← Quay lại trang sách

Chương 59

Sam chỉ kịp dừng lại ở bàn làm việc để bỏ ví vào ngăn kéo, khóa tủ lại, cởi áo khoác; sau đó cô vội vã tiến về phía văn phòng của McCord, đến ngưỡng cửa rồi mới ngập ngừng dừng lại.

Anh đang đứng sau bàn, đối mặt với bức tường, tay thọc vào túi quần còn đầu cúi xuống, như thể anh đang nhìn chiếc máy vi tính trên nóc tủ - chỉ có điều màn hình vẫn tối om còn cơ thể anh căng ra đến nỗi sợi dây đeo vai bằng da nâu của bao súng siết chặt ngang lưng, làm nhăn lớp vải áo sơ mi.

Tập hồ sơ có bản tóm tắt các dữ liệu về vụ bắt giữ Valente đang nằm ở trên bàn làm việc, còn chiếc áo khoác da của anh vắt vẻo trên thành ghế - thêm một dấu hiệu cho thấy có chuyện bất thường đáng báo động.

Sam quyết định cắt ngang dòng suy nghĩ của anh và khẽ hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

“Đóng cửa lại,” anh nói dứt khoát.

Sam đóng cửa, nỗi lo lắng càng lúc càng lớn. McCord không bao giờ đóng cửa văn phòng khi chỉ có hai người họ bên trong. Tất cả mọi người trên tầng ba đều có thể nhìn vào văn phòng của anh vì nửa tường phía trên đối mặt với phòng trực được làm bằng kính, và ngay từ đầu Sam đã cảm thấy McCord là một nhà quản lý đủ giỏi để ý thức được các cuộc họp kín thường xuyên giữa Sam và anh sẽ bị nhiều người để ý tới rồi hiểu sai – tổn hại đến mối quan hệ sau này của cô với các đồng nghiệp.

Lưng vẫn xoay lại phía cô, McCord hỏi, “Cái tên William Holmes có bất cứ ý nghĩa gì với cô không?”

“Dĩ nhiên. Anh ta là nạn nhân trong vụ án ngộ sát của Valente.”

“Cô nhớ được gì về vụ ngộ sát đó, dựa trên thông tin chính thức trong hồ sơ của chúng ta?”

Dự cảm không lành của Sam bắt đầu mạnh mẽ hơn khi thấy anh vẫn xoay người lại trong lúc cô trả lời. “Nạn nhân, William Holmes, là một thanh niên mười sáu tuổi không trang bị vũ khi có lý lịch sạch ssẽ đã cãi vã với Michael Valente trong một con hẻm về một vấn đề không rõ,” Sam đáp lại. “Trong lúc cãi cọ, Michael Valente – một thanh niên mười bảy tuổi có hồ sơ phạm tội vị thành niên dài dằng dặc – đã bắn Holmes bằng khẩu súng 45 li bán tự động thuộc về Valente. Một sĩ quan tuần tra, Duane Kraits, nghe tiếng súng và ngay lập tức có mặt tại hiện trường, nhưng Holmes đã chết trước khi nhân viên y tế đến. Sĩ quan Kraits bắt giữ Valente ngay tại hiện trường.”

“Tiếp tục đi,” anh đã nói bằng giọng châm biếm khi cô dừng lại. “Tôi muốn chắc chắn cô đã đọc những thông tin giống y như tôi đọc được trong hồ sơ đó.”

“Báo cáo pháp y cho biết nguyên nhân tử vong là một viên đạn 45 li bắn vỡ động mạch chủ của nạn nhân. Khoa đường đạn xác nhận viên đạn đến từ khẩu súng 45 li bán tự động không đăng ký của Valente. Dấu tay của Valente xuất hiện trên vũ khí. Báo cáo độc tố cho biết trong người Holmes hay Valente không hề có dấu vết của thuốc kích thích hay rượu.”

Sam ngừng lại, cố nghĩ ra những điểm đáng chú ý khác mà anh muốn cô thuật lại, và cô nhắc đến những chi tiết duy nhất nảy ra trong đầu. “Valente được đại diện bởi một luật sư do tòa án chỉ định – và anh ta đã nhận tội. Quan tòa xét xử vụ án có cân nhắc đến tuổi tác của Valente, nhưng vẫn buộc tội anh ta vì những hành vi trong quá khứ cộng với hành động bạo lực vô cớ của Valente.”

