SALLY O’KEEFE
Trong khách sạn Inglaterra trên phố Corriente, Sally O’Keefe mở toang cánh cửa sổ dài chạm sàn trong phòng họ, nhìn ra một khung cảnh trời đêm trông hệt như bức ảnh in trên tấm áp phích du lịch.
Hình bóng nàng được viền trong khung cửa, tay dang rộng, ngây người trước cảnh vật bên ngoài. Nàng có vóc dáng nhỏ nhắn và mảnh mai, mái tóc ánh đồng cùng cặp mắt xanh biếc. Những đốm tàn nhang tập trung trên hai gò má nàng như đôi nụ hồng, khiến cả khuôn mặt mang nét duyên ngầm của một tiểu yêu tinh.
“Marj, thật khó tin! Cảnh tượng này không thể nào có thật ngoài đời được. Ai đó đã tô vẽ khung cảnh phía ngoài cửa sổ cho riêng chúng mình ngắm nhìn.”
Đằng sau lớp bụi phát sáng được cấu thành từ các phân tử lân quang màu bạc và màu xanh ngọc, những đường rực lửa nổi bật hẳn lên, như thể có người đã khua một que phát sáng qua trời, để lại đằng sau những vệt dài ửng đỏ. Chúng là những con phố và các xa lộ. Khắp xung quanh là những ngọn đồi đen, in trên nền trời hãy còn hửng sắc lam ngọc. Phía tây, bầu trời và các ngọn đồi chập vào với nhau, như thể một hàng lửa ga khuất dạng bấy giờ đang âm ỉ cháy phía cuối chân trời. Tâm điểm của vòm trời đã tối thẫm lại, một sắc tối đậm đà và ấm áp. Màn đêm của miền cận nhiệt đới. Vòm trời rải rác nhiều sao đến mức tựa như một trận mưa hoa giấy, hoặc như tàn dư của một quả pháo hoa, mãi treo lơ lửng sau khi đã phủ kín bầu trời.
“Giờ có chết tớ cũng cam lòng!” Nàng, cô gái bên cửa sổ, thốt lên.
Marjorie King, bạn đồng hành của Sally, vốn là người thực tế hơn, chỉ mỉm cười trước tấm gương của bàn trang điểm, cô đang hoàn thiện nốt lớp son phấn của mình. Marjorie có mái tóc sẫm màu, ngoại hình ưa nhìn thanh lịch, khác với cô bạn Sally hoạt bát. Ngay cả trong lúc ngồi, trông vẫn rõ là cô cao hơn bạn tận một hay hai cái đầu.
Nếu giám đốc phân vai của một đoàn nghệ thuật ở đây, anh ta sẽ phân biệt họ chuẩn xác hơn những người thường. Marjorie thuộc dạng nghệ sĩ solo nổi bật, trong khi Sally thích hợp đứng trong dàn hợp xướng hay đội múa minh họa. Nhưng thực tình mà nói, chẳng ai trong hai cô gái làm nghề nghiệp liên quan đến sân khấu. Sally là thư ký riêng cho phó chủ tịch một công ty máy gặt. Còn Marjorie là quản lý chi nhánh của hãng Handmaid, một trong những chuỗi cửa hàng kẹo rất lớn, nơi tất cả mọi công việc đều do máy móc thực hiện, ngoại trừ việc ăn.
Đây là kỳ nghỉ đích thực đầu tiên của cả hai sau bao nhiêu năm ròng, một kỳ nghỉ đã được lên kế hoạch từ lâu, dành dụm từ lâu, và nhiều lần bị trì hoãn. Họ gần như đã phải đe dọa sếp mình mới thỏa được ước nguyện. Đây là một cuộc du ngoạn tự do, không dính dáng đến các tour du lịch và đám người tham quan đông đúc như cá hộp, vội vã đi hết nơi này đến nơi khác theo lộ trình đã định.
“Cậu đang nghĩ đến Napoli phải không?” Marjorie đáp lại. “Nếu đúng là phong cảnh tuyệt diệu như cậu nói, sao phải nhắc đến chết chóc như thế, phá hỏng cả khoảnh khắc này?”
“Chỉ là một lối nói thôi mà,” Sally cuối cùng cũng chịu quay lại cạnh bạn mình. “Nếu cậu cảm thấy giống tớ tối nay, câu nói ban nãy sẽ không còn ý nghĩa gì hết. Cả đời tớ chưa bao giờ thấy tràn trề sức sống đến thế! Nơi này chắc chắn sẽ làm nhiệt huyết của ta tuôn trào. Tối nay chúng mình làm gì đây?”
Marjorie đứng dậy, đã sẵn sàng cho buổi đi chơi. “Tối nay đến lượt cậu lên kế hoạch mà, cậu chưa nghĩ ra được gì à? Mình đã thỏa thuận thế rồi, nhớ chứ? Tối hôm qua tớ làm sếp, tối hôm nay đến lượt cậu.”
Sally tuôn ra một bài giải trình tràng giang đại hải, trong lúc bạn nàng đi quanh phòng tắt hết đèn.
“Tớ cảm thấy tràn trề cảm xúc và lãng mạn. Chắc là nhờ phong cảnh ngoài kia khơi dậy đấy. Tối nay tớ không muốn vào mấy sòng bạc hay hộp đêm ồn ào, hào nhoáng. Tớ muốn thứ gì đó hương đồng gió nội. Đúng rồi, tớ muốn thế đó, hương đồng gió nội.”
“Chiêng cồng bà nội ấy hả?” Marjorie trêu, khoác thêm một tấm áo nữa.
Sally đẩy Marjorie một cái vào sau eo.
“Người ta nhắc đến một chỗ trong công viên ngoại ô, nơi ta có thể ăn uống ngoài trời, dưới các tán cây. Họ nói cảnh vật đẹp lắm, toàn đèn lồng màu. Thay vì đi taxi, mình sẽ bắt một cỗ xe ngựa kiểu cổ quanh đây cho đổi gió, chạy ra đó rồi trở về dưới ánh trăng. Taxi ở đây nồng nặc mùi xăng và đi quá nhanh. Đúng rồi, tớ thấy ưng cách đó đấy,” nàng chốt lại, “chuyến xe ngựa chậm rãi và thư thả dưới ánh trăng theo phong cách cổ điển.”
“Chỗ đó cách đây bao xa?” Marjorie hỏi. “Chẳng phải đang có tin đồn về một con dã thú ăn thịt người sổng ra từ sở thú hay nông trại nào đó, và sẽ vồ lấy mình ở những nơi hẻo lánh sao? Sáng nay lúc cậu ra ngoài, cô phục vụ phòng cứ lải nhải liên hồi về cái tin ấy với vận tốc một dặm trên phút. Tớ không hiểu rõ câu chuyện này lắm. Cứ ba chữ tớ mới hiểu được một từ, cậu biết người ta nói nhanh thế nào rồi đấy.”
“À, vụ đó. Cái ông ở chỗ American Express[47] bảo tớ đừng tin làm gì, chẳng có đến nửa chữ là thật. Tớ sẽ tận hưởng kỳ nghỉ này cho đáng đồng tiền bát gạo. Không câu chuyện ma nào ngăn nổi tớ đâu.”
Nàng mở cửa và đứng đợi bạn mình. “Mang theo hết mọi thứ rồi chứ? Đừng quên mang theo một ít bạc hà mèo[48] trong trường hợp chúng ta đụng độ cái con quái quỷ gì đó nhé,” cô tưng tửng đề xuất.
