thấy tối om. Nàng biết chắc hễ rơi xuống đó là nát xương, nhưng lại cứ muốn nhảy xuống đó.
Nàng phải uống rốc một ly cà-phê đậm đen mới xua được sự uể oải trong người. Những giọt cà-phê từ phin rịn xuống ly khi nãy, giờ như đang thấm vào các tế bào của nàng để đuổi bắt những con làm biếng bé tí ti ẩn úp trong đó.
Thu lo bữa ăn sáng cho con và cho nàng xong thì giao nhà và giao Lan-Chi cho con ở rồi xách giỏ đi chợ như thường bữa.
Nửa tiếng đồng hồ sau, về đến nơi, mới nắm chiếc hột xoài mà vặn thì đã nghe Lan-Chi nói to bên trong:
– Má ơi! Ba gởi thơ về.
Nàng vừa mở cánh cửa ra thì Lan-Chi cũng chạy ra tới đó, tay cầm một tấm bưu thiếp mà khoe:
– Má ơi! Ba gởi thơ về cho Lan-Chi.
Nhà nầy không bao giờ nhận được thơ của ai cả, trừ những bưu kiện sách vở mà Hòa mua ở ngoại quốc. Lan-Chi thơ dại nhưng cũng rất thông minh mà đoán được ngay đó là thơ của cha nó.
Thu trao giỏ đồ ăn cho con nhỏ rồi rước lấy bưu thiếp mà xem. Đây là tấm bưu thiếp thứ nhì, chàng gởi về từ khi lên đường, vẫn vắn tắt mấy lời như bưu thiếp trước:
Em,
Anh đã tới Bạc-Xơ-Lôn hôm qua. Mệt lắm. Mai nầy đã khai hội rồi. Sẽ viết thư thật dài về cho em. Nhớ em và nhớ Lan-Chi lổm. Hôn hai mẹ con thật nhiều.
HÒA.
– Ba nhắn gì Lan-Chi đó má?
– Ba nói nhớ Lan-Chi lắm.
– Ba nói với má hả?
Nàng giựt mình mà chợt nhận thấy con thông minh quá sức. Nó chụp được ngay một chi tiết mong manh trong câu đáp của nàng và biết ngay cha nó nói với mẹ nó chớ không phải nói với nó.
Nàng cúi xuống ẵm con lên, đi vào buồng và nói láo:
– Không, ba nói với Lan-Chi. Ba viết: « Lan- Chi ơi, ba nhớ Lan-Chi nhiều lắm »
Lan-Chi giựt lấy bưu thiếp nhìn sững mấy dòng chữ rồi hỏi:
– Chỗ nào đâu má?
Thu chỉ vào chữ Lan-Chi và nói:
– Đây.
– Phải rồi. Hồi nãy chị Sáu cũng chỉ chỗ nầy nói ba viết Lan-Chi ở đây.
Thu đặt con xuống giường để nó chơi với tấm bưu thiếp, đi thay y phục rồi xuống nhà bếp chỉ cho con nhỏ những công việc mà nó phải làm như là lặt rau, làm cá, trước khi nàng bắt tay vào việc.
Nàng trở lên buồng trên, xin con tấm bưu thiếp để nằm mà nhìn tuồng chữ của chồng.
Hòa viết chữ tốt, rõ ràng, nhưng thật thà không bay bướm, không ngoạn-mục lắm, y như là tánh tình và nếp sống của chàng.
Thu lẩm bẩm đọc lại một vài đoạn thư: « Mai nầy đã khai hội rồi … » «… Sẽ viết thư thật dài về cho em... ».
Mai nầy đã khai hội rồi! Mai nầy chàng sẽ lạc vào mê đạo khoa học và không còn biết có trời đất quanh chàng nữa thì bức thư thật dài báo trước đó, chỉ là ảo ảnh thôi.
Giờ đây mới thật là một mình! Từ ngày chàng lên đường đến nay, Thu không nghe hoàn toàn cô đơn vì nàng biết rằng ở bên kia trời, chàng vẫn nghĩ đến nàng, qua muôn dặm trùng dương.
Giờ đây mới thật là một mình, khi mà chàng chơi vơi trong những cuộc thuyết trình, cũng như hồi còn ở nhà, chàng đã vùi đầu trong sách vở.
Một mình! Trên đời nầy, không còn ai nghĩ đến nàng nữa cả?
Thu vụt ngồi dậy như để nỗi loạn vì quá công phẫn cho phận nàng.
« Không, nàng kêu thầm lên trong bụng, không thể nào mà mình chịu được cảnh hẩm hiu nầy! Tại sao chàng lại không nghĩ đến ta trong khi không giờ phút nào mà ta không nghĩ đến chàng! »
Sự thật đã hiển nhiên ra đó là « Mai nầy », mai của ngày gởi thơ tức là chuyện đã xảy ra bốn ngày rồi, sự thật không chối cãi được là trong giây phút này đây, chồng đang say mỹ tửu khoa học của chàng, cơn say kéo dài hai ba tuần lễ, rồi sau đó chàng sẽ say trong hơn một tháng cơn say văn hóa ở Tây-Đức.
Thu ôm mặt mà khóc rồi nằm vật xuống giường. Lan-Chi lết lại gần mẹ, xoa bàn tav nhỏ xíu của nó lên tóc mẹ mà nói, giọng đả đởt mà Thu thường dùng để dỗ nó:
– Tội nghiệp má tui! Nín đi má rồi Lan-Chi cưng! Rồi Lan-Chi đi Saigon cho má đi theo.
Thu kéo tay con xuống mà hôn, và Lan-Chi cúi xuống sát tai mẹ mà nói nho nhỏ:
– Má đừng khóc chị Sáu chỉ lêu lêu mắc cỡ má đa. Lan-Chi khóc bị chỉ chế nhạo dữ lắm.