Chương 5
Đến khoảng 10 giờ 30 sáng thứ Tư, nỗi lo âu của Leigh dường như đã vượt quá sức chịu đựng. Ba tiếng trước, thanh tra Littleton đã gọi điện báo rằng mặc dù tối qua, tấm bản đồ Leigh vẽ không giúp được gì nhiều nhưng cô và thanh tra Shrader vẫn đang bám theo chỉ dẫn của nó để đi lên núi lần nữa. Cô hứa sẽ gọi lại ngay khi họ có bất cứ tin gì.
Rõ ràng những cuộc gọi khác đều bị tổng đài bệnh viện chặn lại, vì giữa đêm, ai đó đã đặt một xấp tin nhắn lên chiếc bàn đầu giường cô. Không có việc gì khác để giết thời gian, Leigh đọc lại những lời nhắn điện thoại lúc nãy cô mới chỉ liếc qua.
Jason đã gọi sáu lần; tin nhắn áp chót của anh giận dữ và cộc lốc: “Tổng đài bệnh viện đã chặn mọi cuộc gọi chết tiệt của cô, và chẳng ai được phép đến thăm cô. Bảo bác sĩ của cô cho tôi gặp cô đi, chưa đầy ba tiếng đồng hồ là tôi sẽ có mặt ở đó đấy. Gọi cho tôi đi, Leigh. Gọi cho tôi trước nhất nhé. Gọi cho tôi đi. Gọi cho tôi đi.” Rõ ràng anh đã gọi lại, ngay sau khi vừa gác máy, vì thời gian trên tin nhắn tiếp theo chỉ muộn hơn hai phút. Lần này anh muốn trấn an cô về vở kịch: “Jane đang đảm nhận rất tốt vai diễn của cô, nhưng cô ấy không phải là cô. Cô đừng quá lo lắng về vở kịch nhé.” Leigh chẳng mảy may nghĩ đến vở kịch hay người dự bị của cô, và phản ứng duy nhất của cô trước tin nhắn của Jason là không tin nổi anh có thể cho rằng bây giờ cô lại quan tâm đến cái vở kịch chết tiệt ấy.
Ngoài những tin nhắn của Jason, còn hàng tá bức điện và cuộc gọi từ các đối tác kinh doanh và bạn bè của Logan cũng như của cô. Hilda cũng gọi đến, nhưng cô giúp việc chỉ nhắn ngắn gọn “Chúc bà mau hồi phục.” Cả đại diện phát ngôn lẫn thư ký của Leigh đều gọi đến, đề nghị Leigh chỉ dẫn cho họ ngay sau khi cô đủ sức gọi điện.
Leigh tiếp tục lướt qua các tin nhắn, ấm lòng hơn một chút trước sự quan tâm chân thành của mọi người - cho đến khi cô đọc được tin nhắn từ Michael. Nó viết, “Tôi luôn nghĩ đến bà. Hãy gọi cho tôi theo số này nếu tôi có thể giúp được gì.” Tin nhắn của anh ta ngay lập tức mang lại cho cô cảm giác quá cá nhân, quá táo bạo và hoàn toàn không phù hợp, nhưng cô nhận ra phản ứng của mình phần nhiều dựa vào phản ứng tiêu cực đối với con người anh ta chứ không phải bắt nguồn từ những gì anh ta nói.
Không thể chịu nổi tình trạng ì trệ này nữa, Leigh đặt xấp tin nhắn xuống, đẩy cái bàn với khay điểm tâm vẫn còn nguyên vẹn qua một bên và với lấy điện thoại. Nhân viên trực tổng đài bệnh viện có vẻ kinh ngạc và hốt hoảng khi cô nói tên mình. “Tôi xin lỗi nếu cô đã bị quá tải bởi các cuộc gọi,” Leigh nói.
“Chúng tôi không thấy phiền gì đâu, bà Manning. Đó là nhiệm vụ của chúng tôi mà.”
“Cảm ơn cô. Lý do tôi gọi,” Leigh giải thích, “là tôi muốn chắc chắn rằng cô đã không chặn bất cứ cuộc gọi nào có thể đến từ sở cảnh sát hoặc chồng tôi.”
“Không, không, dĩ nhiên là không. Chúng tôi sẽ nối dây cho cảnh sát ngay lập tức, và tất cả chúng tôi đều biết chồng bà đang mất tích. Chúng tôi sẽ không bao giờ chặn cuộc gọi của ông ấy. Bác sĩ của bà và hai vị thanh tra từ Sở Cảnh sát New York đã chỉ dẫn cặn kẽ cho chúng tôi cách xử lý những cuộc gọi của bà. Chúng tôi sẽ nối dây cho bất cứ người nào gọi đến cho biết họ có bất cứ thông tin gì về chồng bà và sẽ nhận tin nhắn từ tất cả những người khác, ngoại trừ phóng viên. Nếu phóng viên gọi đến thì họ sẽ được chuyển máy tới văn phòng quản lý của chúng tôi để ông ấy trực tiếp xử lý.”
“Cảm ơn cô,” Leigh nói, rã rời bởi sự thất vọng. “Tôi xin lỗi đã gây nhiều rắc rối cho cô đến thế.”
“Tôi vẫn đang cầu nguyện cho vợ chồng bà,” người trực tổng đài nói.
Sự chân thành và giản dị của câu nói khiến Leigh suýt òa khóc. “Đừng dừng lại,” cô nói, giọng tắc nghẹn vì lo sợ và biết ơn.
“Tôi sẽ không dừng lại đâu, tôi xin hứa.”
“Tôi cần gọi đường dài vài cuộc,” Leigh run rẩy nói. “Tôi phải làm sao để gọi từ điện thoại này được?”
“Bà có thẻ điện thoại không?”
Thẻ tín dụng, ví và danh bạ điện thoại của Leigh đều nằm trong túi xách tay trên xe cô, nhưng cô thuộc lòng số thẻ điện thoại vì đã sử dụng khá thường xuyên. “Có, tôi có một cái.”
