← Quay lại trang sách

Chương 1 (3)

“Có thể chúng ta đều là những kẻ tâm thần, mà không hay biết điều đó.”

Bảo xoay xoay chiếc nhẫn đang đeo trên tay, nhắm mắt lại. Rồi cô thốt lên:

“Có thể lắm! Điều đó lí giải vì sao tôi và cậu cùng không có bạn, cùng chán ghét những gì mình đang làm và tiêu tốn thời gian vào một mớ giấy lộn do người khác phịa ra.”

“Chỉ tôi thôi, chị đọc cả những cuộn hồi kí đài và chán ngắt.” Tôi vừa nói vừa tháo kính ra lau, chúng luôn bụi mờ lên chỉ sau năm phút.

“Tôi nghĩ hồi kí cũng là phịa nốt. Người ta chỉ cố gắng tươi đẹp hóa, hoặc bi kịch hóa cuộc đời mình lên để bán được sách thôi.”

“Chị từng yêu ai chưa?” Đột nhiên tôi đặt câu hỏi, thoáng ngạc nhiên về tính tò mò của mình.

Người phục vụ đi ngang qua chúng tôi, mỉm cười thân thiện và cúi xuống rót thêm trà vào hai chiếc chén đã cạn trước mặt chúng tôi. Sự xuất hiện đúng lúc của cô ta khiến câu hỏi mà tôi vừa đặt cho Bảo bỗng trở nên kì cục. Khi cô ta đã đi khuất, Bảo hơi nheo mắt, nhấp một ngụm trà nóng trong chiếc cốc vừa được đổ đầy, chép miệng.

“Từng có một người.”

“Giờ anh ta đâu rồi?”

“Đâu đó. Chúng tôi cặp với nhau được hai năm thì đường ai nấy đi.”

“Tại sao hai người lại chia tay?” Tôi phát triển trí tò mò của mình tới tận cùng, khi đã lỡ mở nó ra.

“Đó không phải là chia tay. Đó là khi mỗi người đều đã tìm thấy một lối riêng để rẽ. Có một sự khác nhau rất lớn giữa từ bỏ, và biết thế nào là đã đủ.”

“Những câu văn hoa đó ai cũng nói được. Chị đang ngụy biện.” Tôi cười.

“Không, tôi đang ăn thịt bò khô. Tại sao chuyện này lại phiền hà cậu đến vậy chứ? Cứ cho là tôi đã bị đá đi. Ai mà chẳng một lần bị đá.”

Nói xong câu đó, Bảo lại cắm đầu xuống cuốn sách của Anton Chekhov đang để trên đùi, như thể chúng tôi chưa từng có cuộc nói chuyện này vừa xảy ra. Tôi chưa từng có người yêu, cũng chưa từng có cảm mình sâu sắc với cô gái nào. Bảo là người đầu tiên mà tôi để ý, theo đúng nghĩa đen của từ đó. Nhưng bản thân tôi cũng không cụ thể hóa được những cảm xúc của mình. Nếu thật sự ở cạnh cô thêm nhiều năm nữa, tôi có thấy tẻ nhạt không? Hay chỉ như thế này là đủ rồi? Miên man với dòng suy nghĩ của mình một lúc, rồi tôi cũng giơ quyển sách đang đặt ở đùi lên đọc tiếp, cầu trời khấn phật cho trời đổ một cơn mưa thật to để chúng tôi có thể bị tắc ở quán café này mãi.

Tôi chắc mình là một người sống tốt, bởi ngay sau đó một tiếng thì trời đổ mưa thật. Cơn mưa như trút nước khiến quán café đột nhiên đông nghịt, cả tá khách ghé vào trú chân, mang theo sự ồn ã và những giọt nước vội vã từ trên phố. Khi tôi đang cười thầm trong bụng, thì Bảo đột nhiên đứng phắt lên ra hiệu nhân viên phục vụ tính tiền.

“Ồn quá, tôi không đọc được nữa.”

“Cơn mưa chắc sẽ tạnh sớm thôi, rồi khách sẽ bỏ đi nhanh như lúc họ đến.” Tôi vớt vát, hi vọng câu nói sẽ khích lệ cô ngồi lại.

“Tôi không thích chờ đợi. Về thôi.”

Khi tôi đang thở dài chờ nhân viên phục vụ mang hóa đơn đến, thì Bảo đột nhiên nói thêm:

“Về nhà tôi đọc sách tiếp.”

