Chương 2 (1) Những Chiếc Mặt Nạ Hạnh Phúc
Kết thúc những năm học nhàm chán, rồi tôi cũng ra trường, kiếm lấy cho mình một công việc tập sự vô thưởng vô phạt ở một công ti tư vấn luật nhỏ. Đó là một công ti được lập ra dường như chỉ để cho những gã sinh viên vừa tốt nghiệp như tôi háo hức lao vào và không nhận được gì ngoài sự thất vọng. Nhưng đây là việc không thể tránh khỏi bởi theo quy định thì tất cả các sinh viên luật muốn được cấp phép hành nghề luật sư đều phải trải qua thời gian tập sự kiểu này. Loại công ti như thế chỉ chuyên tư vấn dăm ba vụ li hôn lặt vặt, những bà vợ đến than khóc ỉ ôi về việc chồng có bồ nhí, hay vài gã choai choai đột nhiên vướng vào những cô bé chưa đến tuổi thành niên... Một tỉ những chuyện ngu ngốc như vậy xảy ra mọi lúc, mọi nơi, và tôi phải chung tay giải quyết nó. Không có gì mới mẻ, cũng không có gì xa lạ, cuộc đời vẫn cứ thể đâm bổ vào tôi.
Tôi kiếm một chiếc điện thoại rẻ tiền chẳng có công dụng gì đặc biệt ngoài nghe, gọi và nhắn tin. Tôi mua một chiếc motor cafe racer loại cũ từ một gã đã chán nó, tút tát lại và dùng làm phương tiện di chuyển từ A đến B. Mặc dù trông chẳng liên quan gì đến trang phục quen thuộc của dân công sở, chiếc xe mang một dáng vẻ đặc biệt hợp với sự xù xì của tôi, khiến không ai muốn bình luận thêm câu này. Từ bỏ khu kí học túc xá ngột ngạt, tôi thuê một căn hộ ở rìa thành phố - loại một người sống thì thừa mà hai người chui vào thì thiếu - nuôi một chú chó nhỏ giống Smooth Fox Terrier với bộ lông mượt và chiếc đuôi ngắn luôn dựng đứng, đặt tên là A.K. Điều đầu tiên mà chín mươi lăm phần trăm những thằng con trai nghĩ tới khi bắt đầu kiếm được tiền, chính là ra ở riêng. Nhưng chắc chỉ khoảng năm phần trăm trong số đó sẽ hiện thực hóa điều họ suy nghĩ. Đa phần chọn giải pháp an toàn nhất là tiếp tục ở nhà - nơi có thể ăn miễn phí, giặt đồ không tính tiền, sử dụng internet vô độ và chẳng cần quan tâm tới tiền điện nước. Dù có muốn được như vậy, tôi cũng chẳng còn nơi này để về. Mở tiền trong tài khoản là toàn bộ những gì mẹ tôi để lại. Bà coi đó như một cách gián tiếp nói với tôi rằng: “Hãy tự chèo lái lấy con thuyền cuộc đời mình một cách đơn độc. Dòng thác đang ầm ầm đổ xuống trước mặt, mẹ trân trọng dành hết cho con.”
Tôi bắt đầu có bạn bè, chủ yếu là vài gã cùng công ti - làm việc như rùa nhưng cưa gái thì nhanh hơn thỏ. phần lớn những kẻ chọn công ti này làm việc đều không có kì vọng gì lớn lao, họ chỉ coi đây là một chỗ trú chân tạm bợ, cho đến khi may mắn vớ được một vụ kiện đình đám và trở nên nổi tiếng. Khi đó, lựa chọn sẽ xuất hiện nhiều hơn và nếu khôn ngoan tận dụng cơ hội thì có thể kiếm được một chân trong tòa án nhân dân thành phố, hoặc chuyển sang công ti luật lớn với mức lương cao gấp năm lần.
Tôi hầu như không gặp khó khăn gì trong việc hòa nhập với những khách hàng đáng kính - tầng lớp đáy của xã hội - mặc dù ranh giới giữa việc tư vấn luật và hóa thân thành bác sĩ tâm lí để an ủi những người vợ kém may mắn đó chỉ cách nhau một chút. Phần lớn sau khi nước mắt lã chã xả hết nỗi lòng mình, rồi họ cũng lại cắn răng quay lại với những gã chồng tệ bạc và hi vọng một sự thay đổi hão huyền. Đó là lựa chọn riêng của mỗi người, tôi không thể ép tất cả phải ra tòa li dị nhau để kiếm vài đồng bạc lẻ, khi mà bản thân họ sợ hãi trước sự đổi thay. Dù hôm nay có tệ đến thế nào, phần lớn chúng ta vẫn co cụm trong một vỏ bọc giả dối, chỉ bởi biết đâu ngày mai có thể sẽ kinh khủng hơn nữa nếu không học cách cam chịu.