“Vậy thì bà chỉ cần nhấn số 9 để gọi cho đường dây bên ngoài và sử dụng thẻ theo cách thông thường.” Bất chấp thông báo từ mấy viên thanh tra, Leigh vẫn cố gọi vào số di động của Logan. Khi anh không trả lời, cô gọi cho Hilda để xem liệu cô ấy có nghe ngóng được gì không, nhưng người giúp việc đang lo lắng đó chỉ có thể lặp lại những thông tin cô ấy đã trao cho các thanh tra.
Leigh đang định gọi cho Jason thì một y tá hối hả đi vào phòng cắt ngang cô. “Sáng nay bà cảm thấy thế nào, bà Manning?”
“Khỏe,” Leigh nói dối khi người y tá kiểm tra đám ống và chai lọ gắn vào cơ thể Leigh.
“Bà không sử dụng morphine à?” cô ta hỏi, vẻ mặt băn khoăn và buộc tội.
“Tôi không cần nó. Tôi thấy rất khỏe.” Thật ra, mọi bộ phận trên cơ thể cô, từ ngón chân cho đến tóc đều đau đớn nhức nhối, và chắc chắn cô y tá biết điều đó. Cô ta nhìn Leigh chằm chằm và cau mày hoài nghi cho đến khi Leigh dịu giọng bổ sung, “Tôi không muốn morphine vì sáng nay tôi cần tỉnh táo và suy nghĩ đúng đắn.”
“Điều bà cần là không bị đau đớn và được nghỉ ngơi thoải mái để cơ thể của bà hồi phục,” cô y tá tranh cãi.
“Tôi sẽ dùng sau,” Leigh hứa hẹn.
“Bà cũng cần phải ăn nữa,” cô ta ra lệnh, đẩy cái bàn cùng khay điểm tâm của Leigh đến gần giường.
Ngay khi cô ta vừa rời khỏi, Leigh lại đẩy khay điểm tâm ra xa và với lấy điện thoại. Cô đánh thức Jason.
“Leigh à?” anh ngái ngủ lầm bầm. “Leigh! Lạy Chúa tôi!” anh lắp bắp, tỉnh giấc hẳn. “Chuyện chết tiệt gì vậy? Cô khỏe không? Cô có nghe được tin tức gì từ Logan không? Anh ấy ổn chứ?”
“Không có tin tức gì từ Logan cả,” Leigh nói. “Tôi khỏe. Hơi đau và bị băng bó, chỉ có vậy thôi.” Cô có thể cảm nhận được lương tâm và tính tư lợi của Jason đang chiến đấu với nhau trong lúc anh cố gắng chống lại niềm khát khao được hỏi xem khi nào cô có thể quay lại với vở kịch. “Tôi cần giúp đỡ,” cô nói.
“Chuyện gì cũng được.”
“Tôi muốn thuê người hỗ trợ việc tìm kiếm Logan. Tôi nên gọi ai để thu xếp chuyện này? Thám tử tư chăng? Anh có biết người nào như thế không?”
“Cưng ạ, thật không tin nổi cô lại nghi ngờ chuyện đó đấy. Theo cô thì sao tôi có thể bắt quả tang Jeremy không chung thủy với mình chứ? Cô nghĩ làm sao tôi tránh được cái gã lang băm đã khẳng định...”
“Anh có thể cho tôi tên công ty và số điện thoại không?” Leigh cắt ngang.
Lúc Leigh lấy bút từ ngăn kéo cạnh giường và viết số điện thoại vào mặt sau một bức điện, cô quá đau đến nỗi chẳng suy nghĩ được gì. Cô gác máy và ngã lưng ra gối, cố gắng tập trung để hít thở sao cho không làm xương sườn đau hơn. Cô còn đang làm thế thì người y tá lúc nãy đã quay lại và nhìn thấy khay điểm tâm vẫn còn y nguyên. “Bà phải ăn thật đấy, bà Manning. Mấy ngày nay bà đã không ăn gì rồi.”
Y tá riêng của Leigh thì dễ phớt lờ hơn, nhưng bà ta đã về nhà ngủ và đến tận tối mới quay lại. “Tôi sẽ ăn, nhưng không phải bây giờ...”
“Tôi kiên quyết yêu cầu đấy,” cô y tá vừa cãi lại vừa đẩy cái bàn di động về phía trên lòng Leigh. Cô ta mở nắp nhựa trên mấy cái đĩa. “Bà muốn ăn gì trước nào?” cô ta dịu dàng hỏi. “Xốt táo, mầm lúa mì với sữa hay trứng chần?”
“Tôi nghĩ tôi không thể nuốt nổi bất cứ món nào trong số đó đâu.”
Cau mày, cô y tá nhìn lướt qua tờ danh sách nhỏ cạnh khay. “Đây là những món bà đặt tối qua.”
“Hẳn là tôi đã bị mê sảng.”
Rõ ràng cô y tá cũng tán thành ý kiến này, nhưng cô ta không từ bỏ mục tiêu. “Tôi có thể kêu ai đó xuống căng tin. Bà thường thích ăn điểm tâm như thế nào?”
Câu hỏi đơn giản nhấn chìm Leigh trong nỗi khao khát về quãng đời cũ, khao khát nhịp sống thường nhật thân thương và an toàn, đến nỗi cô cảm thấy mắt cay sè. “Tôi thường ăn hoa quả. Một quả lê - và cà phê.”
“Tôi có thể lo được,” cô y tá vui vẻ nói, “và tôi cũng không cần phải nhờ người khác xuống căng tin.”
Cô ta vừa rời khỏi phòng thì thanh tra Shrader và Littleton đi vào. Leigh ngồi thẳng lên. “Các vị đã tìm thấy ngôi nhà ấy chưa?”
“Chưa, thưa bà. Tôi xin lỗi. Chúng tôi không có tin tức gì mới mà chỉ muốn hỏi bà vài câu thôi.” Anh hất đầu về phía khay điểm tâm. “Bà cứ ăn xong bữa đi. Chúng tôi đợi được mà.”