Tôi biết mà, tôi là một người sống tốt và luôn hiện thực hóa được những suy nghĩ còn chưa kịp định hình.

Khi chiếc xe cà tàng của tôi đỗ lại ở ngôi nhà nơi Bảo sống, cả hai đã ướt nhẹp. Tôi vẩy những giọt nước đọng lại trên chiếc kính, dè dặt hỏi sau khi khóa xe:

“Không có ai ở nhà ư?”

“Tôi sống một mình.”

Đó là một câu nói không rõ ràng và gợi nhiều tò mò, nhưng tôi không hỏi gì thêm. Thói quen đọc sách đã khiến tôi luôn chấp nhận chờ đợi những tình tiết hé lộ ở những trang sau, thay vì bức bối về những nút thắt chưa được gỡ và mở tuột đến dòng cuối cùng.

Căn nhà chỉ có hai phòng. Phòng khách rộng rãi với bộ sofa lớn đặt giữa cùng vài đĩa nhạc đặt vương vãi trên bàn, chiếc cửa màu trắng dẫn vào phòng ngủ nằm trong góc. Bảo bước vào đó một lúc, tôi nhìn quanh căn phòng trong lúc tiếng nước vang lên phía trong. Một lúc sau cô bước ra, ném về phía tôi một chiếc áo phông, có lẽ là chiếc rộng nhất mà cô có. Bảo mặc một chiếc sơ mi lửng tới đùi loại áo của đàn ông với cúc bên phải và khuyết bên trái. Tôi chẳng biết cô còn mặc gì khác ngoài nó nữa không. Cô có vẻ đã gội đầu, nhưng chẳng thèm sấy mà để mặc những giọt nước chảy từ tóc xuống tấm thảm lông dưới sàn.

Bảo bật một đĩa nhạc giao hưởng của Carmignola rồi cầm hai cốc trà nóng ra khi tôi đã thay xong áo, đang cầm cuốn sách đọc dở lên và tỏ ra như chuyện này cũng chẳng có gì to tát. Sự thực, tâm trí tôi rối loạn, cố trấn tĩnh bản thân bằng cách làm một ngụm to trà dược thảo mà cô vừa mang ra. Tôi liếc mắt quanh căn phòng, đồ đạc có vẻ đã giảm thiểu hết mức có thể, nhưng lại không gây cảm giác quá sơ sài. Chiếc đồng hồ gỗ cổ loại đánh chuông, to và uy nghi đặt giữa bức tường, có vẻ là thứ cầu kì duy nhất trong căn hộ nhỏ này. Bộ salon màu be và những vật dụng điện tử xếp đặt ngăn nắp. Tủ sách nhỏ bằng gỗ ép đặt sát góc tường, đầy ắp những cuốn sách đủ màu sắc và kích thước. Không một bộ quần áo, dép hay bất cứ chiếc dây điện nào xuất hiện đầy chướng mắt như ở phần lớn các căn nhà khác. Chiếc bảng to đính đầy giấy nhớ với những dòng chữ lổn nhổn, các tấm ảnh dán đầy tủ lạnh lớn trong bếp khiến tôi khó có thể tin được rằng Bảo chỉ sống ở đây một mình. Nhưng nhìn số lượng giày dép xếp gọn gàng trước cửa, tôi có thể biết cô không nói dối về điều đó.

Cơn mưa lớn tạo thành những âm thanh đều đều ngoài phố, tôi nghĩ về những ngày hè khi bố tôi còn sống. Ông thường bắt tôi tưới nước cho mấy chục chậu cây ngoài sân mỗi ngày. Công việc chán ngấy đó khiến tôi bực bội, và chỉ khi những cơn mưa lớn đổ xuống, tôi mới có thể tránh né được nó mà không bị la rầy.

Quyển sách trên tay Bảo đột nhiên rơi xuống đất, tạo thành một âm thanh tựa như tiếng gõ cửa. Cô bối rối nhìn nó, không có vẻ gì như muốn nhặt lên. Tôi nheo mắt, đưa tay nhặt cuốn sách đưa Bảo.

“Chị sao vậy?”

“Tôi chả sao, chắc bị tê tay. Cái trà đó uống được không?”

“Cũng được.”

“Tôi mua nó ở một cửa hiệu quanh năm ế ẩm ngoài khu ngoại ô. Thế mà uống cũng ra gì phết.”

“Tôi chả hiểu chị đang có ngụ ý gì.” Tôi bật cười.