Tôi vẫn thường nghĩ đến Bảo mỗi khi tình cờ nhìn thấy chiếc áo của cô mà tôi đã mượn ngày hôm đó, hồi tưởng về quãng thời gian mà cô đã đi qua đời tôi. Khi dọn đồ để chuyển ra ở riêng, tôi đã ngồi thần ra một lúc trước chiếc áo, nhớ lại cái ngày mưa gió cuối cùng mà tôi gặp cô. Tôi cố gắng lần mò giải mã những kí hiệu kì lạ mà Bảo để lại, nhưng hoàn toàn không hiểu nó mang ý nghĩa gì. Tôi tưởng tượng ra cô ở một thành phố khác, có một đời sống khác. Có thể cô đã mở một hiệu sách và không ra khỏi đó, hài lòng với việc chu du trong cuộc đời của những người không có thật. Cũng có thể là Bảo đã lấy chồng - một người đàn ông có thể cảm nhận được vẻ đẹp thật sự của cô - và có những đứa con xinh xắn đang bập bẹ tập nói. Tôi không biết mình vui hay buồn khi nghĩ đến điều đó. Tôi cũng không thật sự biết lúc còn ở cạnh nhau, tôi có yêu Bảo không nữa. Tôi chỉ tin rằng đó là một điều gì đó rất có ý nghĩa. Cách mà chúng tôi giao tiếp, cách mà cô khiến tôi cảm giác cuộc sống có gì đó để chờ đợi, cách mà tôi bước lên giường hàng đêm và thấy chính bản thân mình đã là một bản thể thực sự tồn tại trong thế giới rộng lớn. Bạn không cần phải hoàn hảo để được yêu, bạn chỉ cần là chính bạn, và sẽ có ai đó trân trọng điều đó. Không phải tất cả, và cũng không cần là tất cả.
Khi Bảo biến mất, một phần nào đó trong con người của tôi đã đi theo cô, không trở lại. Có những người sẽ thay đổi cách mà bạn nhìn thế giới mãi mãi, và bạn không thể quay ngược điều đó, dù có cố gắng thế nào. Chỉ có điều, tôi chưa từng hối hận vì đã không nắm chặt khoảng thời gian đó hơn, tôi biết Bảo không phải người tôi có thể giữ.
Công việc không lấy gì làm bận rộn khiến tôi giữ được thói quen đọc sách của mình. Tôi giữ nhịp độ cuộc sống vừa phải, không buồn bã quá và cũng không háo hức quá. Tôi đến trại trẻ mồ côi ở ngoại thành mỗi tuần một lần, thường là vào tối thứ Sáu. Điều đó cũng không quá chắc chắn, tùy vào tình hình thời tiết và cảm xúc cá nhân. Tôi quý những đứa trẻ ở đó, nhưng không phải lúc nào tôi cũng muốn nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, bởi chúng chỉ gợi nhắc về chính tuổi thơ hoang hoải của tôi. Thời gian rảnh còn lại tôi chăm sóc một vài cây con trồng tại nhà, đi xem phim một mình hoặc với vài cô gái mà bạn bè giới thiệu. Chủ yếu là các cô ế chỏng chơ vì một lí do nào đó. Cô thì quá kén chọn, cô thì quá thiếu tự tin, cô thì quá xấu và có cô lại đẹp quá mức cần thiết. Nói chung, trong số họ, tôi không tìm thấy ai thích hợp dù chỉ để gặp lại lần thứ hai. Chẳng có ai giục cưới, và cũng không hào hứng lắm với việc phải có một ai đó chia sẻ tâm sự, nên dù thỉnh thoảng có tham gia vài bữa với những đám đồng nghiệp lười biếng, cuối cùng tôi vẫn dành phần lớn thời gian một mình. Đi xem phim một mình, xem bóng đá một mình, dắt chó đi dạo một mình, ngồi ở quầy bar một mình, đọc báo một mình ở vỉa hè mỗi sáng và nấu ăn một mình mỗi tối, thi thoảng uống rượu một mình giữa đêm, và nhớ đến người con gái của cuộc đời mình. Biết đâu cô ấy cũng đang một mình.