Marjorie bật cười trong lúc cả hai tiến về phía thang máy.
Sau khi xuống đến tiền sảnh, Sally nói, “Hỏi lễ tân xem thế nào.”
Cậu lễ tân niềm nở cúi chào, gục đầu chấm tóc xuống quầy lúc họ lại gần.
“Chúng tôi biết có một nhà hàng ngoài trời ở khu công viên lớn bên ngoài thành phố. Nó có đáng đến không? Chúng tôi đang tính sẽ ra đó.”
Anh ta không trả lời thẳng vào câu hỏi. “Các senorita đã thử đến Tabarin hay Select chưa? Tôi tin chắc là họ sẽ…”
“Nhưng đó chỉ là hộp đêm thôi, đúng không?” Marjorie phản đối. “Quê nhà chúng tôi cũng có hộp đêm. Chúng tôi muốn điều gì đó khác biệt một chút, đổi không khí một chút.”
“Tôi biết chỗ các quý cô muốn tới,” anh ta nói, giọng phần nào khẽ khàng. “Madrid, ở khu Bosque…”
“Chỗ ấy thì làm sao?” Sally ngắt lời thẳng tưng như thường lệ.
“À, không có gì, không có gì,” anh ta vội vã rút lời. “Chỉ là nó hơi, nói thế nào ấy nhỉ? À, lejano (xa xôi) hẻo lánh. Các senorita sẽ đi một mình sao? Tôi có thể thu xếp…”
“Ồ không, chúng tôi không muốn thuê người hộ tống,” Sally nhăn mặt. “Tôi ghét kiểu đấy lắm.”
“Anh chàng trẻ tuổi này có vẻ ngần ngại, chẳng hiểu tại sao,” Marjorie mỉm cười do dự với nàng.
Lần này cậu lễ tân không buồn chối. Sally O’Keefe đã phản ứng theo đúng cái kiểu Sally O’Keefe luôn phản ứng. Marjorie đã biết trước nàng sẽ phản ứng như vậy.
“Người ta có ra đó sau khi trời tối, đúng không?” Nàng vặn hỏi cậu lễ tân.
Sau khi anh ta gật đầu công nhận, nàng kéo tay bạn mình. “Thế thì chúng tôi cũng đi được! Gọi giúp chúng tôi một cái xe ngựa kiểu cổ ấy.”
Và họ sải bước ra phố chờ xe đến.
Bên ngoài, Marjorie cười đầy ngụ ý. “Anh ta cố hết sức khiến mình bỏ cuộc, cậu có nhận thấy không? Nhưng anh ta không chịu đưa ra lý do thật, tớ đoán là vì sợ chúng ta sẽ cắt ngắn quãng thời gian nghỉ lại đây. Cậu luôn như thế, cứ ai tìm cách thuyết phục cậu đừng làm cái gì là cậu lại càng quyết tâm muốn thực hiện nó hơn bao giờ hết.”
“Tớ là Sal Xe ủi mà,” cô gái nhỏ mỉm cười toe toét. “Xe đến rồi kìa.”
Họ chui vào xe, ngồi xuống ghế sau, hạ trần xe để được tận hưởng khí trời.
“Anh ta nói nơi ấy gọi là gì ấy nhỉ?”
Marjorie ra lệnh cho người đánh xe thay bạn mình, “Ra Madrid.”
Ông đánh xe quay lại và liếc nhìn họ với một ánh mắt tò mò, thế rồi quất roi và xe bắt đầu lăn bánh đi dọc con phố, êm ái như nhung. Marjorie đã để ý thấy ánh mắt ấy. Có thể là vì bộ trang phục đậm chất ăn chơi của họ hoặc việc họ không có nam giới đi cùng. Nhưng cô linh cảm được không phải như thế. Cô tin rằng điểm đến của họ mới chính là nguyên nhân.
“Tớ nói đúng không?” Sally hớn hở. “Đổi gió kiểu này thú vị đấy nhỉ?”
Nhịp đi của cỗ xe đều đặn và êm ái hơn xe bình thường, không thể chối cãi được là điều này giúp họ ngắm nghía cảnh quan xung quanh dễ dàng hơn. Mặc dù vào ban ngày, mấy cỗ xe ngựa như vậy không còn công dụng gì khác, chỉ là chưa trở thành những mẫu vật vứt đi trong viện bảo tàng. Xe có bánh bọc cao su, thân được bảo dưỡng sáng loáng và tại Ciudad Real, chúng không hiếm gặp chút nào, nhất là vào lúc tối trời và vào các buổi chiều Chủ nhật.
Sau mươi mười lăm phút chậm rãi băng qua những con phố sinh động, đèn đuốc rực sáng, cuối cùng họ cũng ra đến một khu glorieta lớn, tức một không gian hè phố rộng rãi hình tròn, vây xung quanh bởi những cột đèn đa diện. Đây là Puerta Mayor, một trong những cánh cổng của thành phố, mặc dù nó không có tường ngăn hay cổng chắn. Phía bên kia, đối diện với họ là cổng chính dẫn vào Bosque, một công viên tự nhiên rộng lớn được mô phỏng theo công viên Bois de Boulogne ở Paris, một minh chứng thầm lặng cho cái thời Paris định ra phong cách cho các thành phố cũng như phục trang phụ nữ.
Khi họ vào đến nơi, đường đi chính của Bosque chật kín taxi, xe mui trần và xe sedan. Nói thật thì dòng xe cộ ở đây cũng đông nghẹt chẳng kém gì mấy đại lộ thành phố đằng sau lưng họ.
“Chỗ này thì có vấn đề gì chứ?” Sally vui sướng hỏi. “Cậu có thấy nơi đây vắng vẻ hay đáng sợ không? Tớ chỉ muốn nạt cho tay lễ tân ấy một trận!”
“Nó vắng vẻ như quảng trường Thời đại vào đêm bầu cử[49] ấy,” Marjorie thừa nhận và khúc khích cười.
“Đêm nay tuyệt thật!” Sally thốt lên. Nàng hạ cái ghế đối diện xuống, gác cả hai chân lên và ngửa đầu ra sau, nhìn ngắm một vầng trăng thạch lựu đang bắt đầu len lỏi qua hàng cây để leo lên bầu trời thoáng đãng.
Hiện đã bắt đầu có vô số ngọn đèn lồng đa sắc ló mặt ra nhìn họ, hệt như những trái bóng bay đồ chơi cắm thấp trên nền đất, được buộc bằng những sợi dây dãn căng, thẳng đứng, rải rác. Khi cỗ xe ngựa rẽ vào một đường ngách, cây cối thưa bớt. Một đại dương đèn lồng mênh mông, chẳng khác nào những bồn hoa lủng lẳng treo ngược, đập vào mắt họ. Bên dưới đại dương ấy cũng là một biển bàn ghế xếp quanh một vọng lâu lớn, xung quanh đều có cửa vào và bên trong lại có hàng loạt bàn ghế nữa. Không khí cả trong lẫn ngoài đều giống nhau, tràn ngập tiếng chuyện trò sôi nổi, đúng kiểu dân Latin tụ tập dã ngoại. Tiếng ỉ ôi dài giọng quen thuộc của một bản tango lan tỏa trong không gian, chẳng rõ bắt nguồn từ đâu. Nhìn là biết những người đứng túm tụm bên dưới vọng lâu đều đang nhảy nhót chứ không chỉ đứng giữa đống bàn ghế, bởi lẽ mỗi cặp đều đối diện với nhau.