“Tôi chả định nói gì cả. Hâm ấy mà.” Bảo nói rồi cúi xuống cuốn sách.

Chúng tôi cùng giữ im lặng cả tiếng đồng hồ, chăm chú vào những con chữ trước mặt, cho đến khi Bảo ngẩng lên sau đó, tôi giật mình khi thấy mắt cô đẫm nước. Điều này quả có hơi quái gở bởi tôi chưa thấy ai khóc khi đọc truyện của Anton Chekhov bao giờ. Nếu đọc một tác giả chuyên viết chuyện khôi hài mà Bảo có thể khóc, tôi không hình dung được khi cô đọc một tiểu thuyết bi kịch thì sẽ thế nào nữa. Tôi bối rối với lấy hộp giấy ăn dưới bàn đưa cô:

“Có vẻ hỏi rằng ‘Chị ổn không?’ bây giờ thì nghe có vẻ rất ngớ ngẩn, nhưng mà, chị ổn không?”

“Tôi ổn.” Bảo dùng bàn tay với những chiếc móng xinh xắn rút một tờ giấy ăn, giọng cô ướt nhoẹt như một tấm mút đã sũng nước. Tôi đủ thông minh và nhạy cảm để nhận ra khi một người phụ nữ nói câu này, họ chẳng biết họ đang nói gì.

“Có một đoạn nào quá cảm động ư?” tôi hỏi, không giấu nổi sự ngạc nhiên.

“Không. Chỉ là khi đọc truyện của Anton, tôi luôn thấy rất kì lạ. Chẳng biết vì sao. Có thứ gì đó cứ nhói lên liên hồi trong những nụ cười mà ông cố mang lại cho người đọc. Một sự cô đơn mãnh liệt, và tôi thấy mình trong đó. Tôi tưởng tượng mình ngồi trước một lò sưởi xây bằng gạch với những thanh củi lớn đang cháy dang dở bên trong, quàng một tấm khăn len đủ màu của người da đỏ. Khung cửa sổ nhỏ hình vuông treo những chiếc chuông gió kêu lanh canh và một hình nhân cầu mưa kì dị. Đồng cỏ bát ngát phía ngoài, trải dài đến một ngọn núi trắng tuyệt. Tôi ngồi đó, một mình, lắng nghe hơi thở của mùa Đông quằn quại bên ngoài. Cứ mỗi lẫn đọc truyện của Anton, tôi tự đặt mình vào ngôi nhà gỗ nhỏ giữa thảo nguyên đó, và đôi khi khóc vì sự cô quạnh của mình.”

Tôi càng bối rối hơn khi nghe Bảo nói. Một cô gái học luật với dáng người của vận động viên thể thao đang khóc khi đọc một tập truyện cười và kể cho tôi về ngôi nhà có lò sưởi giữa mùa Đông lạnh giá. Tôi chưa từng có kinh nghiệm giải quyết mấy vấn đề thế này nên cũng chẳng biết nên tư duy làm sao. Bảo rút tiếp một tờ giấy ăn, lau những giọt lệ buồn bã. Rồi cô ngước lên nhìn tôi:

“Cậu có yêu tôi không?”

Câu hỏi đột ngột như tảng thiên thạch bất thình lình rơi xuống khiến tôi lúng túng. Tôi nhắm mắt lại rồi mở ra, hít một hơi, đan qua lại những ngón tay vào nhau thừa thãi, suy nghĩ một chút trước khi trả lời thành thật:

“Tôi không biết. Tôi có một cảm xúc đặc biệt với chị. Nhưng nó có vẻ không giống như tình cảm yêu đương. Nói chung bản thân tôi cũng thật sự không biết.”

“Cậu có ngại khi đi với tôi không?”

“Không.” Lần này thì tôi trả lời ngay, không mảy may suy nghĩ.

“Nếu tôi biến mất, cậu có đi tìm tôi không?”

“Chắc là có”, tôi ngước mắt lên nhìn bộ đèn chùm đang buông xuống thứ ánh sáng vàng vọt phía trên đầu. “Mặc dù tôi cũng chẳng biết sẽ tìm chị ở đâu.”

“Sau bao lâu thì cậu sẽ bỏ cuộc?”

“Còn tùy vào tôi có gì để làm không nữa, nhưng tôi là người khá kiên nhẫn. Chắc cũng sẽ không sớm từ bỏ dễ dàng.”