Đến lúc đó, McCord xoay người lại, và Sam thầm giật mình chùn bước trước ánh sáng dữ dội trong đôi mắt xanh thép của anh. “Cô có muốn biết chuyện gì đã thực sự xảy ra không?”

“Ý anh là sao... ‘chuyện gì đã thực sự xảy ra’?”

“Hôm nay tôi đã ở cùng Kraits nửa tiếng đồng hồ. Ông ta đã nghỉ hưu, sống một mình cùng chai rượu Jack Daniel và ký ức về ‘những ngày tháng huy hoàng xưa kia trong đơn vị’. Lúc tôi đến thì ông ta đã uống hết nửa chai rồi, và ông ta đặc biệt vui mừng khi được nói chuyện với tôi về vai trò đích thực của ông ta trong vụ bắt giữ Valente vì tội ngộ sát bởi vì – theo lời ông ta – ông ta là ‘người hâm mộ chân thành’ của tôi. Có vẻ bản báo cáo của ông ta về cái chết của Holmes đã bị xiên lệch một chút vì Đại úy của ông ta cần bản báo cáo được thực hiện theo cách đó và vào ‘những ngày tháng huy hoàng xưa kia’ cảnh sát gắn bó với nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Cô có đoán được Đại úy của ông ta là ai không?”

Sam lắc đầu.

“William Trumanti,” anh thốt ra. “Nào, đoán xem nạn nhân là ai đi.”

“William Holmes,” Sam nói không do dự.

“William Trumanti Holmes,” McCord gay gắt chỉnh lại. Quá bồn chồn không thể ngồi yên, anh đưa tay vuốt gáy và tựa người vào tủ. “Holmes là con trai duy nhất của chị gái Đại úy Trumanti. Vì Trumanti không còn anh chị em nào khác, chàng trai William là nhánh cây khả dĩ cuối cùng trên phả hệ gia đình nhỏ của họ. Cô hình dung ra vấn đề rồi chứ?”

“Vẫn chưa.”

“Chưa, dĩ nhiên là chưa,” anh nói, quai hàm siết chặt đến nỗi vết sẹo mỏng trên má nổi bật hẳn. “Cô không có ở đây vào ‘những ngày tháng huy hoàng xưa kia’ của ông ta. Để tôi bổ sung thông tin còn trống hộ cô nhé. Tôi đã gọi điện thoại xác nhận lại một số vấn đề quan trọng với một cảnh sát về hưu khác từng công tác tại phân khu cũ của Trumanti. Đây là các thông tin không nằm trong hồ sơ: William Holmes là một kẻ đồi bại... từng không ít lần bị lôi về đồn cùng bạn hắn, Michael Valente. Khi chuyện đó xảy ra, chú hắn đã thả hắn ra và giữ sạch sẽ lý lịch của hắn. Thỉnh thoảng, Đại úy Trumanti – thời đó mới là Trung úy – cũng cứu cả chàng trai Valente nữa.”

Sam ngả người trên ghế. “Michael Valente và Holmes là bạn bè ư?”

“Họ là bạn thân. Thực ra, họ là bạn nối khố. Không may, Holmes không phải bạn bè với anh họ của Valente, Angelo. Vào đêm Valente ‘cãi nhau’ với bạn và giết chết hắn – nguyên do là vì William vừa xẻo thịt Angelo. Valente đi tìm hắn, và gã thanh niên William đã đợi sẵn anh ta – đờ đẫn đến hết biết trời trăng, vẫn còn phủ đầy máu của Angelo, trong tay là khẩu 45 li bán tự động. Khẩu súng đó không thuộc về Valente, nó là của Holmes, và dấu tay của Valente in trên nòng chứ không phải trên báng súng. Bây giờ cô đã hình dung ra toàn cảnh rồi chứ?”

Sam cảm nhận được anh đang cần trút cơn cuồng nộ của mình. “Tôi nghe nó từ anh thì hơn.”

“Trumanti muốn báo thù cho chị gái, và ông ta quyết tâm trả thù bằng cách dễ dàng đẩy một cậu nhóc mười bảy tuổi xuyên qua hệ thống pháp luật để bị tống thẳng vào tù. Valente không phải thiên thần, nhưng anh ta không phải kẻ buôn bán ma túy, cũng không phải người dùng ma túy, và anh ta đã không dính líu vào bất kỳ rắc rối nào trong một thời gian dài. Và,” McCord quả quyết nói thêm, “chắc chắn anh ta không phạm tội ngộ sát cấp một.”