“Đây,” Sally nói, sau khi cuối cùng cũng kiếm được một chiếc bàn xa tận rìa vọng lâu, “đúng là thứ tớ thấy ấn tượng. Cậu thích thì cứ đâm đầu vào mấy hộp đêm thành phố ngột ngạt đi. Trông kìa!” Nàng nhặt một chiếc lá rơi từ tấm vải căng trên đầu, ra chiều kính cẩn chìa nó ra cho Marjorie xem.
“Thế mới đúng là Sally, cô nàng khó chiều, người mắc chứng phàn nàn kinh niên chứ,” Marjorie nhận xét, ý muốn ám chỉ ngược lại.
Sally bao giờ cũng là một người bạn thú vị, đi với nàng rất vui. Đó chính là lý do họ cùng nhau thực hiện chuyến du lịch này. Đặc biệt là tối hôm nay, nàng hết sức hào hứng.
“Chúng ta đang bị nhìn ngó!” Nàng hồ hởi nói, không chút luống cuống. “Chắc phụ nữ ra đây thế này là mất phẩm giá lắm.”
“Cậu biết nguyên nhân không phải vậy mà,” Marjorie trêu chọc. “Chắc là do quả đầu cà rốt của cậu và cả cái vẻ mặt ngộ nghĩnh nữa.” Cô dứ đồng hồ đeo tay về phía bạn. “Cậu xinh lắm.”
Sally nheo mắt nhìn một ngọn đèn, “Chắc chắn là tớ nợ cậu tiền rồi. Tớ đang cố nhớ xem có đúng thế không đây. Đó là lý do duy nhất để tớ được khen xinh đấy. Được rồi, cậu cũng xinh nữa đó. Tớ xinh, cậu xinh, thế có giúp ích được gì không? Hai cô gái lỡ thì cô đơn, hai mươi bốn và hai mươi lăm, một thân một mình giữa đêm ở Nam Mỹ.”
“Cậu không nên nói như thế,” Marjorie dè chừng, gục cằm xuống khẽ cười. “Đừng nhìn lên nhé, chúng ta sắp sửa được rủ rê đấy.”
Một anh chàng mặc đồ trắng phau, kèm cả găng mỏng cúi thấp người trước hai cô gái. “Liệu có ai trong hai senorita muốn nhảy cùng tôi không?”
Khóe miệng Sally giật giật mặc dù đã cố hết sức ghìm lại. Tuy anh ta đứng gần như vậy, nàng vẫn xoay xở nói cho bạn mình nghe được, nhưng nhìn thì như nàng chưa mở miệng, “Muốn thách tớ không?” Sally thì thào. “Á! Sao thế?” Rồi nàng kêu toáng lên, không buồn giữ kẽ, ngay sau khi mũi chân cô bạn thọc vào cổ chân mình.
Marjorie nhận thấy mình sẽ phải đáp lời thay cho cả hai. “Không, cảm ơn anh,” cô nghiêm túc hết mức có thể.
“Vậy cho tôi xin phép,” anh chàng gượng gạo, cúi chào thêm lần nữa rồi rời đi.
“Cậu làm chàng trai tội nghiệp đó đau lòng rồi kìa,” Marjorie mắng, đưa khăn ăn lên che khóe miệng, ngăn không cho Sally nhìn thấy tràng cười đã lây sang cả mình.
Hai người lâm vào trạng thái hớn hở, vui vẻ vô cớ, thứ tâm trạng thỉnh thoảng vẫn hay trỗi dậy mỗi khi hai người phụ nữ ngồi bên nhau. Họ cười cợt mà chẳng cần lý do, cười với nhau, cười vào mặt nhau và kích nhau cười.
“Tớ tưởng tối nay cậu thấy lãng mạn cơ mà?”
“Ừ,” Sally nói, lắc đầu, “nhưng tớ không thích mấy người tóc bóng như xi giày.”
Câu này lại kéo theo một tràng cười ngặt nghẽo.
“Đám người đấy có hội đoàn gì không nhỉ? Có khi chưa kịp để ý là bàn chúng ta đã bị họ quây lấy biểu tình phản đối rồi.”
“Thế chẳng phải buồn cười lắm sao?” Marjorie hình dung. “Ba hay bốn người mang theo biển hiệu và nhảy tới nhảy lui trước mặt chúng ta.” Hình ảnh cô vẽ lên khiến họ lại lăn lộn thêm một trận.
“Nào, mình phải có rượu đi kèm mấy câu bông đùa này!” Sally nói đầy vẻ chuyên nghiệp, vẫy gọi anh bồi bàn.
“Giá mà lão P.J được thấy cô thư ký cần mẫn của mình lúc này!” Vài phút sau, Marjorie hả hê nói, nghiêng một ly chất lỏng đỏ thắm về phía cô gái bé nhỏ.
Sally quay đi, dõi mắt ngược với đám đông, nhòm vào trong vòng tối ngoài kia, gần như đây là lần đầu tiên cô gái làm vậy kể từ lúc họ ngồi xuống nơi này. Nàng quyết định đùa bạn mình một chút.
“Có khi giờ nó đang ẩn nấp ngoài kia, theo dõi chúng ta qua hàng cây,” Sally tinh nghịch nói. “Cậu nghĩ nó có chọn trước con mồi và bám theo người đó không? Tớ từng nghe kể một chuyện…”
“Phììì! Thôi!” Marjorie nài nỉ. “Tớ chỉ mới quên được nó thôi đây. Thế mà cậu còn cố tình nhắc.”
“Chẳng ai ở đây có vẻ coi trọng chuyện ấy, thế thì mình quan tâm làm gì? Nhìn đám đông tối nay mà xem. Chỉ thế cũng đủ cho thấy đó là một tin đồn nhảm.”
Bên dưới mấy ngọn đèn lồng màu sắc sặc sỡ treo trên cây, với tiếng nhạc vui tai, tiếng cốc va leng keng, bồi bàn hối hả qua lại, vô số đàn ông và phụ nữ diện đồ dạo tối vây khắp xung quanh, Marjorie phải thừa nhận rằng khó có thể tin được là ngay lúc này đây, một Tử thần hung bạo đang không ngơi nghỉ lẩn khuất đâu đó trong thành phố, trên bốn móng vuốt êm mượt như nhung của nó.
Một tiếng sau, khi đã sẵn sàng rời đi, cả hai một lần nữa quên hết chuyện ấy. Họ vui vẻ quay lại nơi cỗ xe ngựa đang đợi, thỉnh thoảng vẫn phá lên cười vì những lý do không đâu như ban nãy.
“Tớ thích chỗ đó. Cậu có thấy mừng là chúng ta đã chọn nó không?”
“Bỏ qua thì thật đúng là phí của trời,” Marjorie đồng ý.
“Cho chúng tôi dạo quanh công viên một lúc, chậm thôi,” Sally bảo ông đánh xe trong lúc họ chui vào. “Quay lại khách sạn sớm thế này thì chán lắm. Trăng rọi tỏ ngoài này chẳng phải còn đẹp hơn ư?”
“Đừng để hóa đơn lớn quá đấy nhé,” Marjorie nhắc nhở.