Ngôi nhà nơi tôi thuê nằm trong một dãy phố nhỏ, không mấy khi có người lạ qua lại. Một vài cửa hàng quần áo nhỏ, dãy nhà kho của một công ti xuất nhập khẩu có cái tên vô cùng khó nhớ, vài quán café vỉa hè như mọi ngóc ngách khác của thành phố... Trong số đó nổi bật lên một quán Nhật nằm ở cuối đường có tên Ishida Sushi. Ngay khi nhìn thấy chiếc biển hiệu đó, tôi lập tức bị cuốn hút. Có lẽ nó lấy cảm hứng từ tên của Ishida Uryu, một nhân vật phản diện trong Bleach - bộ truyện tranh mà tôi từng rất yêu thích những năm học trung học, dù chẳng ai xung quanh tôi thèm đọc nó. Tôi đến quán sushi ngay tối đầu tiên dọn về căn hộ mới. Ishida thuộc loại quán chỉ có một bếp chính nằm giữa quán với những chiếc ghế cao, thực khách có thể tận mắt xem đầu bếp chế biến đồ ăn bằng đôi tay điêu luyện của họ. Ngoài đầy đủ danh sách ẩm thực Nhật Bản quen thuộc, quán cũng phục vụ một số món ăn châu Âu khác tùy theo chất lượng thực phẩm nhập mỗi ngày. Mặc dù đồ ăn ngon và giá không quá cao, quán vẫn vắng khách, có lẽ do tình trạng ế ẩm chung của khu này. Tuy thế tôi coi đó như một đặc ân bởi nhờ đó mà không gian ở Ishida đặc biệt yên tĩnh, đồ ăn được làm cẩn thận và trang trí đẹp. Thêm vào đó, tôi đặc biệt ưa thích Kim - nữ đầu bếp trẻ làm việc nửa ngày ở đây. Đó là một cô gái trầm tĩnh, nói thông thạo nhiều ngoại ngữ. Kim luôn có những cử động rất nhẹ nhàng và từ tốn, tôi hầu như không thấy cô có một động tác thừa nào trong khi làm việc, cũng hiếm khi gây ra những âm thanh không cần thiết. Kim có dáng người nhỏ nhắn như một học sinh trung học, nhưng lại có phẩm chất và kĩ thuật của một đầu bếp lâu năm. Mỗi khi rảnh rỗi hoặc lười nấu nướng, tôi thường ngồi nửa ngày ở Ishida, uống rượn sake pha gừng và ngắm Kim làm sushi. Cô hay cười nhưng đặc biệt ít nói. Tôi dường như là vị khách duy nhất mà Kim thường trò chuyện. Chúng tôi trở thành những người bạn đặc biệt, có thể tâm sự với nhau đủ chuyện trên trời dưới biển, thực ra, chủ yếu là tôi kể với cô. Tuy vậy, tôi chưa từng bao giờ gặp Kim ở đâu khác ngoài Ishida. Tôi không có hứng nhìn cô mặc gì khác ngoài bộ đồ làm bếp, và có lẽ, Kim cũng chẳng muốn làm gì khác cho tôi ngoài việc cắt lát những miếng đồ sống, cuộn chúng với cơm và cuốn rong biên phía ngoài. Tôi có thể ăn những thứ cô làm đến no bụng mà không thấy chán. Không có nhiều đầu bếp sở hữu tài năng đó, ít nhất là với một người không trọng chuyện ăn uống như tôi.
Tháng Mười hai cuối cùng đã đến. Tôi chờ đều này suốt năm và coi nó như một ân huệ hiếm hoi của tự nhiên, cứu rỗi toàn bộ những khó chịu chồng chất suốt khoảng thời gian còn lại. Tôi luôn yêu thích tháng Mười hai, nó có gì đó bình an và chậm rãi, như một vận động viên marathon đã rảo những bước cuối cùng tới đích. Không gian lạnh lẽo khiến người ta dễ dàng co vào những chiếc áo kín đáo, che giấu nỗi buồn và niềm vui, sự hưng phấn hay nỗi thất vọng. Những cơn mưa bất chợt gột rửa đường phố bụi bặm và muộn phiền. Tháng Mười hai đã làm tôi hoàn toàn quên mất mùa Thu. Hình như thành phố này đã đánh mất mùa Thu, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thú thật, tôi chỉ cảm giác được không khí tươi mát, sự thoáng đãng của bầu trời và mùi hoa sữa trong ba ngày, sau đó biến mất đột ngột hơn cả lúc xuất hiện. Sụ biến mất đột ngột của nó khiến tôi càng chán ngán cái mảnh đất cực đoan này. Nóng quá đà, lạnh quá thể. Kẻ dưng thì luôn mồm kể lể còn người quen thì lại hờ hững ơ hờ. Những kết nối cần thiết với cả con người và khí hậu đều dần dần đứt đoạn trong tôi.