“Y tá đang lấy cho tôi món khác rồi,” Leigh nói.
Như vừa nhận được tín hiệu, cô y tá bước vào, đẩy chiếc xe chở một rổ lê khổng lồ cột ruy băng vàng, đặt trên lớp vải xa tanh vàng. “Cái giỏ này được để ngoài quầy y tá. Một tình nguyện viên đem lên và nói nó được gửi cho bà. Đây không phải những trái lê bình thường đâu, chúng là cả tác phẩm nghệ thuật đấy!” cô ta tán tụng, lấy một trái lê khổng lồ, bóng loáng từ cái tổ màu vàng ấy giơ lên cao chiêm ngưỡng. Cô ta săm soi khắp giỏ. “Hình như chẳng có tấm thiệp nào. Chắc nó bị rơi ra ngoài. Tôi sẽ tìm nó sau,” cô ta vừa nói vừa trao trái lê cho Leigh. “Giờ tôi sẽ để bà nói chuyện với khách.”
Trái lê trong tay gợi Leigh nhớ lại cuộc chuyện trò cuối cùng về bữa điểm tâm với Logan, và những giọt lệ ủy mị ứa ra trên mắt cô. Cô khum tay giữ trái lê, vừa vuốt đầu ngón tay trên lớp vỏ nhẵn thín của nó vừa nghĩ đến làn da của Logan, nụ cười của anh; rồi cô ấp nó vào trái tim, nơi chất chứa những ký ức khác của cô về Logan, an toàn và sống động. Hai giọt nước mắt trượt trên hàng mi.
“Bà Manning này...”
Bối rối, Leigh vội chùi nước mắt. “Tôi xin lỗi - chỉ là chồng tôi lúc nào cũng trêu rằng tôi bị nghiện lê. Mấy năm nay hầu như sáng nào tôi cũng ăn một trái.”
“Chắc là khá nhiều người biết điều này?” thanh tra Littleton bất chợt hỏi.
“Nó không phải một bí mật,” Leigh nói, đặt trái lê qua một bên. “Thỉnh thoảng anh ấy vẫn trêu chọc về chuyện đó ngay trước mặt mọi người. Có lẽ những trái lê này được gửi từ người giúp việc của tôi, thư ký của tôi, hoặc có nhiều khả năng là từ siêu thị thường bán cho tôi khi tôi ở nhà.” Cô hất đầu về phía hai cái ghế nhựa nâu. “Hai người ngồi đi.”
Littleton kéo ghế đến sát giường Leigh trong khi Shrader giải thích tình hình. “Bản đồ của bà không hữu ích như chúng tôi hy vọng. Các hướng dẫn hơi mâu thuẫn, bị thiếu dấu mốc hoặc bị tuyết che mất. Chúng tôi đang kiểm tra với tất cả những người kinh doanh bất động sản trong khu vực, nhưng cho đến nay không ai biết bất cứ điều gì về căn nhà và mảnh đất bà đã mô tả.”
Một ý nghĩ đột ngột lóe lên trong tâm trí Leigh - một giải pháp quá hiển nhiên đến nỗi cô gần như chết lặng vì chính họ đã không nghĩ ra. “Tôi biết là lúc gặp phải tai nạn tôi đã đến rất gần ngôi nhà rồi. Người đã tìm thấy tôi ở bên đường sẽ biết chính xác địa điểm! Anh chị đã nói chuyện với người đó chưa?”
“Chưa, chúng tôi vẫn chưa nói chuyện được với ông ta...” Shrader thú thật.
“Sao lại chưa?” Leigh la lên. “Tại sao anh phải lang thang khắp nơi trên núi, cố gắng lần theo bản đồ của tôi trong khi anh chỉ việc nói chuyện với người đã cứu tôi là xong?”
“Chúng tôi không thể nói chuyện với ông ta vì không biết ông ta là ai.”
Nỗi tức giận bắt đầu nện thình thịch trong đầu Leigh. “Làm gì có chuyện khó xác định được anh ta. Anh chị hỏi tài xế xe cứu thương đã mang tôi đến đây xem. Chắc chắn họ đã gặp và nói chuyện với anh ta.”
“Bà bình tĩnh đã,” Shrader nói. “Tôi hiểu tại sao bà bực tức thế. Hãy để tôi cập nhật thông tin về tình huống bà được cứu.”
Ý thức được tình huống hẳn phức tạp hơn mình vừa nghĩ, Leigh cố làm như anh đề nghị. “Được rồi, tôi bình tĩnh lại rồi. Anh cho tôi biết đi.”
“Người đàn ông tìm thấy bà vào tối Chủ nhật đã đưa bà xuống núi đến khách sạn nhỏ Venture ở ngoại ô Hapsburg. Ông ta đánh thức người trực đêm của khách sạn và bảo ông này gọi 911. Sau đó ông ta thuyết phục người quản lý tốt nhất hãy để bà nghỉ ngơi trong một căn phòng có lò sưởi và chăn ấm cho đến khi xe cứu thương đến. Sau khi hai người đưa bà vào phòng, người cứu bà bảo viên quản lý là ông ta phải quay lại xe để lấy đồ đạc cá nhân của bà. Ông ta đã không quay lại. Mấy phút sau, khi người trực đêm đi tìm ông ta thì thấy xe ông ta đã rời khỏi khách sạn rồi.”
Nỗi tức giận trong Leigh đột nhiên cạn kiệt, và trong cô chỉ còn lại cảm giác thất vọng ủ rũ. Nhắm mắt lại, cô dựa đầu vào gối. “Đúng là điên rồ. Sao lại có người hành động như thế chứ?”