“Quên đi, đêm nay là đêm của tớ. Đi nghỉ để làm gì?” Một làn đường trống đã mở ra bên cạnh. “Rẽ sang bên kia,” nàng lệnh cho ông đánh xe. “Cho chúng tôi ra khỏi đường chính, nhiều khí thải xe cộ quá.”
Trên con đường mòn không lấy một bóng phương tiện nào khác. Nó kéo dài vào màn đêm phía trước, vô cùng hoang vắng, thẳng một đường như thước kẻ.
“Đó, thế này chẳng khá hơn sao? Chúng ta một mình một đường,” cô nàng Sally cứng đầu nói. “Tớ thích khám phá đường mới, còn cậu thì sao?”
“Khám phá hay không với tớ thì cũng như nhau,” Marjorie thừa nhận. Nơi này hơi hoang vắng quá, cô không ưa như vậy, nhưng không muốn làm bạn mình mất hứng.
Hiện con đường bắt đầu chậm rãi chạy vòng sang bên trái. Khi vào đoạn cua, một tấm bạc bóng loáng, lấp lánh như một mặt gương dưới trăng lộ diện từ sau hàng cây.
“Nhìn hồ thiên nga kìa!” Sally phấn khích reo lên. “Cậu đã bao giờ thấy điều gì tuyệt trần như thế chưa?”
Con ngựa đi nước kiệu. Bấy giờ hàng cây chắn giữa hồ và họ đã biến mất. Ngăn cách con đường với bờ hồ chỉ còn một con dốc rậm cỏ.
“Mình ra ngoài và xuống mép hồ đi,” Sally đề xuất. “Duỗi chân duỗi cẳng một chút, ngồi lâu quá rồi. Tớ thích đi bộ men theo hồ, cậu thấy thế nào?”
“Vào lúc đêm muộn như vậy thì không,” Marjorie hờ hững nói. “Mình quay xe và trở lại nơi đông người thôi. Đã muộn rồi và chúng ta đã đi rất xa…”
“Đừng như thế. Cậu là người lớn rồi. Sẽ chẳng xảy ra chuyện gì chừng nào chưa đi khuất bóng xe, không quá xa đâu. Tớ hứa với cậu là mình sẽ không để cỗ xe biến khỏi tầm mắt.” Sally đã thò sẵn một bàn chân ra.
Marjorie lại nhượng bộ, nhưng lần này đến lượt ông đánh xe phản đối liên mồm khi thấy họ chuẩn bị xuống xe.
“Ông ta nói gì thế?” Marjorie hỏi.
“Đại khái điều mà tất cả những người khác ở đây đều nói vậy, tớ đoán thế. Chắc là khuyên mình đừng có rời xe và đi bộ loăng quăng. Tớ nghĩ đây là một âm mưu do cả đám họ nghĩ ra. Bố mấy ông Mỹ Latin nhát cáy!”
“Dù sao thì họ cũng là người bản địa,” Marjorie nói.
Nhưng cô gái tóc đỏ nhỏ nhắn bốc đồng không chịu đợi nữa, bấy giờ đã bắt đầu dò dẫm bước xuống bãi cỏ thoai thoải và tiến về phía chiếc hồ bên dưới, múa may loạn xạ dưới ánh trăng. Marjorie quay sang ông đánh xe, dặn dò bằng một từ Tây Ban Nha và một tá từ ngữ tiếng Anh, theo tỉ lệ cô vẫn hay dùng, “Espera (Đợi chút). Ông chớ có dịch chuyển đi đâu đấy, hiểu chứ? Một phút nữa chúng tôi sẽ quay lại.”
Ông đánh xe miễn cưỡng gật đầu, nhưng trong khi ấy, con ngựa bắt đầu bồn chồn cà đất và cựa quậy giữa mấy sợi dây kéo. Ông ta phải nắm chặt cương để giữ im nó. Cô thấy tai nó nhỏng thẳng lên, như thể đã nghe hay cảm nhận thấy gì đó mà mấy con người xung quanh vẫn chưa ý thức được.
“Sal,” cô gọi vọng xuống con dốc. “Tớ nghĩ tốt nhất chúng ta nên quay lại xe. Tớ không thích cái cách con ngựa này hành xử.” Nhưng trong lúc tìm cách bác bỏ quyết định của bạn mình và lôi cô ấy trở lại xe, chính bản thân Marjorie cũng đã vô tình tiến về mép nước.
Sally đã xuống đến nơi, hiện đang ngồi xổm, bóp vụn mấy cái bánh tráng miệng nàng mang theo, rồi chìa ra đầy chào mời về phía một hạm đội thiên nga đen lộng lẫy đang rẽ nước lao đến từ đủ mọi hướng.
“Trông chúng đẹp chưa kìa?” Nàng gọi với ra sau vai. “Xuống dưới này đi, cậu sợ gì thế?”
Marjorie dò dẫm xuống chỗ nàng, vẫn quyết tâm thuyết phục bạn quay lại. “Thôi nào, Sal,” cô dùng lý lẽ nói. “Có thứ gì đang làm con ngựa đứng ngồi không yên trên kia. Mình ra khỏi đây thôi.”
“Ôi dào, chắc là nó chỉ muốn quay lại chuồng thôi, cậu biết lũ ngựa như thế nào rồi đấy.” Nàng tiếp tục tung vụn bánh. “Nhìn chúng nó đánh nhau kìa. Thế mới đúng là đọ sức tranh tài chứ!”
Bất chợt tất cả bọn thiên nga bơi ngược ra sau, lao trở lại giữa hồ, mau lẹ chẳng kém gì lúc sán vào bờ ban nãy.
“Chúng bị làm sao thế, chúng làm thế để làm gì?” Sally ngây ngô hỏi.
“Có thứ gì đó làm chúng sợ. Và đó không phải là chúng ta. Mới phút trước chúng còn tới gần, như giằng lấy bánh vụn từ tay cậu. Tớ bảo cậu rồi, tốt nhất chúng ta nên rời khỏi đây thôi!” Cô bắt đầu kéo tay bạn đi về. “Đây đúng là cái nơi người ta bảo mình nên tránh thật xa ấy.”
“Ôi, không sao đâu,” Sally mệt mỏi nói. Nàng duỗi thẳng bàn chân ra và phủi vạt váy trước. “Đừng phá ngang cuộc vui.”
Họ quay đầu lại nhìn lên con đường bên trên thêm lần nữa, vừa kịp lúc chứng kiến cảnh con ngựa hung dữ lồng lên trên chân sau, cho đến khi nó gần như đứng nhổm dậy trong bộ dây cương. Nó hí điếc cả tai, nghe đầy sợ hãi. Ông đánh xe suýt nữa bị hất ngã nhào, la lên một tiếng khiếp đảm.
Con vật lại bổ người xuống, móng bắn tóe lửa và rồi lao đi, phóng vọt ngay trước mắt họ trong lúc hai cô gái bất lực đứng đó, chân như đã cắm rễ xuống đất. Loáng một cái, tiếng vó ngựa lọc cọc hối hả và tiếng quát tháo loạn xạ của ông đánh xe đã cùng nhau tắt ngóm phía xa con đường.
Tích tắc sau, họ chạy lên đến mép đường, đứng thất kinh, nhìn dọc đoạn đường vắng vẻ loang lổ ánh trăng. Dấu tích duy nhất còn lại của cỗ xe là một đám bụi xanh đang chầm chậm lắng xuống dọc theo vệt phóng.