“Thực ra, nguời ta không cần thiết phải tìm nhau thật sự. Trước hết, hãy tìm nhau trong trí nhớ. Người ta thường bỏ qua điều đó, để rồi sẽ quên mất nhau.”

Bảo nói nhỏ, hơi thở đứt quãng. “Tôi yêu cậu, ngay từ lần đầu tiên thấy cậu ở thư viện. Ở cậu có điều gì đó đã lập tức khiến tôi không thể rời bỏ. Tôi cố lí giải nó vài lần, nhưng không cắt nghĩa được. Và có lẽ cũng không cần thiết.”

Tôi ngỡ ngàng, vậy là Bảo có nhớ tôi ngày hôm đó khi chúng tôi lướt qua nhau. Tôi không biết phải nói gì, thấy những mảng kí ức trở nên lộn xộn và rối bời.

“Trời ngớt mưa rồi, cậu về đi. Tôi có việc phải làm.” Bảo nói, giọng cô vẫn chưa trở lại bình thường.

Tôi im lặng nhìn cô vài giây, với tay lấy ba lô rồi bước ra khỏi nhà, cơn mưa đã ngớt thật. Nó dường như chỉ sinh ra để dành riêng cho việc này, và kết thúc khi phải kết thúc. Sau khi lau những giọt nước đọng lại trên yên xe một cách cẩn thận, tôi nổ máy phóng về nhà, vừa đi vừa suy nghĩ những thứ chẳng có đầu đuôi. Tôi không thật sự hiểu những điều Bảo muốn nói, nhưng điều đó cũng đúng thôi, bởi tôi còn không hiểu chính mình.

Tôi không thấy Bảo lên trường những ngày sau đó. Tôi ghé qua những giảng đường cô thường dự tiết, nhưng chiếc ghế quen thuộc ở phía cuối lớp vẫn bỏ không. Sau ba ngày, tôi qua nhà Bảo, gõ cửa. Một lúc sau, có tiếng vọng ra từ bên trong:

“Ai vậy?”

“Tôi. Phong.”

“Có chuyện gì?” Giọng nói của Bảo có vẻ không tự nhiên lắm.

“Cũng không có gì...” Tôi lúng túng bởi câu hỏi lạnh lẽo “Chị không lên trường ư?”

Tiếng sột soạt phía trong vang lên, tựa như Bảo đang nghịch ngợm một trăm chiếc túi nilon lớn nhỏ. Chút sau, có tiếng trả lời:

“Tôi bị cảm sau hôm đó, nguyên một cơn mưa vào người nên giờ nằm bẹp.”

“Vậy sao? Tôi có thể vào chứ? Tôi mang trả chị cái áo hôm trước.”

“Không cần đâu, cậu cứ giữ lấy. Tôi ổn. Mới lại tôi không thích gặp cậu trong tình trạng thảm thương này.”

“Vậy... gặp lại chị trên trường sau.” Tôi nghĩ một chút rồi nói.

Tôi đứng bần thần trước cửa nhà Bảo một lúc, không có tiếng trả lời nào nữa. Tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn, cô vẫn ở đây, chẳng biến đâu mất. Căn hộ trở lại im ắng, hoàn toàn không có tiếng động nào phía trong, dường như Bảo đã trùm chăn kín đầu quay trở lại với giấc ngủ mà tôi vừa phá.

Hai tuần sau ngày mưa ở nhà Bảo, tôi vẫn không thấy cô lên trường. Dồn tất cả sự kiên nhẫn chờ thêm một tuần nữa, rồi tôi mò đến nhà Bảo lần nữa, cô không thể nghỉ học lâu đến thế. Khi tôi đưa tay định gõ cửa thì một người phụ nữ lớn tuổi bước ra. Bà ta có mái tóc ngắn được làm xoăn tít theo kiểu đã lỗi mốt, mặc một chiếc áo len mỏng, lộ ra những nốt tàn nhang lám nhám trên cổ. Bà ta nhìn tôi bằng ánh mắt tọc mạch. Không biết nên xưng hô thế nào, tôi húng hắng:

“Xin lỗi, tôi tìm Bảo.”

“Cô ta chuyển đi rồi.”

Tôi chưng hửng, ngó qua vai người phụ nữ vào trong. Căn phòng vẫn y nguyên đồ đạc.

“Bác có biết cô ấy chuyển đi đâu không?”