“Có vài cách giải thích khả dĩ. Cách có khả năng nhất là ông ta chính là người đã đâm bà rơi khỏi đường. Sau đó, cảm thấy ăn năn tội lỗi nên ông ta quay lại xem liệu có tìm thấy bà hay không. Đến khi tìm được bà, ông ta bắt đầu lo lắng sẽ bị buộc tội gây tai nạn nên sau khi cố gắng để bà được chăm sóc tử tế ở khách sạn đó, ông ta đã bỏ đi trước khi cảnh sát và xe cứu thương đến. Dù có phải người đụng bà thật hay không thì chắc chắn ông ta vẫn có vài lý do để không muốn nói chuyện với cảnh sát.
“Quản lý khách sạn cho biết người này lái một chiếc xe bốn cửa màu đen hoặc nâu đậm - ông ta nghĩ chắc là một chiếc Lincoln - rất cũ và bị trầy xước khá nhiều. Viên quản lý đã bảy mươi tuổi và không để ý quá nhiều đến các chi tiết khác vì còn phải cố giúp mang bà ra khỏi chiếc xe. Ký ức của ông ta về người tài xế thì rõ ràng hơn, và ông ta đã đồng ý ngày mai sẽ làm việc với các nhà ký họa của chúng tôi trong thành phố. Hy vọng họ sẽ vẽ được một bức chân dung khả dĩ để chúng tôi có thể sử dụng nếu chồng bà vẫn chưa xuất hiện.”
“Tôi hiểu rồi,” Leigh thì thầm, quay mặt đi chỗ khác. Nhưng tất cả những gì cô có thể thực sự hiểu là vẻ mặt hạnh phúc của Logan khi anh hôn tạm biệt cô vào sáng Chủ nhật. Anh đang ở đâu đó ngoài kia - bị thương hoặc mắc kẹt trong tuyết, hoặc cả hai. Đó là hai lựa chọn duy nhất mà Leigh sẵn lòng xem xét. Cô không đủ can đảm đối diện với khả năng quá đau đớn là đến lúc này đã quá muộn để giúp đỡ hoặc cứu Logan rồi.
Thanh tra Littleton nói chuyện lần đầu tiên, giọng hơi do dự. “Còn một chuyện nữa chúng tôi muốn hỏi bà...” Leigh chớp chớp mi ngăn giọt lệ đang bỏng rát trong mắt và buộc mình phải nhìn cô gái tóc đỏ. “Sáng nay, cảnh sát Borowski đã quay trở lại làm việc sau kỳ nghỉ phép và anh ta cho chúng tôi biết hồi tháng Chín bà đã báo về một kẻ bám đuôi. Chính cảnh sát Borowski đã ghi lại thông tin này và anh ta nghĩ chúng tôi nên biết. Chuyện này có còn tiếp diễn không?”
Tim Leigh bắt đầu nện thình thịch và nỗi sợ hãi làm giọng cô run rẩy đến mức gần như không thể nghe được. “Cô nghĩ rằng một kẻ bám đuôi đã hất tôi rớt khỏi đường hoặc hắn ta có thể đã làm chuyện gì đó với chồng tôi ư?”
“Không, không, hoàn toàn không,” thanh tra Littleton nói kèm theo nụ cười trấn an ấm áp. “Chúng tôi chỉ cố giúp đỡ thôi. Giờ những con đường chính đã quang rồi, còn đường nhỏ cũng đang được dọn sạch. Ngoài vài khu vực hẻo lánh vẫn chưa xong xuôi mọi việc ra thì ở các nơi khác điện thoại và đường dây điện đều đã được phục hồi. Giờ chồng bà có thể sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào. Chúng tôi nghĩ trong thời gian chúng tôi vẫn đang làm việc cùng bà, có lẽ bà muốn chúng tôi thử xem có tìm hiểu được gì về lai lịch của kẻ bám đuôi kia không. Nếu bà không muốn chúng tôi...”
“Nếu các vị làm thế thì tôi sẽ rất cảm kích,” Leigh nói, bám vào lời giải thích của thanh tra Littleton vì cô muốn tin nó.
“Bà có thể kể cho chúng tôi nghe về kẻ bám đuôi đó không?”
Leigh kể lại những sự việc đã làm cô lo lắng.
“Bà nói hắn đã gửi hoa phong lan cho bà,” Littleton nói khi Leigh đã kể xong. “Bà đã ngó qua các tấm thiệp trên những giỏ hoa này chưa?”
“Chưa.”
Littleton đứng lên và đi đến giỏ phong lan trắng trước tiên. “Cái này là từ Stephen Rosenberg,” cô nói, đọc tấm thiệp.
“Anh ta là một trong những nhà tài trợ của vở kịch,” Leigh bảo cô.
Littleton lần lượt đọc cho Leigh nghe thông điệp và tên trên các tấm thiệp khác. Giữa chừng, cô hất đầu về phía xấp tin nhắn và điện tín trên bàn ngủ của Leigh. “Bà có xem kỹ chúng chưa?”
“Hầu hết,” Leigh nói.
“Liệu có phiền gì không nếu thanh tra Shrader lướt qua chúng một lượt trong khi tôi làm việc này?”
Leigh thấy chẳng vấn đề gì, nhưng Shrader có vẻ không quá phấn khởi khi bắt đầu xem xấp tin nhắn. Khi cái tên trên bó hoa cuối cùng cũng là cái tên Leigh quen biết, Littleton nhặt áo khoác và Shrader cũng đứng lên, cố gắng kết thúc công việc khi đứng. Anh đang đọc một trong những tin nhắn cuối cùng thì đột nhiên thay đổi hẳn thái độ, lộ rõ vẻ khó chịu. Anh nhìn Leigh chằm chằm, quan sát cô như thể cô vừa biến thành một người khác, không mấy dễ chịu. “Chà, có lẽ Michael Valente là một người bạn thân của bà?”
Vẻ mặt anh, và thậm chí cả vẻ mặt Littleton, khiến Leigh có cảm giác sự kết giao ấy đã khiến mình trở nên nhơ nhuốc.