Mùa Đông của thành phố nhiệt đới mang đến cái lạnh âm ỉ khiến cho những người đang nằm trong chăn ấm có thể bàng hoàng khi vừa bước ra, và lập tức muốn trở lại cái ổ của mình. Không gian khô quạnh khiến ai cũng co lại với nỗi lòng của riêng mình. Tôi nhận đống giấy tờ về làm việc tại nhà, vùi đầu vào nó, và chỉ ra ngoài mỗi khi phải dắt A.K đi dạo. Với bản năng của giống chó săn cáo, A.K có thể chạy cả tiếng đồng hồ sục sạo khắp nơi mà không biết mệt. Chiếc mõm đen của nó như một thứ ra-đa định hướng khiến dù có chạy cách tôi hàng kilomet, A.K vẫn có thể dễ dàng tìm đường trở lại với chủ. Đôi tai to màu nâu của nó lúc nào cũng động đậy, nghe ngóng những diễn biến mọi thứ xảy ra xung quanh. Trầm tĩnh và đáng tin cậy, can đảm và mạnh mẽ, AK quả thật là một người bạn tôi đã từng mong ước có từ khi còn nhỏ và ngay cả bây giờ. Tôi thậm chí nghĩ mình có thể sống với một người vệ sĩ như thế cả đời, mà không cần phải cố nhồi một thêm một cô gái nào khác vào căn nhà này. Tất nhiên, tôi biết một chú chó không thể sống lâu đến thế. Nhưng trong những thời điểm nhất định, bạn biết rằng để có thể kiếm được một mối quan hệ mà mình có thể tin tưởng và trân trọng như người chủ và chú chó săn, lại là một điều quá khó. Con người thường thay đổi, họ tìm đến những thứ sẽ làm giàu hơn cho cuộc sống của họ, cả về vật chất lẩn tinh thần. Một chú chó không như vậy, một chú chó săn lại càng không - nó có lòng trung thành tuyệt đối với người chủ đã chọn nó, bất kể rồi số phận sẽ dẫn cả hai đến đâu.
Khi những cây non ngoài cửa đã lớn nhanh hơn kì vọng, cũng là lúc tôi nhận ra mình đang dành quá nhiều thời gian cho chúng. Tôi bắt đầu trở lại công ti và qua lại với mấy gã đồng nghiệp. Tôi tình cờ thân với một anh bạn làm phó phòng cảnh sát sự thành phố, uống bia mỗi tuần một lần, nghe cậu ta kể những chuyện phá án và tán gẫu về chính trị. Cô gái thứ hai bước vào cuộc đời tôi đã xuất hiện chính lúc đó, ngay khi tôi cho rằng mình đã hoàn toàn tuyệt vọng trong việc tìm kiếm một mối quan hệ nghiêm túc.
Tôi gặp Trang vào một buổi chiều thứ Bảy. Nắng đẹp. Gió nhẹ. Cây cối rung rinh. Đường phố vắng vẻ. Mùi hoa sữa thơm dìu dịu...
Từ từ, hãy tua lại một chút. Thêm một chút nữa. Rồi, dừng lại ở đó. Đúng cái chỗ “buổi chiều thứ Bảy”. Mỗi lần khi nhớ lại ngày hôm đó, kí ức tôi đứt khập một cái ngay đoạn mở đầu ấy. Tôi không nhớ nổi hôm đó đã có nắng hay mưa, lũ lụt hay lốc xoáy, cũng không sao nhớ nổi chúng tôi đã gặp nhau ở đâu, như thế nào, đã nói những gì. Tôi chỉ nhớ rằng mình đã uống rất say từ buổi trưa hôm đó trong bữa tiệc sinh nhật bạn gái của một gã đồng nghiệp. Tôi bết tới mức không đi nổi xe về nhà, quyết định tạt bừa vào một quán café trên đường và nốc vài cốc nước chanh cho tỉnh rượu.