Marjorie chống nạnh. “Giờ cậu đã thỏa mãn chưa?” Cô gắt gỏng. “Cậu cứ thích ra ngoài và bỏ xe cơ.”
“Sao mà tớ biết được là chuyện đó sẽ xảy ra? Chờ vài phút nữa khéo ông đánh xe sẽ kiểm soát được con ngựa và quay lại đón chúng ta. Ông ta muốn có tiền công cho cuộc du hí đêm nay thì chỉ còn cách đó thôi.”
Tuy nhiên, Marjorie không nhìn nhận tình hình với vẻ bình tĩnh như thế. “Rồi, nhưng chúng ta sẽ không lảng vảng ở đây trong lúc đợi ông ta quay lại!” Cô đanh giọng thông báo. “Quanh đây có thứ gì đang lẩn khuất, mặc dù đáng ra nó không thể xuất hiện ở đây, tớ biết chắc như thế. Đầu tiên là lũ thiên nga và sau đó đến con ngựa…”
Họ bắt đầu rảo bước bên vệ đường, đi theo hướng con ngựa điên bỏ chạy. Cho dù cả hai đều không biết con đường này dẫn về đâu, nhưng cứ đi tiếp là cơ hội duy nhất để họ gặp lại cỗ xe trên đường nó vòng lại.
Hai cô gái cứ bước trong bóng tối rồi lại ra ngoài ánh trăng. Đi được một lúc thì mặt đường đá dăm bắt đầu hành hạ bàn chân vốn chỉ được bao bọc trong mấy chiếc dép đế mỏng của họ. Một người leo ra bãi cỏ ngoài đường để đặt bước cho dễ trước, sau đó đến người còn lại cũng làm tương tự. Tuy nhiên, họ phải đi thành hàng một, bởi vì đôi chỗ cây cối, gốc rễ và bụi rậm mọc lan ra rất sát dải đường. Marjorie đi trước.
Tiếng chân giờ đã lặng im trên nền đất mềm. Sau khi đi như vậy được mấy phút thì họ bắt đầu nhận thấy thứ gì đó. Một tiếng xào xạc nhè nhẹ, cách quãng, một kiểu trườn đi khẽ khàng, vọng lại từ lùm cây nằm lệch một bên đằng sau lưng họ. Nó chừng như căn theo nhịp bước của họ. Nó rất tĩnh, gần như không gây hẳn ra tiếng. Nó cứ dừng rồi lại vang lên.
Marjorie lùi một bước để có thể thì thầm với cô bạn đằng sau mà không cần lên giọng. “Cậu có nghe thấy cái tiếng động đấy không?” Cô thì thào. “Có thứ gì đó, hay ai đó, đang bám theo chúng ta. Tớ đã bảo cậu quanh đây có thứ gì kỳ quái mà…”
Theo bản năng, cả hai cùng sững lại để nghe ngóng rõ hơn. Nhưng giờ chính cái âm thanh kia cũng đã dừng lại, như thể bắt chước hành động của họ. Im ắng đầy hồi hộp. Thế rồi một nhành cây gãy rắc, làm bại lộ tất cả, như thể nó bị nghiến gãy làm đôi dưới sức nặng của thứ đó.
Giờ thì mọi thờ ơ ban nãy của Sally đã bay biến hết. “Ôi trời ơi, tại sao tớ lại không chịu nghe lời cậu chứ!” Nàng rên rỉ, đẩy bạn mình. “Bất kể là gì thì ta đừng đứng đây đợi nữa! Chạy đi, nhanh lên! Ra khỏi nơi này!”
Họ co cẳng chạy dọc theo con đường dài dằng dặc, trống vắng tàn nhẫn, vẫn một người chạy trước một người chạy sau. Ngay khi họ tăng tốc, tiếng xào xạc phía sau lại vang lên, cũng hối hả y hệt. Chẳng khó gì để nhận ra phản ứng của nó đang dựa trên hành động của họ. Nó là kẻ săn đuổi và họ là con mồi. Thỉnh thoảng những tiếng va mạnh vang lên, nghe thấy rõ rệt, át cả tiếng chân chạy và hơi thở nóng hổi, hoảng loạn của hai cô gái. Đó là một chuỗi những bước nhảy vọt, phi qua từng đoạn đường và lao xuyên qua những tầng cây cản lối.
“Hét lên,” Sally thở hồng hộc. “Có khi ai đó sẽ nghe thấy chúng ta!”
Không cần phải nhắc thêm, Marjorie đã hô hoán, “Cứu với!” Cô khổ sở gào, “Cứu với!” Nhưng hiện họ đã hết hơi vì chạy, nên cô chỉ có thể thốt ra tiếng kêu yếu ớt, rời rạc.
Tiếng xào xạc và va đập giờ đã đổi hướng, tiến về phía họ, chậm nhưng chắc chắn không lệch đi đâu được, theo đường chéo thay vì đơn thuần chạy song song. Có nhiều đoạn cây cối giữa họ và nó thưa đến mức nếu muốn thì hai cô gái sẽ nhìn ra được đó là ai hay thứ gì đang đuổi theo mình. Nhưng làm thế tức là phải chạy chậm lại, quay đầu nhìn, mà cả hai đều đang quá hãi hùng và chỉ chăm chăm tìm cách thoát khỏi nó. Hoặc có thể bản năng đã mách bảo họ, chỉ cần nhìn thấy cái thứ kia thôi là nỗi kinh hoàng sẽ tăng lên gấp bội, khiến họ mất sạch khả năng cử động tay chân.
Marjorie là người chạy giỏi hơn. Cô cao hơn và có cặp chân dài hơn. Hai lần cô thấy mình dần dần kéo dãn khoảng cách với Sally, mặc dù không cố ý. Mới đầu cô cách bạn 5 mét, sau đó là 10 mét, rồi còn xa hơn nữa. Hai lần cô phải dừng lại, đợi cho khoảng cách được rút ngắn, thử tìm cách kéo tay Sally chạy kịp với mình. Nhưng nàng không bắt lấy bàn tay chìa ra ấy, có thể vì sợ sẽ khiến cả hai cùng chậm lại.
“Tớ không sao,” cô gái nhỏ nhắn can đảm phì phò. “Cứ chạy tiếp đi…!”
Cả hai giờ đã lảo đảo vì kiệt sức, chạy liêu xiêu như sắp ngã lăn ra đến nơi. Và con đường cứ như mãi không có điểm dừng, cứu trợ như mãi không bao giờ đến, nỗi kinh hoàng sau lưng như mãi không biết mệt.
Marjorie nhận thấy Sally lại bắt đầu tụt sau. Cái bóng của nàng, từ nãy đến giờ còn nhấp nhô trên vai cô trong những khoảng trăng sáng, hiện đã lùi lại đâu đó, không thể nhìn thấy nữa. Tiếng thở kiệt quệ cũng khó mà nghe rõ. Nhưng đến bản thân cô cũng chẳng thể đi tiếp được. Một lưỡi dao như đang găm vào hông Marjorie, cuối cùng cô cũng đã kiệt sức.
“Tớ không thể chạy được nữa,” cô ho khù khụ. “Tớ gục đây. Cậu chạy tiếp đi…”
Cô quay lại, muốn để bạn mình chạy qua. Cuộc chạy khiến Marjorie choáng váng, đứng giữa đường đong đưa, lắc lư như vừa quá chén.