“Không, không phải vậy,” Leigh tuyên bố dứt khoát. “Tôi gặp ông ta lần đầu tiên tại bữa tiệc mừng vở kịch công diễn vào tối thứ Bảy.” Cô không muốn nói thêm, không muốn nhắc rằng buổi tiệc đã được tổ chức tại nhà cô, và nhất là cô không muốn họ biết Logan đang bàn chuyện làm ăn với Valente. Cô không muốn nói bất cứ điều gì khiến mấy viên thanh tra có bất cứ suy nghĩ nào xa xôi hơn chuyện Logan là một doanh nhân hoàn toàn đứng đắn và một người chồng yêu dấu đang bị mất tích. Mà anh thì đúng là người như thế thật.
Cả hai thanh tra có vẻ chấp nhận lời giải thích của cô. “Tôi nghĩ vì là một ngôi sao lớn nên bà cũng thu hút khá nhiều kẻ gàn dở và đáng sợ,” Shrader nói.
“Nó đi đôi với công việc mà,” Leigh nói, cố đùa nhưng chỉ thất bại thảm hại.
“Giờ chúng tôi sẽ để bà nghỉ ngơi,” anh nói. “Nếu bà cần liên lạc với chúng tôi thì bà đã có số điện thoại di động rồi đấy. Chúng tôi sẽ cố lần theo bản đồ của bà một lần nữa. Thông thường, với một tai nạn giống như của bà thì việc định vị địa điểm khá đơn giản, nhưng tuyết bên lề đường quá dày nên rất khó nhận ra những dấu hiệu mà chúng tôi đang tìm kiếm.”
“Nếu phát hiện ra điều gì, bất cứ điều gì, hãy gọi ngay cho tôi nhé,” Leigh khẩn khoản.
“Chúng tôi sẽ gọi,” Shrader hứa hẹn. Anh kìm nén cơn giận trong khi Littleton ghé vào quầy y tá hỏi thăm về tấm thiệp đã bị mất từ giỏ lê. Anh kìm nén cơn giận trong khi cô y tá tìm kiếm một hồi nhưng không thấy tấm thiệp, tuy nhiên khi đến dãy thang máy, anh trút hết mọi bức xúc lên đầu Sam. “Hành động vừa rồi của cô đúng là hoàn toàn điên rồ! Cô làm cô ta sợ đến vãi tè khi nhắc đến câu chuyện vớ vẩn về kẻ bám đuôi đó. Cô ta không tin lý do điều tra của cô. Cô ta biết đích xác cô đang nghĩ gì.”
“Cô ấy đâu có ngốc. Chẳng mấy chốc cô ấy sẽ nhớ đến hắn ta thôi, và sau đó cô ấy sẽ sợ chết khiếp vì có lẽ chính hắn ta phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra,” Sam phản kích. “Tốt hơn hết hãy cho cô ấy biết chúng ta đã nghĩ đến chuyện đó và vẫn đang theo sát tình hình.”
“Theo sát kiểu gì?” anh chế giễu. “Đến giờ kẻ bám đuôi cô ta vẫn đang nhởn nhơ tặng những món quà lãng mạn, và có lẽ hắn ta sẽ tiếp tục làm thế cho đến khi bị ai đó khác thu hút. Thứ hai, những kẻ bám đuôi chẳng bao giờ hành động tự phát - chúng mơ tưởng về khoảnh khắc chúng lộ diện. Chúng lập kế hoạch rồi mơ tưởng, và chúng không thích bị chệch hướng. Chúng không quyết định hành động giữa một cơn bão tuyết bất ngờ không thể dự đoán, trừ phi chúng cũng có thể lập kế hoạch cho thời tiết - mà đây rõ ràng là điều không tưởng.”
Thang máy đến khiến anh phân tâm một lúc, và khi thấy nó đang trống không, Sam cố giải thích lý luận của cô. “Anh không thấy thật kỳ quặc khi chồng cô ấy biến mất trong cùng một đêm cô ấy suýt bị giết sao - và rồi lại còn được bí mật cứu thoát nữa? Quá nhiều sự trùng hợp.”
“Cô đang ám chỉ một kẻ bám đuôi phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ chuyện này chăng? Cô nghĩ cô ta có bao nhiêu kẻ bám đuôi chứ?”
Sam phớt lờ lời nhạo báng của anh. “Tôi nghĩ rất có thể trong lúc theo dõi, hắn đã nhìn thấy xe cô ấy bị tuột khỏi đường, và hắn đã ở lại đó để cứu cô ấy.” Ngay khi vừa buột miệng, Sam đã ước gì mình không nói thế, vì ngay cả cô cũng cảm thấy giả thuyết ấy thật lố bịch.
“Đó là giả thuyết của cô ư?” anh chế giễu. “Kẻ bám đuôi trở thành hiệp sĩ ư?” Không chờ câu trả lời, anh nói, “Nào, để tôi cho cô biết giả thuyết của tôi nhé: Manning bị kẹt trong trận bão tuyết và vì lý do nào đó, anh ta không thoát ra được. Bà Manning bị mất tay lái trong cùng cơn bão tuyết mịt mùng đó và bị rơi khỏi đường. Lý do tôi thích giả thuyết này là: trong trận bão tuyết ngày chủ nhật đó, hàng trăm người đã gặp chuyện tương tự! Còn lý do tôi không thích giả thuyết của cô là thế này: nó không thực tế. Thực ra, nó rất kỳ quặc. Tóm lại, quá tệ.”
Thay vì bực bội trước màn tổng kết chính xác của anh, Sam nhìn anh một hồi rồi bật cười. “Anh nói đúng, nhưng xin đừng nói giảm nói tránh vì tôi nhé.”
Shrader là đàn ông, do đó việc được “đúng” vừa là một lời khen - khiến tâm trạng của anh được cải thiện ngay lập tức - vừa là một quyền ưu tiên đặc biệt. “Lẽ ra cô nên trao đổi trước với tôi về giả thuyết của cô đã rồi hẵng giáng cho bà Manning một đòn chí mạng như thế,” anh chỉ ra vấn đề, nhưng giọng đã vui vẻ hơn.