Rồi đùng một cái, tôi thấy mình tỉnh dậy ở nhà vào khi ánh nắng chói chang của buổi trưa xuyên qua khe cửa sổ, như thế đã dịch chuyển tức thời. Đầu tôi đau như búa bổ và không nhớ bất cứ thứ gì đã xảy ra ở khoảng giữa. Một mảng kí ức đã tuột ra khỏi bộ não và rơi tõm xuống cống khi tôi lạng quạng đêm qua. Bộ quần áo vẫn mặc nguyên từ hai mươi tư tiếng trước. Sau khi kiểm tra kĩ lưỡng rằng mình không mất thứ gì quan trọng, các bộ phận trên cơ thể vẫn hoàn toàn nguyên vẹn, gan thận vẫn chưa bị trộm mất thì tôi phát hiện trong ví mình lòi ra một mẩu giấy nhỏ: “Gọi cho em khi dậy”, kèm thêm một số điện thoại ở dưới.
Vì không phải là một người hay uống quá chén, tôi không quen với việc một quãng thời gian đã xảy ra nhưng lại hoàn toàn biến mất - như bị bôi đen trên tấm bảng trí nhớ. Việc cố lục lọi lại nó không đơn thuần chỉ là sự tò mò, mà còn bởi vì gọi cho một cô gái lạ hoắc và bắt đầu bằng câu: “Cô là ai?” đâu phải là giải pháp hay ho cho lắm. Một trường hợp khác có thể xảy ra: rất có thể đây là một trò đùa của lũ bạn chết tiệt hôm qua, và tôi không muốn trở thành nạn nhân ngớ ngẩn sẽ bị trêu chọc khi gọi vào số đó. Tuy nhiên, các nơron não bộ không có gì xuất sắc hơn thường ngày của tôi tê cứng lại, ì độn không chịu làm việc ngay cả khi đã tiếp nhận một lượng cafein lớn. Bất lực, tôi đành bấm máy. Chỉ một hồi chuông rồi im bặt, tôi ngẩn người ngó vào màn hình điện thoại: Connected 00:02, nhưng không có âm thanh nào vang lên từ đầu bên kia. Tôi đành tự lên tiếng trước, cảm thấy hơi rượu phả thẳng lên mũi mình.
“Alo...”
“Anh hỏi ai?” Giọng phụ nữ khiến tôi thở phào.
“Tôi cũng... không biết. Tôi nhận được tờ giấy có số điện thoại này sáng nay khi ngủ dậy.”
“À, anh Phong phải không?”
“Đúng rồi, cô là?” Tôi hơi giật mình.
“Trang. Anh thật sự đã say đến mức quên cả tên em?”
Tôi lúng túng, cứng họng không biết nói gì, tôi đã biết tên cô gái này hôm qua. Còn gì nữa? Tôi lại không sao nhớ hay hình dung ra được.
“Giờ anh tỉnh chưa?” Cô ta nói tiếp khi thấy tôi không trả lời.
“Tôi... ổn. Hôm qua cô đưa tôi về nhà?”
“Không lẽ anh đưa em về nhà?” Cô gái cười vang qua điện thoại.
“Cô có thể kể rõ hơn không vì thật sự là tôi không nhớ gì.” Tôi nói toẹt luôn sự thảm hại của mình ra.
“Được thôi, nhưng không phải qua điện thoại”, tôi gần như nghe được từ đầu bên kia một tiếng cười nho nhỏ nữa. “Mười hai giờ anh đón em nhé. Em sẽ nhắn tin địa chỉ. Đây là số của anh à?”
“Đúng. Mà cô vừa nói mười hai giờ phải không?” Tôi liếc qua đồng hồ. “Bây giờ đã là một giờ mười lăm rồi.”
“Mười hai giờ đêm. Đúng là anh không nhớ gì thật!”
Tôi không tìm ra được cách nào để dập máy một cách bê bối hơn.