Con đường đằng sau cô vắng tanh, cả phần dưới ánh trăng lẫn phần chìm trong bóng tối trải ngút tầm mắt. Sally không còn ở đó nữa. Trên đường và trong bụi rậm chỉ còn sót lại sự im lặng.
Im lặng, ánh trăng và bóng tối.
Không, không hẳn là vắng tanh. Ở mép đường, ló ra từ giữa bụi rậm, là một mẩu gì đó, sát nền đất, cách cô tầm 20 đến 30 mét. Đấy là một phần vạt váy. Một mẩu phục trang, nằm bất động dưới đất.
Trong lúc cô quan sát, cái vạt váy kia chầm chậm lui lại, chầm chậm bị kéo đi mất, trông rõ là người mặc đã không còn nhúc nhích. Rụt nốt một nhát và thế là biến mất.
Không một âm thanh, không một tiếng gào, không một tiếng thì thầm.
Trước nay Marjorie chưa xỉu bao giờ. Các giác quan chắc đã quá tải vì chạy thục mạng, khiến cô xây xẩm mặt mày. Cô biết mình muốn quay lại để giúp bạn. Nhưng thay vào đó, chẳng hiểu sao cô lại lăn quay ra, mặc dù không hề cảm thấy bản thân đã ngã xuống hay va mình xuống đất. Mắt cô vẫn mở trừng trừng. Nhưng tất cả những gì cô còn nhìn thấy được là những khối hình cầu hay đĩa dẹt đủ mọi kích thước, lớn lớn nhỏ nhỏ, chậm rãi bay thẳng lên như bọt rượu trong chai sâm panh.
15 phút sau, ông đánh xe muộn màng quay lại đón họ cùng với con ngựa đã thuần, thấy Marjorie bơ phờ đưa bước bên mé đường, gần chỗ ông ta bỏ họ lại. Trên váy cô vương mấy vệt máu và bản thân cái váy đã bị gai cào rách, tóc cô buông rũ rượi xuống vai. Cô đang ngơ ngơ áp một tay trên trán, thậm chí còn bước qua ông ta, như thể không nhận ra có cỗ xe.
Ông đánh xe phải nhảy xuống bên cạnh và tóm lấy tay cô thì Marjorie mới chịu dừng lại.
“Senorita, que le paso? (Cô làm sao thế?) ” Ông ta sợ hãi hỏi.
“Đưa tôi đi gặp cảnh sát,” cô thì thầm, lặng lẽ đến kỳ lạ. “Bạn tôi đang nằm kia, bị xé xác.”
Robles nói vào điện thoại, “Nếu chúng tôi có ai đó biết nói tiếng Anh thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Ở đây có một sĩ quan phiên dịch, nhưng tôi không tìm thấy cậu ta đâu hết. Hiện tại chúng tôi đang cho cô gái uống thuốc và chờ cô ấy đỡ sốc…”
Sau 10 phút, Manning đã xuất hiện tại comandancia.
Cô gái đang ngồi trong văn phòng của Robles. Chỉ cần nhìn lướt qua là anh đã biết, hiển nhiên cô chưa trở lại bình thường. Nhưng cô không khóc hay thậm chí trông có vẻ lo lắng, mà chỉ như đang chìm đắm trong suy tư. Sự điềm đạm kỳ lạ đầy băng giá như đã phủ lên cơ thể. Cô khoác chiếc đồng phục cảnh sát trên vai như một tấm áo choàng, giấu đi mấy vệt máu và những vết rách trên váy. Mái tóc buông xõa chưa được chải lại, bị hất ra sau vai, khiến cô trông như mới mười sáu. Không người phụ nữ nào ở cùng cô, bởi sở cảnh sát thành phố vẫn chưa có nhân sự nữ.
Suy nghĩ đầu tiên của Manning cũng giống hệt với tất cả những người lần đầu gặp Marjorie King: Cô thật xinh đẹp. Nhưng sau đó thì anh không nghĩ thêm về việc ấy nữa, ít nhất là bây giờ. Lẽ đương nhiên, anh không đến đây để ngắm gái đẹp.
Họ không được giới thiệu với nhau. Anh chỉ lịch sự hỏi cô một câu bằng tiếng Anh, và thế là câu chuyện được gợi mở. Sau đó anh thuật lại bằng thứ tiếng Tây Ban Nha trôi chảy của mình cho Robles nghe, mặc dù ngôn từ hơi thô tục và sai ngữ pháp. Câu chuyện được tốc ký lại. Manning để ý thấy ngay cả khi kể những gì xảy ra cho anh nghe, tâm trí cô vẫn chưa hết đờ đẫn. Cô cứ như một con vẹt đang lặp lại, từ ngữ thốt ra chẳng có nghĩa lý gì. Nó khiến anh nhớ tới mấy ca thương tổn thần kinh hậu chiến tranh mình từng biết đến, hệ quả phải từ 24 cho đến 48 tiếng sau mới phát tác.
Robles và đội ngũ chuyên gia giờ đã sẵn sàng ra hiện trường, nơi cảnh sát đến trước canh chừng từ rất lâu, chờ ông ta đến.
“Cô không cần…” Ông ta bắt đầu trấn an cô gái thông qua Manning, nhưng cô lại tỏ ý muốn đi cùng họ, khiến tất cả đều được một phen sững sờ.
“Mọi thương tổn nó có thể gây ra, tôi đều đã lãnh hết rồi, sẽ không gây thêm được chuyện gì nữa đâu,” cô nói, đồng thời ngước lên nhìn Manning.
Anh biết lúc nói chuyện với mình và những người khác, cô kỳ thực không nhận diện hết mặt mũi của họ, không phân biệt được họ là ai với ai.
“Tôi không muốn quay lại căn phòng kia và ngồi một mình trong đấy, ít nhất lúc này thì không. Tôi có thể ngồi trong xe, không ra ngoài.”
Rốt cuộc, như Marjorie đã chỉ ra, có ở chỗ này hay chỗ kia thì cô cũng chẳng thể nào tệ hơn được nữa, họ để cô đi cùng. Cô ngồi ở sau xe, giữa Manning và Robles. Người bị cô chiếm chỗ phải ở bên ngoài, tay bám lấy phần trên khung cửa.
Chuyến đi ra Bosque vừa ảm đạm vừa ảo não. Tất cả đều cảm thấy trĩu nặng, phát bệnh và bực bội, mặt gục xuống ủ rũ. Robles thậm chí còn không đủ sức tỏ vẻ phách lối với Manning, mặc dù nếu có thì cũng chẳng ai trách ông ta, bởi vụ việc này đã chứng minh toàn bộ giả thuyết của Manning là sai lệch.
“Vậy ra tôi đã đúng,” ông ta chỉ nói có vậy, giọng lờ đờ khác thường. “Chúng ta giữ Cardozo suốt bấy lâu nay và chuyện lại diễn ra ngay khi anh ta còn đang bị giam. Tôi sẽ phải ra lệnh thả anh ta ngay lập tức.”
“Hãy nhớ là tôi không hề cáo buộc đích danh ông ta,” anh chàng người Mỹ đáp lại. “Nhưng việc Cardozo vô tội không chứng tỏ rằng đó chẳng phải một…”
Anh không nói nốt. Trong lúc cô gái bên cạnh đang đau khổ tột cùng như vậy, không nên tranh cãi quan điểm.