“Tôi không biết. Cô dọn đi cách đây hai tuần.” Giọng người phụ nữ có vẻ bực bội một cách vô cớ, như thể việc này là một sự bất tiện lớn lao lắm.

“Bác biết có cách nào để liên lạc với cô ấy không? Tôi học cùng trường với Bảo, cô ấy đã nghỉ trên trường ba tuần rồi...”

“Tôi không biết”, bà ta ngắt lời. “Cô ta luôn trả trước tiền nhà, nên tôi cũng chẳng có lí do gì để quan tâm tới việc tìm hay liên lạc với cô ta như thế nào.”

Tôi cảm ơn rồi bước ra xe máy, vặt một chiếc lá ở cây cơm nguội ngoài vỉa hè và suy nghĩ về những điều Bảo nói lần trước. Sau một hồi ngồi thừ trên yên, tôi quyết định giữ lời hứa của mình, dù đó cũng chẳng thật sự là một lời hứa. Tôi đi tìm cô ở tất cả những nơi chúng tôi tìm cùng nhau đến. Thật lạ, không chỉ không tìm thấy Bảo, mà tất cả những nơi đó cũng bỗng trở nên vắng lặng, hoặc là tôi cảm thấy thế - như thể tất cả mọi người đã cùng nhau nắm tay bơi thẳng sang Malpes mà không rủ tôi. Cả thành phố bỗng trở lại với sự buồn tẻ mà tôi luôn cảm thấy trước khi quen cô, không khí ảm đạm và nhạt nhẽo như chai rượu vang đã hả.

Tôi tìm cô như vậy đúng một tháng, trước khi quyết định mình phải sống tiếp một cuộc đời dang dở. Tôi trở lại trường, lên lớp đầy đủ các môn, thậm chí chẳng buồn điểm danh hay chép bài, chỉ ngồi đó như chờ đợi một điều gì khác vốn chưa từng có thật. Tôi nhận ra dù là người duy nhất chơi với Bảo trong trường, tôi vẫn biết về cô quá ít. Tôi thậm chí không thể tìm được một lời lí giải hợp lí cho sự biến mất đó. Như một chiếc dằm đã đâm sâu trong tay, tôi huyễn hoặc mình rằng Bảo không có thật, và tôi chỉ là một kẻ tâm thần tự tưởng tượng ra người bạn đọc sách cùng trong những buổi chiều tĩnh lặng. Khi đã trải qua giai đoạn tự vuốt ve đó, tôi hoang mang lo lắng rằng có thể cô đã gặp điều gì nguy hiểm. Có thể lắm chứ, một cô gái sống đơn độc tại thành phố rộng lớn, bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.

Chỉ khi biết thật sự một ngày ngủ dậy sẽ không được gặp lại Bảo, tôi mới hiểu rõ những gì trái tim mình cảm thấy. Tôi biết sức hút ấy là có thật, thứ trường lực kì lạ từng khiến tôi bị hấp dẫn bởi một người xa lạ đó, giờ lại đang kéo tôi xuống hố sâu của sự cô đơn. Một nhà thơ nổi tiếng từng nói: một người đàn bà chỉ cần có nhan sắc mà thôi, nhan sắc đã là tài năng. Tôi biết điều đó sai với Bảo. Ở cô có thứ gì đó vượt qua khái niệm thông thường về phụ nữ. Chưa từng có ai khiến tôi cảm động đến thế. Tôi nhớ cô, thật sự nhớ cô.

Ngày cuối cùng của tháng Ba, tôi chán chường bỏ tiết học tẻ nhạt, mò vào thư viện kiếm một cuốn sách đọc giết thời gian. Khi đi ngang qua góc cũ nơi lần đầu tiên gặp Bảo, tôi bất giác hướng lên giá sách. Nằm im lìm trong một góc, The Woman in Black của Susan Hill đã ở đó từ lúc nào. Sự vui sướng dâng lên trong tôi. Vậy là Bảo ổn, cô thậm chí có thời gian để trả lại cuốn sách yêu thích của tôi cho thư viện. Tôi nhấc nó xuống, lật giở một cách vô thức, vuốt ve những trang sách đã từng được ngón tay cô lướt qua. Một tờ giấy nhỏ nham nhở rơi ra từ phía trong, những nét chữ mảnh mai của Bảo được viết nắn nót trong đó thành một hàng dài:

“1601 - - EOEOZXEZX9EX9EXSIXZIX8EX9ZXEEXLIXZZX8EX91X6”