Tôi có một ngày vật vờ, uống thật nhiều nước lọc cho loãng số cồn dư còn lại trong người và đọc một cuốn sách cũ của Amélie Nothomb. Đó là một cuốn sách có nội dung tương đối đơn giản được phức tạp hóa lối viết. Toàn bộ cuốn sách chỉ nói về một cô gái Bỉ cố hòa nhập với cuộc sống văn phòng tại Nhật Bản. Chủ đề mờ nhạt được cứu lại đôi chút bởi văn phong hài hước quen thuộc, dễ đọc và dễ tìm thấy một phần hình ảnh của bản thân trong đó. Khi gập cuốn sách lại, tôi đặt cơm, lấy một ít thịt hầm và kim chi trong tủ lạnh, bật máy tính, mở một lon bia, vừa ăn phần cơm trộn vừa tìm kiếm địa chỉ mà Trang đã nhắn tin. Đó là một quán bar nhỏ trong trung tâm thành phố. Không phải đêm nay cô ta sẽ say và chúng tôi đảo vai ngày hôm qua cho nhau chứ? - tôi thầm nghĩ. Tôi xả phần còn lại lon bia vào bồn rửa và tráng bát đĩa qua nước một lần. Đồng hồ chỉ tám giờ ba mươi phút. Tôi quyết định đến thẳng quán bar nơi cô gái lạ đã hẹn. Không khí bên ngoài vẫn lạnh và khô, tôi mặc sơ mi trắng cài cúc, bên ngoài là một chiếc áo nỉ bó màu xanh đậm, khoác áo da đen, quần jeans trơn và xỏ một đôi giày lười da lộn của Pull&Bear. Đó là cách tôi thường mặc khi gặp một người lạ. Tôi cảm thấy đó là kiểu trang phục an toàn, dù người sẽ gặp mặt thuộc tầng lớp nào và có sở thích trái ngược nhau đến đâu, tôi vẫn sẽ cảm thấy hoàn toàn thoải mái.
Tôi ngồi trên taxi, nhìn ngắm những ánh sáng dìu dịu lướt nhanh qua mình, thấy phần lớn thành phố cô đơn ngay trên sự ồn ã và tấp nập của nó. Vài người lững thững đi bộ, khoác trên mình những chiếc áo nỉ dày, kéo cao cổ, không phải để tránh cái lạnh bất ngờ chợt ập đến, mà đủ để không bị người quen bắt gặp và phải gượng gạo cất lên những câu chào hỏi vô nghĩa. Thực sự, chẳng ai muốn bị người khác nhận ra đi bộ một mình trên phố đông, khi chưa kịp đeo chiếc mặt nạ nụ cười và trở về nhà, giả bộ như ngày hôm nay cũng đẹp như ngày hôm qua. Người lái taxi nhìn tôi qua gương chiếu hậu bằng đôi mắt nghi hoặc, tựa như sợ tôi sẽ mở cửa và nhảy thẳng ra ngoài bất cứ lúc nào có thể. Tôi không thích ánh mắt soi mói đó lắm.
“Dừng ở đây được rồi” - tôi nói.
Chiếc taxi dừng lại cách quán bar hai con phố, tôi trả tiền, không nhìn vào mặt người lái taxi, kéo khóa chiếc áo da lên và đi bộ qua dòng người xa lạ. Những hàng quán vỉa hè đang chăng thêm bàn ra khắp các lối đi, như một thứ tơ nhện bủa vây lấy những con côn trùng nhỏ im lặng dạo bước. Đèn từ các cửa hiệu quần áo dần tắt đi, chìm vào sự im lìm của phố cổ. Tiếng một chai bia vỡ từ đâu đó vang lên, hòa vào không gian hỗn độn của những người đang tìm kiếm niềm vui trên phố.
Tôi đứng trước cửa quán bar, kiểm tra địa chỉ trong điện thoại một lần nữa để chắc rằng mình không đến nhầm chỗ. Đó là một quán có lẽ chủ yếu dành cho người nước ngoài với quầy bar rộng và từng hàng ghế cao xếp lộn xộn. Chiếc biển hiệu làm từ gỗ cách điệu gắn những chữ bằng nhựa trong, phản chiếu ánh đèn led nhỏ: Quist. Tôi bước vào và chọn một bàn đơn sát tường nơi có ít ánh sáng nhất. Một cô gái mặc váy ngắn bước lại từ phía quầy bar, dáng đi uốn éo gây cho tôi cảm giác rằng tám mươi phần trăm cô ta sẽ bị vẹo cột sống sau năm ba mươi tuổi, hai mươi phần trăm là trước đó.
“Anh đi mấy người?” cô ta vừa hỏi vừa đẩy một chiếc menu gáy da về phía tôi.