“Cô có chắc mình ổn chứ?” Anh lo lắng hỏi Marjorie lúc họ đi qua glorieta của Puerta Mayor theo một đường bán nguyệt và tiến vào trong.
“Bản thân tôi thì không hề hấn gì,” cô đáp gọn. “Mấy vết ố này là do cành lá lúc tôi đi vào… vào chỗ cậu ấy.”
Nhờ theo dõi động tác tay cô, Robles hiểu ý câu nói vừa rồi. “Cô vào trong đó, ngay lập tức sau khi chuyện diễn ra?” Ông ta kinh ngạc thốt lên. “Nhưng cô không nhận ra rằng nó có thể sẽ tấn công luôn mình à? Chắc hẳn khi ấy nó vẫn đang rình rập gần đó.”
Cô nhìn hai người bọn họ và ra vẻ không hiểu, kể cả sau khi đã nghe Manning phiên dịch lại. “Nhưng cậu ấy là bạn tôi,” cô đáp. “Tôi quên hết sợ hãi. Không ai lại bỏ chạy và để mặc bạn mình đằng sau, ngay cả khi đã quá muộn.”
“Es admirable (Thật đáng ngưỡng mộ).” Robles khẽ giọng để một câu bình phẩm.
“Ya lo creo (Quả đúng vậy).” Anh chàng người Mỹ gật đầu lia lịa.
“Cô nhìn thấy cô ấy rồi à?” Họ nhìn nhau lo ngại, bởi lẽ đã biết ba lần trước mọi thứ trông ra sao.
“Đủ để biết… tất cả đã kết thúc,” cô thì thầm. “Khi ấy trời tối, tôi không nhìn rõ mọi thứ. Nó không lôi cậu ấy đi quá xa, chỉ kéo ra khỏi con đường và vào trong một bụi dương xỉ. Tôi… tôi nhìn thấy chân cậu ấy thò ra ngoài.”
Bao lo toan cá nhân của Robles lại trồi lên. Ông ta tuyệt vọng áp một nắm tay lên trán. “Ngày mai, có khi tôi phải nộp đơn từ chức luôn cho đỡ rách việc,” ông ta lẩm bẩm với Manning. “Chúng tôi đều đã bị cảnh cáo, anh nghe ông ta nói gì rồi đấy…”
“Ít nhất bây giờ ông đã có thêm một thứ so với mấy vụ trước rồi,” Manning cố gắng khích lệ ông ta. “Đây là lần đầu tiên ông có một nhân chứng còn sống sót sau vụ tấn công. Cô King có thể sẽ giúp được ông theo cách nào đó mà ta không lường trước được.”
“Chúng tôi không cần anh dạy đời!” Robles điên tiết quát. “Mà anh có gì để lên mặt nào? Đây không phải là một vụ giết người cần đến những thứ như nhận biết danh tính, nhân chứng, chứng cứ ngoại phạm, dấu vân tay. Vấn đề chỉ là đến nay chúng tôi vẫn chưa bắt được con vật kia thôi, không hơn không kém!”
“Đồ cứng đầu khốn kiếp!” Manning nóng nảy gắt, quay ngoắt đi.
“Đồ mù quáng ngu xuẩn!” Viên thanh tra cảnh sát đáp trả.
Ai đó bước ra giữa đoạn đường phía trước giơ đèn pin bỏ túi vẫy họ, báo hiệu đây là nơi cần đến. Chiếc xe đỗ lại bên vệ đường, đám đàn ông đi ra hết. Cô gái ở im trong xe, ngồi giữa băng ghế sau rộng rãi, trông hết sức cô đơn. Manning để ý thấy cô giương cặp mắt khô khốc nhìn vào hư vô. Sau khi liếc nhìn cô lần cuối, anh theo chân những người khác chui vào bụi rậm.
Vào trong được một quãng ngắn đã bắt gặp một chùm nhỏ những ngọn đèn pin bỏ túi, đánh dấu nơi mấy người đến trước canh gác đang đứng đợi họ, vây quanh chiếc quan tài làm từ mấy bụi dương xỉ bí hiểm.
Họ lần lượt tới nhìn, vẫn như những lần trước, một cuộc tấn công dã man, tàn bạo, không chỉ dừng lại sau khi nạn nhân đã chết mà vẫn cứ tiếp tục, mãi không thỏa mãn.
“Con vật kia chắc mắc phải chứng bệnh rừng xanh gì đó nặng hơn bệnh dại,” một anh cảnh sát rùng mình. “Bắn hạ nó thôi là chưa đủ, cần đem nó đi thiêu.”
“Cần bắt được nó trước đã,” Robles làu bàu.
Ông ta và Manning chui ra, quay trở lại chỗ chiếc xe.
“Tốt nhất nên đưa nhân chứng ra khỏi đây trước khi họ mang đèn công suất lớn hơn đến,” anh chàng người Mỹ đề xuất. “Cô gái đã chịu đựng đủ lắm rồi, không cần thêm cảnh tượng ấy làm gì.”
“Cô đang nghỉ ở đâu, cô King?”
“Bảo với ông ta là khách sạn Inglaterra.”
“Sẵn sàng hỗ trợ nếu chúng tôi có liên hệ trong vòng mấy ngày sắp tới, có vậy thôi. Giờ cô đi được rồi.”
Chiếc xe cảnh sát quay đầu và đưa cô về. Manning và Robles lại chui vào bụi rậm.
Đột nhiên, một sĩ quan dưới trướng Robles hô to, “Tôi tìm thấy một vết chân này! Chân to thật đấy!”
Trong lúc tất cả cùng xộc tới chỗ anh ta, bao gồm cả Manning, anh sĩ quan kia đế thêm một câu, “Mi comandante (Chỉ huy của tôi), có khi dấu vết này sẽ khiến ông bạn Mỹ của sếp phải ngậm miệng lại ấy nhỉ?”
Anh ta giữ chắc tay, chĩa thẳng đèn pin xuống dưới. In hằn trên một lớp rêu xanh mềm, cách thi thể không xa là một dấu chân mèo khổng lồ nguyên vẹn, trông na ná một cọng cỏ ba lá.
Robles dữ tợn quay sang Manning, như thể muốn trút hết bực dọc lên đầu anh. “Giờ có giỏi thì bảo tôi vết chân kia không phải do một con báo để lại đi, tôi thách anh đấy!”
“Nó là do một con báo để lại,” Manning rầu rĩ công nhận. Nhưng chỉ chốc lát sau anh lại nói tiếp, “Ông có bắt tôi thay đổi quan điểm thì cũng quá muộn rồi. Tôi đã thấy rất nhiều bằng chứng ủng hộ mình. Giả sử thế này nhé, hai cô gái chạy nối đuôi nhau, cô thứ hai gần như bám sát gót cô thứ nhất. Ông đã nghe nhân chứng kể lại lúc còn ở văn phòng rồi đấy. Cô ấy không nghe thấy một âm thanh nào hết, thậm chí còn không biết bạn mình mất tích cho đến khi quay đầu lại. Tại sao? Tôi không quan tâm nó chồm lên nạn nhân nhanh cỡ nào hay hạ gục cô ta ngay sau lưng bạn mình, kiểu gì thì nạn nhân cũng có thời gian gào một tiếng, kêu hự lên, hay ít nhất là lào khào trong cổ. Chỉ riêng tiếng ngã thôi cũng đủ cho người chạy đằng trước nghe thấy rồi. Thế tại sao nhân chứng không nghe thấy gì? Bởi vì không ai bị ngã hết. Nạn nhân bị nhấc lên, không phải bị xô ngã. Và muốn tóm con mồi đủ nhanh như thế, không cho tiếng ngã xuống và tiếng gào lâm chung phát ra thì chỉ có một cách duy nhất. Đó là bàn tay cầm nắm được của con người siết lấy khí quản nạn nhân, bóp nghẹt âm thanh lại, nhấc bổng cô ta khỏi mặt đất và lôi vào trong bụi rậm.”