Anh lại vuốt tay sau gáy và gập bờ vai rộng, như thể muốn xoa dịu sự căng thẳng trong cơ thể. “Nếu có một luật sư tử tế, anh ta sẽ được bào chữa với lý do tự vệ, và nếu quan tòa không hoàn toàn bị thuyết phục bởi lý lẽ đó, anh ta cũng sẽ chỉ bị án treo với tội ngộ sát cấp hai. Thay vào đó, Trumanti, Kraits và những người bạn tốt ở phân khu đã gài bẫy Valente; rồi họ tống anh ta vào tù suốt bốn năm. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu,” anh nói thêm bằng giọng gay gắt.

“Ý anh là sao?” Sam hỏi, nhưng cô đã sẵn nảy sinh một linh cảm xấu về chiều hướng câu chuyện.

“Cô còn nhớ mấy vụ bắt bớt Valente sau đó chứ?” Chồm người về phía trước, anh đẩy hồ sơ tóm tắt ngang qua bàn về phía cô. “Đây này, cô hình dung lại mà xem.”

Sam máy móc với lấy tập hồ sơ theo lời anh; nhưng rồi cô thụt tay lại vì cô chẳng cần nhìn làm gì. “Vài năm đầu sau khi Valente ra tù, hồ sơ của anh ta rất sạch sẽ. Có vài vụ bắt bớ vì những lý do vô cùng vặt vãnh – chạy quá tốc độ vài dặm – sở hữu vật chất bị kiểm soát mà hóa ra lại là thuốc giảm đau được kê toa.”

“Còn sau đó?” McCord thúc.

“Khoảng mười năm trước, những vụ khởi tố trở nên nghiêm trọng hơn. Vụ đầu tiên là có ý định hối lộ viên chức thành phố - Valente đã tìm cách hối lộ một thanh tra xây dựng định báo cáo về một số vi phạm luật xây dựng của anh ta. Còn vài cáo buộc tương tự về âm mưu hối lộ, rồi càng ngày phạm vi và số lượng các vụ khởi tố càng lớn hơn.”

McCord gạt bỏ thông tin này với ánh mắt khinh bỉ. “Cuộc hẹn thứ hai của tôi hôm nay là với viên thanh tra xây dựng nghe nói đã bị Valente tính kế hối lộ. Ông Franz hiện nay đang ở viện dưỡng lão, và ông ta hơi lo lắng không biết Chúa sẽ nghĩ gì về một số hành vi trong quá khứ của ông ta. Chưa đầy năm phút, ông ta đã dốc hết gan ruột ra rồi.”

“Ông ta đã nói gì?”

“Valente chưa bao giờ tìm cách đút lót ông ta, và anh ta cũng sẽ không cố gắng hối lộ hai đối tượng từng khẳng định anh ta đã làm thế trong hai vụ khởi tố sau này. Trumanti đã buộc họ làm vậy.”

Đứng thẳng lên, anh đến bên cái bàn chất đầy những chồng hồ sơ dày cộm về các vụ khởi tố khác chống lại Valente. Anh nhặt một tập lên rồi thả nó xuống với vẻ ghê tởm. “Tôi có thể nói cho cô biết tại sao theo bản tóm tắt của cô, tất cả những vụ án này đều kết thúc với ‘lời buộc tội bị hủy bỏ’, ‘vụ án bị bác bỏ vì bằng chứng không đầy đủ’, hoặc nếu không thì là ‘vô tội’. Đó là vì chúng là một đống rác rưởi. May thay, lúc bị khởi tố bởi những tội danh này, Valente đã đủ khả năng tự thuê luật sư thay vì phải đặt lòng tin vào loại luật sư công ích sẵn lòng để anh ta nhận tội ngộ sát cấp một. Tôi cũng dám cá với cô rằng Trumanti hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp chịu trách nhiệm cho ít nhất một nửa số lời buộc tội này.”

“Anh nói ‘gián tiếp’ chịu trách nhiệm về chúng nghĩa là sao?”