“Một.” Tôi trả lời ngắn nhất có thể, tránh sự chú ý không cần thiết.
“Em ngồi cùng anh nhé?” cô mỉm cười, dường như chỉ chờ có vậy.
“Cảm ơn. Tôi muốn ngồi một mình.”
“Vậy anh uống gì?” cô ta có vẻ chưng hửng.
“Cho tôi một ly Macallan không đá.” Tôi đẩy trả menu về phía trước.
Khi cô gái đã bước đi, tôi mới có cơ hội nhìn quanh. Không gian phía trong rộng hơn tôi tưởng khá nhiều, khách ngồi thưa thớt trên những chiếc ghế gỗ kiểu Texas thập kỉ 1970, bàn là những khối gỗ làm giả thùng rượu vang. Tường được trang trí bằng loại đá cỡ lớn khiến không gian cô đặc lại, trông có vẻ vừa cổ kính vừa nham nhở. Tivi đang chiếu một trận đấu nào đó của giải hạng nhất Đức, dường như không thu hút được sự chú ý của ai trong đám khách hỗn tạp.
Lại một cô gái nữa tiến về phía tôi.
“Anh đi một mình?”
“Và tôi sẽ ngồi một mình. Cảm ơn.”
“Anh sẽ ngồi một mình đến mười hai giờ?”
Tôi ngước mắt lên nhìn cô gái. Chết tiệt. Tôi quên mất là chỉ có tôi không biết mặt Trang, chứ cô thì hoàn toàn nhớ hình dạng của tôi ra sao. Cô ngồi xuống, mỉm cười theo kiểu: Hey, anh đã quên tôi thật sao, đồ khốn!
Trang kể cho tôi rằng cô quen với bạn gái anh đồng nghiệp của tôi, chủ bữa tiệc hôm qua, nói chung là không gần gũi gì lắm. Chúng tôi đã nhìn thấy nhau ở bữa tiệc, trò chuyện theo kiểu mỗi người nhìn một hướng chừng mười phút trước khi tôi bị kéo vào màn uống rượu như tra tấn của mấy gã còn lại. Khi tôi xin phép về trước vì quá say, tình cờ đúng lúc Trang cũng rời bữa tiệc để đi làm. Trên đường đến Quist, cô nhìn thấy tôi nằm gục ở vỉa hè một quán café bên đường. Nhận ra tôi, cô xuống taxi, bằng một năng lực kì diệu nào đó đã khiến tôi khai ra địa chỉ nhà và đưa tôi về tận nơi. Tôi khá ngạc nhiên khi nghe câu chuyện đó, nhưng hoàn toàn đầu hàng với việc cố nhớ thêm bất cứ thứ gì từ buổi tôi blackout trước đó.
Chúng tôi qua lại với nhau chừng hai tháng cho đến khi chính thức trở thành người yêu. Trang làm việc tại Quist sáu ngày mỗi tuần chủ yếu vào buổi tối, trừ Chủ nhật. Tôi qua đó khi rảnh rỗi, uống rượu không pha và xem bóng đá. Thời gian rảnh còn lại cô theo học một lớp vẽ, đi bơi, shopping với vài cô gái khác cùng chỗ làm. Bố mật sớm. Trang sống cùng mẹ tại một căn hộ hai tầng có cầu thang riêng, có thể đi và về bất cứ lúc nào cô muốn. Cô có hoàn cảnh gia đình y hệt như tôi, đó có lẽ là một lí do khiến chúng tôi dễ trở nên đồng cảm với nhau. Mặc dù vẫn sống cạnh mẹ, Trang từng nói với tôi một lần rằng nếu cô có treo cổ tự vẫn thì cũng phải ba ngày sau may ra bà ta mới biết, và có thể cũng chỉ mất ba ngày để quên chuyện đó. Một thời gian sau khi yêu Trang, tôi nhận ra cô có vấn đề trong việc bộc lộ cảm xúc, điều này cũng giống tôi - tất cả bắt nguồn từ một tuổi thơ không mấy dễ chịu. Điểm khác biệt duy nhất là ở chỗ: không như sự đếch thèm quan tâm của mẹ tôi, mẹ Trang thích giữ cô ở cạnh, dù chẳng để làm gì. Thi thoảng khi say xỉn, bà lôi cô ra nện cho một trận. Một người có tuổi thơ như thế thì hẳn sẽ phát triển một cách lệch lạc, cứ nhìn bản thân trong gương là tôi có thể nhận ra điều đó.