Robles tiến về phía anh như thể hăm dọa. “Anh có nhận ra là bộ vuốt kinh khủng kia chỉ cần vụt một cú là đủ để sọ nạn nhân nát bét như một quả trứng, giết chết cô ta ngay tức khắc không?”
“Không đủ tức thời để ngăn cản ít nhất một tiếng kêu hấp hối. Âm thanh được hình thành bên trong cổ họng, không phải trong đầu. Nó chỉ có thể bị chặn tức thì thông qua việc siết khí quản. Rồi còn cả cái chuyện không có tiếng cơ thể ngã xuống thì sao? Bị dính đòn thì sẽ phải ngã. Tôi khẳng định với ông, cô ta bị nhấc thẳng đi, không phải bị một con vật vồ ngã. Nạn nhân đã bị bế thốc lên giữa lúc chạy. Bởi một thứ gì đó cũng đứng bằng hai chân!”
“Mấy cậu có nghe thằng cha này nói không? Hắn vẫn cứ cố bới ra một thủ phạm con người trong vụ này.” Robles ngoắc ngón cái đầy xúc phạm về phía Manning.
Thế rồi ông ta vẩy tay xua anh đi. “Đừng làm lãng phí thời gian của tôi nữa. Cho đến nay tôi vẫn tôn trọng anh, nhưng càng lúc anh càng trở nên khó chịu. Anh đang khiến tôi coi rẻ trí thông minh của anh đấy. Chúng tôi tìm thấy lông của con báo trên người Teresa Delgado. Chúng tôi tìm thấy đầu vuốt gãy của nó găm trong họng Conchita Contreras. Chúng tôi đã tìm thấy những dấu chân tương tự cái dấu này trên khắp mặt đất xung quanh thi thể họ. Phòng thí nghiệm thậm chí còn tìm thấy dấu vết vi khuẩn nhiễm trùng máu trong các vết thương trên người nạn nhân, chủng vi khuẩn mà động vật ăn thịt thường hay mang trong móng vuốt. Chúng tôi phải cho cái thứ kia ngồi hẳn vào lòng anh thì anh mới đồng ý là nó tồn tại nữa hả!”
“Trời đất ơi!” Anh chàng người Mỹ bực bội gào lên. “Có bao nhiêu dấu hiệu khắp xung quanh mấy người đấy, to đùng như thế mà mấy người không chịu bỏ công ra quan sát, mấy người đã lóa mắt bởi cái dấu chân Crusoe[50] kia rồi! Tôi thậm chí còn không mang phù hiệu, nhưng vẫn có thể nhìn ra chúng! Tại sao mấy người lại không thể? Ví dụ, nhìn vào cái cành cây gãy đằng kia xem, bẻ oặt vuông góc. Như vậy tức là sao hả gente (các vị)?”
Robles cong môi khinh bỉ trước câu hỏi ngây ngô này. “Nó bị gạt sang bên và bẻ gãy lúc con báo đi ngang.”
“À. Và con báo khi ấy làm gì, đi thẳng trên hai chân sau hả?” Manning gằn giọng. “Một người ra đằng kia đứng cạnh nó đi. Ai cũng được, không quan trọng người nào. Khó mà xác định được mặt đất thực sự nằm đâu khi dưới chân đầy dương xỉ thế này.”
Anh cất giọng đắc thắng khi một người đến đứng đo. “Nhìn xem! Thậm chí còn chuẩn hơn tôi nghĩ. Một chỗ lõm bên dưới mớ dương xỉ, một cái máng trên nền đất! Nhân viên của ông cao gần một mét bảy và cành cây treo lơ lửng kia cao ngang vai anh ta. Con báo kia chắc phải cao gấp đôi bình thường thì mới làm gãy được cành cây trên đó!”
Nếu Manning dự kiến việc này sẽ bắt thóp được họ thì đáng buồn thay, anh đã nhầm to. Robles thậm chí còn không thèm suy tính lại, chỉ thoáng do dự rồi lại đáp trả, “Y que? (Thế thì đã sao?) ” Ông ta lè nhè dè bỉu. “Nó cứ phải đi mãi trên mặt đất à? Nó là một con sâu hay con rắn? Nó không áp sát bụng bò đi. Hai cô gái khi ấy cắm đầu cắm cổ chạy và nó nhào người lao theo. Trong tình cảnh như thế, mấy con vật bốn chân sẽ làm gì? Nó nhảy vọt qua cái hố này, lưng nó cong lên quệt vào cành cây, bẻ gãy nó.”
Manning phẩy lòng bàn tay về phía Robles. “Ông cứ giữ lấy cái giả thuyết con báo đi! Thích thì chiều.”
Anh bỏ đi vài bước, dừng lại đủ lâu để buông nốt mấy câu chốt. “Cứ thử bỏ ra một giây theo dõi tiến trình di chuyển của nó xem. Từ con ngõ Callejon de las Sombras, nơi nó lần đầu biến mất, chạy ra đến Pasaje del Diablo, khu nhà của dân lao động. Từ chỗ đó, nó lại vòng tít ra nghĩa trang All Saints ở ngoại ô phía nam thành phố. Từ đó nó đi xuyên qua thành phố đến giao lộ Justicia và San Marco. Và một lần nữa nó lại quay về Bosque, ở mạn bắc. Đi như vậy mà không hề bị phát hiện dù chỉ một lần! Còn vấn đề này nữa. Tất cả các nạn nhân của nó đều là phụ nữ. Không một người già, đến cả trung niên cũng không, mà toàn là các cô gái trẻ. Đây quả là một con báo trăng hoa, thưa Caballeros (các quý ông). Có vẻ nó chỉ nghiện một món.”
Cuối cùng anh quay lưng với họ. “Nhưng nói chuyện với mấy người chỉ vô dụng. Phí công vô ích. Tôi về nhà đây.”
“Làm như không có anh chúng tôi sẽ bất lực lắm ấy,” Robles với theo đầy móc mỉa.
[45] Estrella de Media Noche (tiếng Tây Ban Nha): Sao Bán Dạ - tên quán rượu.
[47] American Express: Một công ty dịch vụ du lịch ở Mỹ.
[48] Bạc hà mèo: Một loài thực vật có khả năng kích thích và gây hưng phấn cho các loài động vật thuộc họ mèo.
[49] Đêm bầu cử: Đêm sau ngày bầu cử ở Mỹ khi tất cả mọi người chờ kết quả kiểm phiếu.
[50] Dấu chân Crusoe: Trong tác phẩm Robinson Crusoe của nhà văn Daniel Defoe, nhân vật Robinson Crusoe có lần phát hiện ra dấu chân người trên hòn đảo hoang nơi anh đang trú ngụ và trở nên hoảng sợ, bị ám ảnh về nó, đến mức không còn quan tâm đến thứ gì khác nữa.