“Lúc chúng ta đến đây rồi tôi mới nảy ra suy nghĩ đó,” Sam thừa nhận khi cánh cửa thang máy mở ra lầu một. “Chính giỏ lê đã làm tôi nghĩ theo hướng đó. Chúng đại diện cho mối hiểu biết riêng tư về thói quen của bà ấy - một thông tin kiểu ‘người trong cuộc’ - và lại không có tấm thiệp nào đi kèm hết. Rồi, khi tôi phát hiện ra bà Manning phản ứng mạnh mẽ như thế nào với chúng...”
“Bà ấy đã giải thích tại sao bà ấy phản ứng như thế rồi đấy.”
Sau khi họ đã băng qua một nửa hành lang, Sam quyết định đi vòng, khiến Shrader hiểu nhầm là cô định đến phòng vệ sinh nữ. “Tôi sẽ gặp anh ở bãi đậu xe,” cô bảo anh.
“Tuyến tiền liệt gặp rắc rối à?” anh đùa. “Cô đã dừng lại trên đường lên tầng trên rồi còn gì.”
Sam bước đến bàn tiếp tân, nơi vài giỏ hoa mới đang chờ được chuyển đến phòng bệnh nhân. Cô chìa phù hiệu ra cho một tình nguyện viên đứng tuổi có mái tóc ánh xanh và đeo bảng tên ghi Bà Novotny. “Sáng nay có một giỏ lê lớn được đưa đến đây phải không?” Sam hỏi bà.
“Ồ, vâng,” tình nguyện viên này nói. “Tất cả chúng tôi đều kinh ngạc trước kích cỡ của những trái lê ngon mắt đó.”
“Bà có tình cờ để ý đến chiếc xe tải hoặc xe hơi đã mang chúng đến không?”
“Thật tình là có. Đó là một chiếc xe hơi màu đen - kiểu xe của các ngôi sao điện ảnh ấy - tôi biết thế vì lúc đó có hai thanh niên ngồi ngay đằng kia và họ rất ngưỡng mộ nó. Một cậu nói nó đáng giá ít nhất ba trăm ngàn đô la!”
“Họ có nhắc gì đến loại xe không?”
“Có đấy. Họ nói đó là một...” Bà ngừng lại suy nghĩ một hồi rồi khuôn mặt sáng bừng lên. “Họ nói đó là một chiếc Bentley! Tôi cũng có thể mô tả người tài xế: anh ta mặc đồ đen, đội mũ lưỡi trai đen. Anh ta mang giỏ lê đến đặt trên bàn làm việc của tôi. Anh ta nói chúng được gửi cho bà Leigh Manning và nhờ tôi chuyển cho bà ấy càng sớm càng tốt. Tôi đã bảo với anh ta là tôi sẽ làm như vậy.”
Sam cảm thấy mình chẳng khác gì một kẻ ngu ngốc tuyệt đối khi cứ bị ám ảnh bởi một giỏ hoa quả đắt tiền rõ ràng vô hại được một tài xế lái Bentley chuyển đến. Shrader đã đúng hoàn toàn. “Cám ơn bà, bà Novotny, bà đã giúp chúng tôi rất nhiều,” Sam máy móc đảm bảo, vì cô nghĩ là làm cho mỗi công dân chịu hợp tác cảm thấy họ rất giá trị là việc rất quan trọng. Đó là một cách nói “cám ơn bà vì đã sẵn lòng dính dáng đến vụ này.”
Bà Novotny quá khoái chí đến nỗi càng cố tỏ ra hữu ích. “Nếu muốn biết bất cứ thông tin gì về người tài xế, cô có thể hỏi người gửi giỏ lê đến, cô thanh tra.”
“Chúng tôi không biết ai là người gửi,” Sam nói với lại sau lưng. “Không có tấm thiệp nào đi kèm cả.”
“Chiếc phong bì đã bị rơi ra ngoài.”
Cách nói của bà ta làm Sam phải dừng bước và quay lại.
Bà Novotny đang cầm một phong bì hình vuông. “Tôi đang định nhờ một tình nguyện viên mang cái này lên tầng cho bà Manning nhưng sáng nay ai cũng đều bận rộn. Hầu như giường nào ở đây cũng đều có người bị thương vì trận bão tuyết. Nhiều người bị ngã, bị tai nạn xe hoặc bị lên cơn đau tim do xúc tuyết.”
Sam cám ơn bà rối rít rồi nhận chiếc phong bì, tiếp tục băng qua tiền sảnh. Cô mở phong bì, không mong khám phá ra bất cứ thông tin giá trị gì mà chỉ tại cô đã tự bêu xấu mình với Shrader và làm bà Manning lo lắng về giỏ trái cây mà đáng lẽ cái phong bì này phải được đính kèm. Cô rút từ trong phong bì ra một tờ giấy văn phòng gập đôi rập nổi hoa văn và đọc tin nhắn viết tay trên đó. Rồi cô dừng hẳn lại. Và đọc thêm hai lần nữa.
Shrader đã lấy xe ra khỏi bãi và đang đợi ngay bên lề đường ngoài cửa chính. Hơi khói xì ra từ ống bô và một lớp băng mỏng, cứng đã hình thành trên kính chắn gió. Anh đang dùng tấm thẻ tín dụng cạo nó ra - một công việc thú vị khi cần gạt nước đang chạy hết tốc lực trên kính chắn gió còn các khớp ngón tay của anh đều để trần. Cô đợi trên xe cho đến khi anh đã chui vào trong, vừa thổi vừa chà hai bàn tay lạnh cóng vào nhau; sau đó cô đưa cho anh tờ giấy gấp đôi. “Gì đây hả?” anh vừa hỏi vừa thổi mấy ngón tay.
“Lời nhắn đi kèm giỏ lê của bà Manning.”
“Sao cô lại đưa nó cho tôi?”
“Vì anh đang lạnh,” cô nói, “và tôi nghĩ cái này sẽ... truyền nhiệt cho anh.”