Trang kém tôi ba tuổi, nhưng trông cô chỉ như mười bảy, mười tám. Cô có dáng người thanh mảnh và cân đối, nụ cười thường trực trên môi rất dễ khiến người khác hoặc xiêu lòng hoặc gọi thêm rượu, cả hai đều tốt cho công việc. Cô thật sự là một vẻ đẹp được thừa nhận, bản thể trái ngược với Bảo. Điểm chung của cả hai chỉ là mái tóc ngắn và rối, nhưng nếu mái tóc kiểu đó trông kì quái khi lắp và Bảo bao nhiêu thì lại hợp lí đến hoàn hảo khi ở cạnh Trang bấy nhiêu. Cô mang tính cách rất đặc trưng của những cô gái ở lứa tuổi này: dễ nổi giận, tâm lí thất thường, thiếu lập trường trong hầu hết mọi chuyện và đặc biệt không thích lắng nghe người khác.
Việc một kẻ cả ngày chẳng nói đến ba câu như tôi bỗng nhiên có cô bạn gái xinh đẹp khiến tất cả những gã đồng nghiệp ghen tị. Chúng hậm hực nói rằng tôi là con mèo mù vô tình vớ được rỗ cá rán, rằng biết thế không dẫn tôi theo trong bữa tiệc sinh nhật kia. Tôi cười trừ khi nghe mấy điều đó, chẳng bận tâm chút nào về những lời bình phẩm, vì dù sao tôi cũng thích ăn cá rán. Trang nói cô thích tôi vì tôi có một vẻ điềm đạm khác hẳn những gã trai cùng tuổi. “Phần lớn chúng nó đều rớt dãi lòng thòng mỗi khi nhìn thấy gái. Em phát cho mỗi thằng một tờ giấy ướt loại để trẻ con chùa đít.” Trang cười phá lên nói với tôi như vậy. Tôi không biết mình đặc biệt đến mức nào, tôi thậm chí không có tham vọng gì lớn lao trong cuộc đời. Một phần trái tim tôi đã bỏ đi theo Bảo từ rất lâu trước, phần còn lại gắng gượng đập giữ sự sống cho chủ nó. Tôi trao cho Trang phần còn lại đó và nói với cô rằng tôi rất vui khi ở cạnh cô. Khi nói câu đó, tôi nghĩ mình thật lòng nghĩ thế.
“Anh có thấy phiền vì việc em làm thêm tại một quán ba không?” cô hỏi tôi một lần khi đang chờ ở ngoài rạp chiếu phim.
“Không”, tôi lắc đầu, bốc bỏng ngô trong bịch cho vào mồm. Anh không để ý chuyện đó lắm.”
“Thường tất cả lũ đàn ông đều nói thế, nhưng không nghĩ thế.”
“Từ nhỏ tính anh đã không được đàn ông lắm, nên em không phải lo lắng về chuyện đó. Anh thấy bình thường.”
“Anh là con một đúng không?”
“Đúng, em sợ phải chia tài sản với người khác à? Chắc chắn là anh sẽ không được thừa kế gì đâu.”
“Anh có kiểu nói đùa hay thật, mặt cứ anh bơ.”
“Chắc bởi nhiều lúc anh cũng không chắc mình có đang nói đùa không nữa.”
Trang không đọc sách, đó là điểm khác biệt lớn nhất giữa cô và Bảo. Cô thường mất ba mươi phút trước khi ra đường chỉ để vẽ vời đủ thứ lên mặt, đó là điểm khác biệt lớn tiếp theo. Tôi không phải kiểu người quá quan tâm tới vẻ bề ngoài, vì thế thường để mặc cho cô muốn làm gì với chúng cũng được. Tôi cũng không thấy phiền về việc đọc sách một mình, dù sao tôi cũng đã như vậy bốn năm, tính từ lúc Bảo biến mất. Thậm chí, tôi sẽ còn khó chịu hơn nếu có một ai đó ở cạnh và lải nhải lúc tôi đang chăm chú vào thứ gì đó. Trang biết điều đó và cô thường sắp xếp sao cho tôi luôn được đơn độc với nhưng con chữ. Chúng tôi giữ lượng thời gian ở cạnh nhau vừa đủ để không ai thấy nhàm chán, ăn tối khi cùng rảnh, xem phim ở rạp hoặc lái xe ra ngoài thành phố câu cá mỗi cuối tuần.