“Trumani nhóm vài đám lửa nhỏ bằng những cáo buộc gian lận ban đầu, nhưng ông ta còn thổi lên vô vàn đám khói, và các công tố viên thường hay tin vào câu ngạn ngữ ‘không có lửa làm sao có khói’. Họ sẽ bắt đầu tự mình săn lùng ngọn lửa lần trước từng thoát khỏi họ.” Anh nhặt lên một tập hồ sơ khác và ném sang một bên với vẻ coi thường. “Sau vài năm, thực ra chính Valente đã tự biến mình thành một mục tiêu khởi tố càng ngày càng lớn.”

Sam bối rối giơ tay lên. “Anh ta làm thế bằng cách nào?”

“Bằng cách hình thành thói quen tiêu diệt đối thủ tại tòa chứ không chỉ đánh bại họ. Nếu đọc lời biện hộ và bản tốc ký trong các hồ sơ này, có thể thấy rõ khi bước vào tòa án, tiểu đoàn luật sư của Valente đã được anh ta giao cho hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đầu tiên là đập tan lời cáo buộc, còn nhiệm vụ thứ hai là đánh cho vãi cứt bất cứ kẻ nào đang thụ lý và khởi tố dự án. Khi đọc hồ sơ, có một số nhận xét của các luật sư đại diện cho Valente mà tôi không thể nào tin nổi. Trong mọi trường hợp, luật sư của anh ta đều bắt đầu bằng cách đét đít các công tố viên – làm họ mất thể diện vì những chuyện như lỗi chính tả, lỗi ngữ pháp, lỗi in ấn, trễ hai phút – những lỗi vặt vãnh như thế nhưng trong tay họ lại bắt đầu biến thành những bằng chứng của sự thiếu năng lực. Theo một số bản tốc ký, các quan tòa quả thực cũng bắt đầu tán đồng với họ và khiển trách công tố viên.

“Một khi luật sư của Valente đã khiến đối thủ vừa hoang mang bối rối vừa trông chẳng khác gì một đám ngu ngốc, họ càng lúc càng thô tục hơn, cho đến khi họ tuôn ra một tràng đả kích với cách nói như ‘ngu si hết thuốc chữa’, ‘cẩu thả không thể tha thứ’ và ‘thiếu năng lực đến phát ốm’.”

Anh xăm xăm quay trở lại bàn và ngồi xuống. “Những luật sư như của Valente được thuê với giá ít nhất hai ngàn đô la mỗi giờ để làm bất cứ điều gì cần thiết miễn là thắng kiện. Chấm hết. Họ không lãng phí thời gian hoặc tiền bạc để trả thù, ấy vậy nhưng luật sư của Valente lần nào cũng làm thế, và rõ ràng họ hành động theo mệnh lệnh của anh ta. Valente không bảo họ dừng lại cho đến tận khi anh ta đã giơ chân dúi đầu đám công tố viên chúi xuống bùn. Sau đó, và chỉ sau đó, anh ta mới để họ đứng lên.”

“Tôi thật lòng không thể trách anh ta vì đã muốn thực hiện trò trả thù vặt.”

“Hành động trả thù của anh ta chẳng có gì là ‘vặt’ cả. Công tố viên nào bị biến thành kẻ ngốc trong một vụ án lớn như của Valente hoàn toàn có thể hôn tạm biệt tham vọng sự nghiệp của mình đi là vừa. Nhưng các công tố viên còn là người nhớ dai và có thể mang lòng hận thù sâu sắc. Ngoài ra, hễ lần nào Valente tống vài người bọn họ cụp đuôi chạy trốn là y như rằng lại có hàng tá người khác sống chết lao ra choán chỗ và khao khát được trở thành người đầu tiên và duy nhất hạ gục được Valente.”

Anh nhặt cây bút chì trên bàn rồi ném sang bên bằng thái độ bực bội y như lúc quăng mấy tập hồ sơ. “Khi tiếp quản vụ án này, tôi cứ đinh ninh Valente đúng là một con cá mập khổng lồ bao nhiêu năm nay đã lọt khỏi chiếc lưới luật pháp của chúng ta. Tôi muốn tóm gọn anh ta với cùng lý do như các công tố viên. Tôi chẳng khác gì họ cả.”

“Hoàn toàn không phải vậy!” Sam nói một cách dữ dội đến nỗi sự ngạc nhiên làm dịu hẳn nét tức giận trên mặt anh.

“Tôi khác ở chỗ nào?”

“Khi nhận nhiệm vụ này, anh tin rằng anh ta phạm phải tất cả những tội lỗi đã bị gán cho anh ta. Trong đám công tố viên đó, phải có một số người biết rõ họ đang làm toáng lên từ những chuyện chẳng đâu vào đâu.”