Rõ ràng Shrader cho rằng chẳng đời nào có chuyện đó, và anh bày tỏ quan điểm bằng cách phớt lờ tờ giấy rồi tiếp tục chà hai tay vào nhau. Xong xuôi, anh cài số chiếc xe Ford, quan sát kính chiếu hậu và đánh xe khỏi lề đường. Cuối cùng, anh với lấy tờ giấy, hờ hững mở ra bằng ngón tay cái, và khi họ đến gần biển báo dừng tại lối sang đường cho khách bộ hành, Shrader cuối cùng cũng liếc nhìn nó.
“Mẹ kiếp!” Anh đạp mạnh phanh đến nỗi dây an toàn của Sam siết chặt lại còn đuôi xe quét trên mặt đường phủ băng. Anh đọc lại lần nữa sau đó từ từ ngẩng mái đầu đen to lớn lên và nhìn cô chằm chằm, đôi mắt nâu sáng rực vừa kinh ngạc vừa hồi hộp - một con chó dữ sung sướng tột cùng vì vừa tóm được miếng thăn bò tươi roi rói. Anh lắc đầu như thể để tỉnh táo lại. “Chúng ta phải gọi cho Đại úy Holland,” anh nói, lái chiếc Ford dạt vào lề. Mỉm cười lặng lẽ, anh nhấn số trên chiếc điện thoại vô tuyến. “Đúng là một hành động phi thường, Littleton! Nếu Logan Manning không xuất hiện sớm - khỏe mạnh và tráng kiện - thì cô vừa mới trao cho Sở Cảnh sát New York một vụ án đủ sức biến cô thành người hùng và giúp Holland thành Cảnh sát trưởng nhiệm kỳ tới đấy. Sau này Cảnh sát trưởng Trumanti có thể vui vẻ mà chết được rồi.” Anh quát vào điện thoại, “Shrader đây. Tôi cần nói chuyện với Đại úy.” Anh lắng nghe một lát rồi nói tiếp, “Nhắn với anh ấy là có chuyện khẩn cấp. Tôi sẽ chờ.”
Anh đưa điện thoại ra xa tai để ấn nút câm; sau đó tuyên bố, “Giá kể cô mà chưa phải là thiên thần yêu dấu của Holland thì từ giờ trở đi cô cũng được vậy rồi.”
Sam cố kìm nén cơn giật thột. “Anh bảo tôi là ‘thiên thần’ của anh ấy nghĩa là sao?”
Shrader nhìn cô, vẻ xấu hổ. “Quên chuyện tôi vừa nói đi. Dù giữa cô và Holland có chuyện gì đi nữa thì cũng không phải việc của tôi. Tuy nhiên, bây giờ có thể thấy rõ cô không phải người chỉ có mỗi cái mã ngoài, cô rất có năng khiếu, cô kiên trì, cô có khả năng! Đó mới là điều quan trọng.”
“Lúc này, đối với tôi, điều quan trọng duy nhất là anh đã ám chỉ Đại úy Holland thiên vị tôi, và tôi muốn biết tại sao anh lại nghĩ vậy.”
“Khỉ thật, ở Phân khu 18 ai mà chẳng nghĩ vậy!”
“Ôi, trời ơi, điều đó làm tôi thấy dễ chịu hơn nhiều đấy,” cô nói bằng giọng châm chọc. “Giờ thì trả lời câu hỏi của tôi đi nếu không tôi sẽ cho anh thấy sự ‘kiên trì’ mà anh chưa bao giờ...”
Người ở đầu dây bên kia nói gì đó, và Shrader giơ tay ngăn chặn cơn bùng nổ của Sam. “Tôi sẽ đợi,” anh nói rồi nhìn Sam, ước lượng mức độ quyết tâm của cô và cuối cùng quyết định tin vào lời đe dọa của cô. “Xét theo bằng chứng thôi,” anh nói, sau khi lại ấn nút câm. “Cô là thanh tra mới vào nghề, nhưng cô muốn vào Đội Trọng án ở Phân khu 18 và thế là cô được vào Đội Trọng án. Chúng tôi có nhiều vụ án không lối thoát, nhưng Holland không muốn giao cho cô bất cứ vụ nào trong số đó; anh ta muốn cô bắt đầu bằng một vụ sạch sẽ ngon nghẻ. Cô cần một cộng sự thường trực, nhưng Holland không phân cho cô làm việc cùng một người bất kỳ nào đó. Anh ta muốn đích thân lựa chọn cộng sự cho cô...”
Sam chộp lấy lời giải thích duy nhất chẳng hề thỏa đáng mà cô có thể nghĩ ra ngay lúc này. “Hiện tại Holland đang giữ trách nhiệm phân công công việc cho mọi người, vì vị trí của Trung úy Unger vẫn còn trống.”
“Phải, nhưng Holland không phân một cộng sự bất kỳ cho cô, vì anh ta muốn đảm bảo cộng sự của cô là người thực sự giỏi, một người ‘hợp’ với cô.”
“Vậy thì tại sao anh ta lại có thể chọn anh chứ?”
Shrader cười toe trước lời chế giễu của cô. “Vì anh ta biết tôi sẽ ‘canh chừng’ cô.”
“Anh ấy bảo anh canh chừng tôi à?” Sam há hốc miệng, choáng váng phẫn nộ.
“Chính xác từng từ một.”
Cô ngẫm nghĩ một lát rồi nhún vai ra vẻ không thèm quan tâm. “Tốt, nếu chỉ có thế mà mọi người đều nghĩ là có chuyện kỳ quặc thì tất cả các vị chỉ là một đám mụ già nhiều chuyện thôi.”
“Làm ơn đi, Littleton. Nhìn lại mình xem - cô không phải một nữ cảnh sát điển hình. Cô không chửi thề, cô không tức giận, cô quá đứng đắn và nữ tính, và trông cô không giống cảnh sát.”
“Anh chỉ chưa nghe thấy tôi chửi thề thôi,” Sam chỉnh lại, “và anh chưa thấy tôi nổi giận, còn dáng vẻ của tôi thì có vấn đề gì nào?”