Thay vì trả lời, anh lắc đầu nhớ đến một chuyện khác: “Hôm Trumanti gọi tôi đến trụ sở và nói ông ta muốn tôi chỉ đạo cuộc điều tra này như một sự ‘giúp đỡ cá nhân’, tôi đã cảm thấy trong thái độ của ông ta đối với Valente có hơi hướng hận thù gần như ám ảnh. Không chỉ mở miệng ra là nguyền rủa anh ta, Trumanti còn nhắc nhắc lại rằng tóm cổ được Valente chính là di nguyện của ông ta. Tôi nghĩ lão già đó thực lòng tin rằng Valente đã phạm hết mọi tội lỗi đó, bắt đầu bằng vụ ‘ngộ sát’ Holmes.” Anh nhìn lên bàn làm việc. “Khi tôi thông báo tôi sắp nộp đơn xin về hưu, ông ta bảo nếu tôi túm cổ được Valente với tội giết người cấp một, tôi sẽ được nghỉ hưu với hàm đại úy.”

“Chuyện đó thì lq gì đến lý do anh nhận vụ án này?”

“Nếu thực sự muốn làm đại úy,” anh nói với nụ cười khinh khỉnh, “tôi chỉ cần xử lý sự nghiệp của mình khác đi một chut.” Hất đầu về phía bàn một lần nữa, anh nói thêm, “Khi bắt đầu xem xét đống rác kia, tôi nhận thấy các công tố viên đã mất kiểm soát đối với một vài vụ khởi tố. Thậm chí họ còn chẳng thể khiến chúng trở nên thuyết phục hơn. Valente không phải một bố già Mafia có mạng lưới thuộc hạ đông đảo thay anh ta thực hiện các công việc bẩn thỉu để chẳng ai lần ra sự dính líu của anh ta. Anh ta điều hành một công ty đa quốc gia hợp pháp. Và xét trên sự săm soi kỹ lưỡng mà anh ta luôn phải chịu đựng thì công ty của anh ta hẳn phải rất sạch sẽ, nếu không đã có công tố viên bắt thóp được anh ta vì tội gì đó. Hầu hết bọn họ đều chỉ phát hiện thấy vài điểm bất thường vặt vãnh trong vấn đề kiểm toán nội bộ mà công ty lớn nào cũng phạm phải.”

Anh yên lặng một lát, nhìn sang tấm bảng bên trái ghi lại những chứng cớ gián tiếp họ đang thu thập chống lại Valente: rồi anh lắc đầu và bật cười ủ rũ. “Tôi nghĩ có thể nói một cách chắc chắn rằng Valente không giết Logan Manning, cũng không thuê ai làm chuyện đó cho anh ta.”

“Sao anh có thể quả quyết như thế?” Sam hỏi, cố nén nụ cười hài lòng.

“Vì, nếu Valente sẵn sàng phạm tội giết người, anh ta đã nhắm vào Trumanti từ lâu rồi.” Rồi anh đứng lên, mắt vẫn không rời tấm bảng, và nói về Valente, “Giờ thì đã có một người sống bằng câu châm ngôn “Không phàn nàn, không giải thích.” Chẳng trách cô lại thích anh ta.”

Sam cũng đứng lên. “Giờ anh định làm gì?”

“Tôi sẽ tìm ra kẻ thật sự đã giết Manning. Chúng ta sẽ bắt đầu lại mọi chuyện vào sáng mai, xem xét các giả thuyết và những kẻ tình nghi khác.” Vòng ra sau bàn, anh cầm áo khoác lên và nhún vai mặc áo vào. “Cô lấy áo choàng đi,” anh bảo cô. “Tôi sẽ đưa cô về nhà.”

Trước đây anh chưa bao giờ đề nghị thế. McCord có xe, nhưng hôm nào thời tiết yên ổn Sam sẽ đi bộ về nhà; nếu không cô sẽ bắt tàu điện ngầm. Cô định từ chối, nhưng lại thôi. Cô tự nhu rấy là vì ngày hôm nay của anh đã đủ khó khăn rồi, chẳng cần thêm chuyện cô từ chối lời đề nghị tử tế như thế nữa. Thật ra trông anh mệt mỏi và chán chường đến nỗi khiến cô đau lòng.