“Không có gì. Cứ hỏi Holland và vài người ở Phân khu 18 xem - họ nghĩ cô trông rất khá. Tất nhiên, các nữ thanh tra ở Phân khu 18 đều già hơn cô nhiều và nặng hơn năm sáu cân, vì vậy họ không có gì nhiều để so sánh với cô.”
Sam lắc đầu ghê tởm và cố giấu sự nhẹ nhõm của mình, nhưng lời tuyên bố kế tiếp của anh đã làm cô giật mình và chấm dứt ngay khoảng thư giãn tạm thời đó. “Vì cô muốn biết toàn bộ sự thật,” anh nói, “theo lời đồn ở trụ sở chính, cô có người quen có thế lực - bạn bè địa vị cao - đại loại thế.”
“Đúng là lối tư duy điển hình,” Sam nói, cố ra vẻ thích thú khinh khỉnh. “Hễ một phụ nữ bắt đầu thành công trong lĩnh vực nào đó do đàn ông làm chủ là cánh đàn ông các người lại sẵn sàng áp đặt cho thành công đó bất cứ nguyên nhân gì, bất cứ thứ gì, ngoại trừ khả năng.”
“Tốt, khoản đó thì cô có thừa,” Shrader bất ngờ nói; rồi anh đột ngột ngừng lại khi Holland cuối cùng cũng nhận điện và rõ ràng đang bắt đầu cằn nhằn Shrader vì đã giữ máy làm tốn tiền điện thoại.
“Vâng, thưa Đại úy, tôi biết - có lẽ năm phút. Vâng, thưa Đại úy, nhưng thanh tra Littleton đã khám phá ra một chuyện mà tôi cho là anh muốn biết ngay.”
Vì Shrader là thanh tra chính xử lý vụ án và cũng là người “chịu trách nhiệm về cô” nên Sam những tưởng anh sẽ lấy điểm từ phát hiện của cô hoặc ít nhất cũng tự mua vui bằng cách trực tiếp nói với Holland, nhưng trước sự bất ngờ của Sam, Shrader trao điện thoại cho cô kèm theo cái nháy mắt. “Holland nói tốt nhất đây nên là chuyện hay ho.”
Đến lúc kết thúc cuộc gọi, Sam hoàn toàn tin chắc Đại úy Thomas Holland cho rằng thông tin của cô xứng đáng với một cuộc gọi đắt tiền.
Thực ra, anh ta nghĩ nó xứng đáng để ngay lập tức huy động một cách toàn diện tất cả nhân sự và tài nguyên của Sở Cảnh sát New York.
“Sao?” Shrader nói kèm theo nụ cười toe đầy vẻ thấu hiểu. “Holland nói gì?”
Sam trả điện thoại cho anh và tóm tắt cuộc đàm thoại. “Về cơ bản, anh ấy nói rằng trong cuộc tìm kiếm người chồng, bà Manning sẽ nhận được từ Sở Cảnh sát New York sự trợ giúp mà cô ta chưa từng tưởng tượng đến.”
“Hoặc chưa từng mong muốn,” Shrader nói thẳng thừng. Anh liếc mắt về phía tầng bốn bệnh viện và lắc đầu. “Người phụ nữ đúng là một diễn viên quá đỉnh! Cô ta đã hoàn toàn đánh lừa được tôi.”
Sam máy móc nhìn theo ánh mắt anh. “Cả tôi nữa,” cô cau mày thừa nhận.
“Vui lên đi,” anh khuyên cô trong lúc họ lái xe rời khỏi lề đường. “Cô đã mang lại niềm vui cho Holland, và giờ đây, anh ta đang gọi điện thoại cho Trumanti, mang lại niềm vui cho ngài Cảnh sát trưởng. Đến tối nay, Trumanti sẽ mang lại niềm vui cho ngài Thị trưởng. Vấn đề lớn nhất đối với tất cả chúng ta,” anh vừa vào số vừa nói, “là phải giữ bí mật tất cả những gì chúng ta biết. Nếu đám Cảnh sát Liên Bang nghe phong thanh về chuyện này thì thể nào họ cũng tìm cách nhảy vào cho xem. Suốt mấy năm nay họ vẫn luôn cố gắng gán cho Valente cả tá tội danh nhưng chẳng bao giờ có thể cho chúng đứng vững được. Họ sẽ không vui khi Sở Cảnh sát New York thành công tại nơi họ đã thất bại đâu.”
“Chẳng phải vẫn hơi quá sớm để hân hoan vui sướng thế này sao?” Sam nói. “Nếu Logan Manning hóa ra vẫn còn sống khỏe mạnh, thì làm gì có ‘vụ án’ nào.”
“Đúng, nhưng có gì đó mách bảo tôi rằng sẽ không có chuyện đó đâu. Đến lúc đi ăn trưa rồi,” anh bổ sung sau khi liếc nhìn đồng hồ. “Tôi nợ cô một lời xin lỗi vì lúc nãy đã đập tan giả thuyết của cô. Tôi sẽ mua đãi cô một cái hamburger cho bữa trưa.”
Đề nghị phi thường của anh khiến Sam không tin nổi vào tai mình. Shrader quá kẹo đến nỗi mọi người ở Phân khu 18 đều lôi điều đó ra làm trò cười. Trong vài ngày họ ở trên núi cùng nhau, anh đã gài cô mua cà phê và đồ ăn vặt ở bệnh viện. Dựa theo chuyện đó cộng với thái độ lúc nãy của anh trước “giả thuyết” của cô, Sam quyết định chọn cách trả thù mà cô biết là sẽ hành hạ được anh: “Anh nợ tôi một chầu bít tết cho bữa tối.”
“Không có cơ hội đó đâu.”
“Tôi biết một chỗ rất hợp. Nhưng trước tiên, Đại úy Holland muốn chúng ta gọi vài cuộc cho các nhà chức trách địa phương.”